LOST CONNECTIONS - MẤT KẾT NỐI
Chứng trầm cảm, lo âu và những điều bị bỏ quên
Trầm cảm - căn bệnh của thời đại 4.0
Khái niệm và các triệu chứng của rối loạn trầm cảm đang dần ngày càng trở nên quen thuộc hơn trong xã hội hiện đại, đặc biệt là khi internet và các mạng xã hội trở nên phổ biến hơn. Tuy nhiên, không vì thế mà người ta có cái nhìn đúng đắn hay tích cực về căn bệnh này. Vẫn còn đâu đó có người nghĩ rằng, trầm cảm là một chứng bệnh của những tính cách yếu đuối, của những cơn buồn bã nhất thời, của những tưởng tượng của tuổi vị thành niên hướng nội, Thực tế thì, căn bệnh này ảnh hưởng đến 264 triệu người trên thế giới, và dần được công nhận là một vấn đề y khoa, giống như bệnh tim hoặc tiểu đường.
Chắc hẳn rằng, không ít lần bạn tự hỏi: “Tại sao ngày càng có nhiều người trở nên trầm cảm – trong một thời đại mà nếu xét về mặt vật chất, chúng ta đang ở đỉnh cao chưa từng có trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại và tiện nghi cuộc sống giúp chúng ta dễ dàng kết nối với nhau hơn bao giờ hết? Phải chăng những giá trị mà xã hội và chính chúng ta đang vẽ ra không thực sự đáp ứng được những nhu cầu cơ bản nhất của chính mình? Phải chăng trên con đường tiến hóa, con người đã quên đi những điều thật sự làm mình hạnh phúc?”. Và bạn đã tìm được câu trả lời chưa?
Những viên thuốc điều trị trầm cảm liệu có hiệu quả?
Nếu trước kia sự can thiệp cho căn bệnh chỉ là vài lời khuyên tùy tiện kiểu như “hãy vui lên nào”, “hãy suy nghĩ tích cực”, hay thậm chí là thái độ kỳ thị xem bệnh trạng như biểu hiện tâm lý đặc thù của một giai cấp thị dân nhàn rỗi, khuynh hướng điều trị chiếm ưu thế hiện nay lại mang đầy ảo tưởng về những viên thuốc “thần” có thể giải quyết mọi vấn đề của tâm lý. Khuynh hướng này không chỉ đơn giản là âm mưu thương mại của những tập đoàn dược phẩm toàn cầu mà nó còn phát xuất từ sự lười biếng trong nhận thức và hành vi của mỗi cá nhân, khi chúng ta thèm khát sự dễ dãi của việc uống vài viên thuốc mỗi ngày thay vì đánh giá lại cuộc sống hằng ngày.
Xem thêm
Hari trích dẫn một số nhà nghiên cứu ủng hộ quan điểm của ông, nhưng cách ông diễn giải những phát hiện của họ cho thấy sự thiếu hiểu biết cơ bản về các nguyên tắc của nghiên cứu khoa học. Ông đã đưa ra bằng chứng cho một nhà khoa học rằng ông được một tạp chí bình luận xã hội coi là một trong những nhà khoa học có ảnh hưởng nhất còn sống như thể điều này bằng cách nào đó ủng hộ tính hợp lệ của các lập luận của nhà khoa học này. Ông cũng đưa ra những tuyên bố gây hiểu lầm về cách Sổ tay chẩn đoán và thống kê (DSM) xử lý tình trạng mất mát.
Ông đưa ra giả thuyết đã bị bác bỏ rằng trầm cảm là do thiếu chất dẫn truyền thần kinh serotonin như bằng chứng cho thấy trầm cảm không phải do nguyên nhân sinh học. Giả thuyết này ban đầu được đưa ra để cố gắng giải thích lý do tại sao các loại thuốc ức chế tái hấp thu serotonin lại có ích cho những người bị trầm cảm và vào thời điểm đó không có các kỹ thuật khoa học nào có thể xác minh liệu điều này có chính xác hay không. Từ đó, người ta phát hiện ra rằng bệnh trầm cảm không liên quan đến tình trạng thiếu hụt lượng serotonin tuyệt đối, nhưng thật vô lý khi nói rằng vì các nhà khoa học đưa ra lời giải thích không chính xác cách đây nhiều thập kỷ nên chúng ta nên vứt bỏ cả đứa bé lẫn nước tắm và nói rằng sinh học và chất dẫn truyền thần kinh không liên quan gì đến vấn đề này.