Tập truyện ngắn "Đôi mắt" gồm 15 tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn sáng tác từ 1941 - 1950 của Nam Cao, bao gồm: Đôi mắt (1948), Chí Phèo (1941), Giang sáng (1942), Đời thừa (1943), Tư cách mõ (1943), Một bữa no (1943), Trẻ con không được ăn thịt chó (1942), Mò sâm banh (1945), Dì Hảo (1941), Xem bói (1943), Nhật ký ở rừng (1948), Ma đưa (1941), Con mèo (1942), Đợi chờ(1948), Trần Cừ (1950). Chỉ với 15 năm cầm bút, Nam Cao đã để lại một văn nghiệp đồ sộ với 2 tiểu thuyết, 50 truyện ngắn, bút ký…, trong đó có những nhân vật như lão Hạc, Bá Kiến, Thị Nở, Chí Phèo, Hộ, Độ, Hoàng … là những hình tượng không thể phai mờ trong tâm trí người đọc nhiều thế hệ. Ông đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học, Nghệ thuật (đợt 1, 1996) cho các tác phẩm: Nhật ký ở rừng, Đôi mắt (truyện ngắn), Sống mòn (tiểu thuyết), Truyện ngắn chọn lọc (xuất bản năm 1964), Chí Phèo (truyện ngắn), Nửa đêm (truyện ngắn).
Xem thêm

Tôi biết nhiều người không thích các tác phẩm của Nam Cao sau năm 1945 vì chúng quá 'cách mạng' và 'cộng sản'."

Tôi thậm chí còn nghĩ rằng Đôi Mắt mang nhiều giá trị lịch sử hơn là giá trị nghệ thuật – nó giống như một tác phẩm mang tính tư liệu, đánh dấu thời điểm Nam Cao bắt đầu làm việc trong quân đội. Bản thân Nam Cao đã thừa nhận rằng trong giai đoạn này, ông viết không phải cho "mình" mà cho người khác, cho "đại cục", cho tuyên truyền giải phóng... Ông gạt cái tôi của mình sang một bên.

Tuy nhiên, tôi không coi Đôi Mắt là một tác phẩm tệ. Nếu trước năm 1945, văn Nam Cao toát lên sự chua chát, cay đắng, thì ở đây: mặc dù được viết với một niềm hy vọng quá mức đến mức "ảo tưởng", tôi vẫn chỉ cảm thấy... buồn trước niềm hy vọng đó – hơn là khó chịu.

Như một người đói khát ngửi thấy mùi cơm sôi, Nam Cao đến với cách mạng với một niềm tin lớn lao. Là một tiểu tư sản, một trí thức yếu mềm với tình yêu sâu đậm dành cho quê hương mình, ông còn có sự lựa chọn nào khác?

Nam Cao bắt đầu viết các tác phẩm trong Đôi Mắt sau năm 1945 cho đến khi mất vào năm 1951. Ông đã nhìn thấy và nghe thấy những điều tốt đẹp nhất của cách mạng. Chúng ta không có quyền trách cứ những trang viết của một con người như thế.

Nam Cao không phải là nhà văn yêu thích của tôi, và tôi nghĩ sẽ rất khó để tôi thích văn phong của ông, nhưng Nam Cao đã để lại ấn tượng tốt trong tôi. Khi đọc văn học Việt Nam, tôi vừa cảm thấy sự gần gũi mộc mạc, vừa bất ngờ vì nền văn học nước ta khai thác rất nhiều khía cạnh của cuộc sống. Việt Nam thực sự đã sản sinh ra những nhà văn vừa tài năng vừa tâm huyết, và Nam Cao là một trong số đó.

Tôi đã đọc rất ít tác phẩm của các nhà văn miền Nam trong thế kỷ trước (mặc dù tôi là người miền Nam, thực sự rất chân chất =_=), nên thật khó để so sánh và đưa ra những nhận xét khách quan, chính xác. Nhưng tôi nghĩ rằng sự chia cắt đất nước trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã tạo ra sự khác biệt (ít nhiều) về tư tưởng và quan điểm chính trị giữa các nhà văn miền Bắc và miền Nam. Đôi Mắt mang dấu ấn của văn học tuyên truyền, tất nhiên khi tôi đủ lớn để có thể nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ hơn, tôi cảm thấy một số điều trong sự tuyên truyền này hơi bị "cường điệu". Nhưng văn phong của Nam Cao không (hoặc chưa) khiến tôi khó chịu hay cảm thấy không thoải mái khi đọc. Tôi vẫn có thể nhận ra tình cảm thiêng liêng trong những gia đình có người thân tham gia kháng chiến, vẫn có thể nhận ra tình cảm giản dị, chân thành mà đồng bào dân tộc dành cho cán bộ, vẫn có thể nhận ra niềm vui trào dâng của những người dân tản cư khi vùng đất họ từng sinh sống được giải phóng, cũng như nhận thấy sự trăn trở của tác giả về việc làm sao để đưa văn học đến gần hơn với nhiều tầng lớp người Việt Nam qua đoạn cuối của truyện ngắn Ở Rừng.

Ba sao không phải là một điểm số tệ, và tôi nghĩ Đôi Mắt xứng đáng với nó. Hy vọng tôi sẽ có thể cho điểm cao hơn sau khi đọc tác phẩm được đánh giá cao nhất của Nam Cao, tập truyện ngắn Chí Phèo.

Đánh giá: 3/5