Nay đã là ngày 29/8, ngày buồn nhớ một linh hồn đã khuất. Tôi còn biết gì hơn ngoài việc lần giở những áng thơ sầu của người làm thơ, đem ra soi trong nắng và trong những ngẫm nghĩ.

Lưu Quang Vũ của lòng tôi đã để lại gì trên những chữ thơ? Những người con gái thơm thảo và ngàn lời yêu bình dị. Tôi chọn viết về những nàng thơ của Lưu Quang Vũ, song không phải để bàn về tình yêu đôi lứa lãng mạn, mà để nỗ lực thấu hiểu nội tâm sâu thẳm của thi sĩ. Xin hãy ý thức rằng những bài tôi sắp trích ra đây không là bài thơ tình đơn nghĩa yêu đương, mà là bài ca của tinh thần, của đức tin. Trong tâm hồn mộng mơ giàu suy tưởng, rất trầm tư và sâu lắng kia, những người con gái cụ thể đã được nội tâm hóa thành biểu tượng cho tấm lòng nhà thơ. Hay là, tấm lòng nhà thơ đã được hình tượng hóa trong “em”. Chính nhờ có “em”, tâm tình của nhà thơ chuyển hóa từ hỗn loạn đến bình yên. Nhưng “em” là ai?

“Em” là đức tin trong đau thương; là cái đẹp, cái thiện và lòng yêu hòa bình. Vì thế, “em” xuất hiện trong hai nét phẩm hạnh. Thứ nhất, đó là vẻ đẹp trong trắng, tinh khôi giữa miền tuổi thơ hồn hậu; là biểu tượng cho niềm tin và ước mơ hồn nhiên của thi sĩ những năm trẻ tuổi giữa chiến tranh khốc liệt. Thứ hai, đó là vẻ đẹp điềm tĩnh, vững vàng của mái nhà bình yên; là biểu tượng cho sự già dặn của trí nghĩ, sự thấu hiểu lẽ đời của nhà thơ vào thời bình.

1. Nét phẩm hạnh đầu tiên nằm ở hình ảnh người con gái hồn nhiên nhà thơ luôn hằng hà mong chờ, tìm kiếm:

tìm em buổi sớm mùa thu

nước bên đường trong vắt

tìm em cô gái mười sáu tuổi

hiền như một trái mơ xanh                       

(Em (I))

“Em” là niềm mơ, “em” là tuổi thơ trong văn vắt, là giọt sữa thơm cứu rỗi tâm hồn mỗi người. Với Lưu Quang Vũ, “em” là vệt nối giữa cái tôi cô độc – kẻ một mình trông nhìn nội tâm trong niềm xa cách, tuyệt vọng và cái tôi vững chãi với đức tin ngùn ngụt lửa.”Giấc mông đêm” đã lột tả được “em” một cách trọn vẹn và hoàn hảo nhất. 

Tâm lý chủ thể trữ tình trong bài thơ được thể hiện trong đại từ xưng hô “tôi”.

Ta xưng “tôi” khi ý thức được sự khác biệt của bản ngã giữa cộng đồng. Chữ “tôi” thể hiện nhiều hàm nghĩa: nó cho thấy người xưng “tôi” có ý chí kiên định, vững chãi, độc lập, tự chủ. Song, trong một vài trường hợp cụ thể, nó làm lộ diện nỗi cô đơn xa cách. Với Lưu Quang Vũ, những năm khói bụi lem luốt ngoài chiến trường đã đúc nên trong thơ một cái “tôi” bi ai, tuyệt vọng. 

Tôi một mình thức với canh khuya

Thành phố khép ngàn ô mắt cửa

Những chân xưa chờ lúc vắng trở về

Lần từng bước trên mái nhà khe khẽ 

Một nội tâm điên cuồng, đau đớn vì giấc mộng mị đêm khuya đã đem trở lại những thân phận, những mặt người bị vùi dập trong quá khứ, trong chiến trường khắc nghiệt.

Trong lá động ai nói gì thủ thỉ

Ai than vãn rên rỉ dưới chân giường

Những cái đinh như mắt lạnh mở trừng

Những chiếc ghế bỗng chập chờn chuyển động

Ai đổ mực đen sì trang giấy trắng

Ai viết lên tường những dòng chữ vẹo xiêu

Bàn tay nào trong bóng tối nhăn nheo

Đập lên cửa từng hồi vang động

Giữa ảo ảnh buổi đêm, Lưu Quang Vũ soi rõ từng bóng người, ai cũng méo mó, tàn tạ, ai cũng u buồn, vỡ nát: 

Những bóng gày lặng im

Người ngồi trên cửa sổ chênh vênh 

Người đứng sững khoanh tay buồn bã

Những mặt tái nhìn tôi giận dữ

Những nụ cười giàn giụa miệng run run

Cái “tôi” hỗn loạn thời chiến viết thơ rất u buồn, tan nát. Quá khứ trở về với nó trong ác mộng kinh hoàng, những mảnh ghép của tiềm thức lẫn lộn đan vào nhau: “Những bà thím suốt đời không ngẩng mặt”, “Ông tôi rượu say gác tối khóc cười”, những “đêm giao thừa mù mịt mưa bay”, những “tích tuồng xưa mê mẩn”, “những ông tướng mất thành chết chém”, “Bầy hồ ly hoá gái đẹp trêu người”… 

Hỗn loạn, chỉ toàn ký ức hỗn loạn. Dường như không còn lối thoát nào cho người thi nhân khổ hạnh, kẻ không thể tự cứu vãn khỏi đau thương. Giọng thơ tràn ra cay đắng, u tối, dữ dội, tột cùng cảm xúc. Cấu trúc câu thơ dài ngắn lộn xộn, tràn dòng – theo cơn mê ngủ sôi sục, tột cùng của tâm trí.

Lưu Quang Vũ khi ấy ở vào độ chới với của đức tin, bi quan và kiệt sức, thì “em” xuất hiện như một phản ứng tâm lý đối xứng: trong tận cùng, tột cùng một thái cực cảm xúc, ta liên tưởng ngay đến cái đối lập. Trong lạnh giá, ta nghĩ đến cái ấm áp chói nắng của hè thơm, trong bóng tối mịt mờ, ta nhớ về ánh sáng. Với Lưu Quang Vũ, đau thương tột cùng đã kích hoạt sự liên tưởng đối xứng: “em”. Đó là tận cùng tuyệt vọng trong thế giới đổ nát và miền thơ ngây trong trẻo của em. Đó là nỗi kinh hoàng, choáng ngợp, đau thương và niềm bình yên, vô ưu, hạnh phúc.

Sự xuất hiện của “em” là sự vực dậy của đức tin vào những giờ phút tăm tối nhất. Vậy ra, bài thơ là những nỗ lực đào sâu tâm hồn của một kẻ hoài nghi dằn xé nội tâm, một kẻ mất hướng giữa thời đại mà các giá trị đạo đức tuyệt đối bị va đập. Nói như Nietzsche, đó là thơ của một vì sao hỗn mang: “Ta nói thật cùng các ngươi điều này: phải còn mang theo mình sự hỗn mang, mới có thể làm nảy sinh một ngôi sao lung linh điệu vũ.”. Tâm hồn mẫn cảm là tâm hồn hỗn loạn, và vì thế cũng là tâm hồn thơ.            

Kí ức về “em”, lạch suối nguồn trong mát đã len lỏi vào giữa một tâm hồn tuyệt vọng.

Cô giáo cười, áo dài trắng bay tung

Hoa phượng đỏ lòa xòa trước ngực

Em che mặt, ngón tay đầy vết mực

Em suốt đời cách biệt với lòng tôi

Kẹp tóc rơi trên bậc cửa xa vời

Từ ấy, “em” mở ra bầu trời tuổi thơ êm ái bị cào rách bởi đau thương: 

Lão bán chim lưng gù râu bạc thếch

Anh kẹo bông rách rưới ngố nghê cười 

Những nếp nhăn như dao chém mặt người

Những người bạn chiến đã chết trở về trong mộng mị - “Các cậu trở về…, đau đớn khát khao”. Rồi như vực ra khỏi ngục tối, ảo ảnh Nguyễn Du hiện về nhắn nhủ kẻ viết thơ về chữ “tâm” lớn lao, về lòng quả cảm. Và “em” của thiên lương, và tuổi thơ trong trắng chảy dài trong vô thức:

Những cô gái tôi yêu

Nói cười nghiêng ngả

Những quần áo tôi mặc từ tuổi nhỏ

Những chăn chiếu tôi đã từng đắp ngủ

Bay giữa trời rách vá

Đêm nay về chụp xuống hồn tôi

Những cây đàn tan vỡ ở trên tay

“Em” đã thổi bùng đức tin trở lại. Thơ ư? Ấy là một cuộc đi hành trí nghĩ để tìm ra câu trả lời. Tìm sự khai sáng, tìm phút thức tỉnh, tìm lại thế vững chắc, chỗ bình yên, không còn hỗn mang mà đinh ninh. Cái tôi lúc này ngẩng đầu lên đầy dũng khí, thẳng thừng cất tiếng hỏi:

Muôn người chết đứng lên cùng kẻ sống

Những cánh tay như dấu hỏi chìa ra

Những cánh tay như buồm thẳng vươn xa

Trên biển rộng, đợi một lời giải đáp

Và cất lời phán quyết cuối cùng:

Những mặt người như những quả chuông

Sáng lòe chớp giật.

Quả chuông trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới được xem như là “tín hiệu giao tiếp giữa cõi trời, đất và cõi nhân sinh”, trong “Kinh điển Phật giáo bằng tiếng Pali đồng hóa tiếng nói thánh thần với tiếng chuông vàng…”. Khi đem những lát nghĩa này soi vào thơ Lưu Quang Vũ, có thể thấy thi nhân đã thiêng liêng hóa những thân phận bi kịch - cả người sống lẫn người chết - trong mối giao hòa với đất trời, trong cơn bão lập lòe ánh chớp (“Lửa trộn mưa trong điệu nhảy quay cuồng”). Điều đó cũng có nghĩa là, người thơ một mực đinh ninh vào sức mạnh bất diệt của loài người, bi ai không thể làm vẩn đục được thiên lương, không làm vẩn đục được tuổi thơ và “em” – đức tin vào lòng nhân. Họ mãi là “những bông hoa không chết”. 

Bên cạnh làm dấy lên đức tin trong cái tôi, “em” còn làm biến đổi tâm lý từ “tôi” đến “anh”. Nói như vậy là vì khi cố sắp xếp cho rành mạch nội tâm Lưu Quang Vũ, tôi nhận ra chút ấn tượng trong sự thay đổi đại từ nhân xưng giữa “tôi” và “anh” của nhà thơ. 

Khác với cái “tôi” biệt lập, xa cách, “anh” là đại từ xưng hô dùng trong quan hệ ruột thịt, khi đem dùng với người ngoài trở thành thiện chí bày tỏ tình thân, tình cảm gắn kết, yêu thương với người đối diện. Anh là người cha, người anh, người tình với ý thức trách nhiệm bảo vệ và che chở sự tồn tại của “em” – cái đẹp tinh khiết giữa đời thực bộn bề. Sự chuyển biến cho thấy quá trình trưởng thành của nội tâm thi sĩ. Từ “tôi” đến “anh”, đó là từ nỗi cô độc tự đối diện đến ý thức trách nhiệm giữa mọi người, từ sùng bái đức tin đến đấu tranh vì sự tồn tại của đức tin, từ lòng yêu hòa bình đến sống chết vì hòa bình.

Nhưng điều gì đã làm nên sự chuyển hóa tuyệt diệu đó? Chính là khi thi nhân nhận thức về sự mỏng manh của “em” trong áp lực của sự thật (“em chập chờn đi trên đổ nát”); nhận thức về cái chết dần mòn của “em” trong chiến tranh, “Khi mặt đất mênh mông đầy biển loạn”, “Khi bước chân lầm lạc”, “Khi con người giết nhau”. Người con gái trơ trọi giữa biến động, máu me và loạn lạc là ẩn dụ cho cái mong manh, yếu đuối đáng thương tâm của cái đẹp, cái thiện:

anh lại nhớ về em

cái chấm nhỏ lạ lùng

trên cánh đồng trơ trụi

đôi mắt bàng hoàng như hỏi:

“giết chóc thế còn chưa đủ

các người điên cả hay sao?”       

(Em (I)) 

Làm sao để bảo vệ “em”? Làm sao để bảo vệ đức tin, bảo vệ loài người? Làm sao để bảo vệ những nét phẩm hạnh trong mỗi con người? Lưu Quang Vũ đã chọn nói sự thật. Nói với em sự thật để bảo vệ em. Bằng chất giọng trầm buồn, dịu dàng, xót xa, nhà thơ nói với những tâm hồn ngây ngô về một cuộc đời đầy bụi. Chiến tranh đã để lại những gì trong hình ảnh thơ méo mó đi: “đen xì”, “rách nát”, “sụp”, “cũ”?

Đứng giữa hai ta là những người đã chết

Bóng họ che đen xì cả mặt

Những vết thương rách nát

Những nụ cười từ lâu đã tắt

Như tuổi trẻ sớm tàn trong cay cực của ta

Nói một sự thật ghê rợn, rằng “chẳng có chút mặt trời nào trong nước lạnh”, rằng “tiếng em không át được tiếng bom gầm”, rằng con tàu chở lý tưởng, chở đam mê sục sôi tuổi trẻ, đã tạm ngừng trên cây cầu sụp (“ Ích gì đâu hoa tím của ngày xưa/ Cầu đã sụp con tàu không chạy nữa”). Và ngay cả tình yêu thương cũng không thể cứu vãn những điều đã mất.

Tình yêu ta như tấm vé cũ rồi

Không thể vào rạp hát                   

(Mặt trời trong nước lạnh - 6/ 1972)

Không thể vào rạp hát – không thể bước vào mái nhà của nghệ thuật, cái đẹp và niềm mãn nguyện thiêng liêng.

Không, Lưu Quang Vũ ko bao giờ có ý phủ nhận “em”. Lưu Quang Vũ nói thật là để truyền dạy “em” hãy nhìn toàn diện cuộc đời: có trắng thì có đen, có cái cao thiện thì có cái độc địa xấu xa. Sự thật phức tạp chứa trong nó quá nhiều sắc độ, mà một màu đơn của “em” sẽ không thể kham nổi. Vì thế, nói sự thật là để bảo vệ và nuôi lớn “em”. Theo nghĩa đen, nói sự thật là cách để Lưu Quang Vũ bảo vệ cái trong sạch ở đời, bảo vệ đức tin và ý chí của mình.

Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều

Rách tan cả những làn sương đẹp phủ

Chỉ còn lại những nỗi buồn trơ núi đá

Điều em tin là nhảm nhí mà thôi.                

(Gửi một người bạn gái)

Rồi bằng cái vẻ run run, xót xa, cay đắng, thi sĩ dò hỏi nàng thơ về niềm tin yêu vĩnh viễn. Hỏi vì thiết cần có một lời đinh ninh từ em, hỏi vì tin yêu và mong chờ ở em cái gật đầu không do dự:

Chiếc cốc rơi mọi điều tan vỡ hết

Em có còn mong ước nữa không em? 

Các nhà bình luận gọi tên đó là những “dòng thơ phản chiến trong lòng cuộc chiến”. Song, vì thứ văn chương phản biện ấy rất thịnh hành trong xã hội dân chủ hiện đại, nên lấy gì làm vạch ngăn giữa nghệ thuật chân chính và nghệ thuật tăm tối, đồi bại? Hãy xem xét bình luận của Nelson Mandela: “Lòng dũng cảm không phải là sự vắng mặt của nỗi sợ, mà là sự vinh quang vượt qua nó.” (“Courage was not the absence of fear, but the triumph over it”) và nghĩ về những tác phẩm viết về “những con chim bị gãy cánh” của chúng ta (Diêm Liêm Khoa). Chúng có thật là những áng văn chương của lòng dũng cảm? Trong khi kịch liệt vạch trần, phê phán, chỉ trích sâu cay, bi lụy, sầu não, chúng có nỗ lực vượt qua bóng tối để đến với những miền đất sáng? Chúng có đem đến cho loài người một đức tin, một con đường mở ra chiến thắng quang vinh? Tác phẩm cao đại không chỉ đặt vấn đề về sự thật mà còn nỗ lực giải quyết vấn đề. Xem ra thơ của Lưu Quang Vũ đã có được lòng quả cảm cao đại ấy.

Thôi đừng nói khổ đau và sợ hãi

Hãy vuốt nước mưa trên mặt chảy dài


Ngồi xuống đây em

Những khổ đau dằng dặc

Những tai ương đang diễn ra khủng khiếp

Có chút gì nghĩa lý hay không?            

(“Mặt trời trong nước lạnh”)

 Người một mực trung thành với đức tin về sự tồn tại của cái cao đẹp. Vẫn dịu dàng và đong đầy yêu thương, người viết:

Đừng buồn nữa nhá

Bác thợ mộc nói sai rồi

Nếu cuộc đời này toàn chuyện xấu xa

Tại sao cây táo lại nở hoa

Sao rãnh nước trong veo đến thế?             

(“Phố ta”)

 


Nhưng kìa, nói sự thật không thôi vẫn chưa đủ, những bi thương vẫn dằng dặc trải ra trước mắt người lính trẻ tội nghiệp. Người cảm được nỗi đau (“cổ tôi chừng nghẹn đắng”) mà không thể làm gì (“Nỗi bất lực cứa lòng muôn kính nát”). Trong những giờ phút tan nát, khổ sở, Lưu Quang Vũ lại ướm thân mình vào cái “tôi” xa cách, cô độc. Đọc thơ, ta nghe cái rùng mình nhói đau. Khi cầm ngòi viết, nước mắt của thi nhân có làm nhòe giấy trắng?

Người ta đã đánh em

Trong toa tàu chật chội

Người ta làm nhục em

Dưới bẩn thỉu của những lùm cây tăm tối

Em sẽ nằm trong những nhà giam đầy muỗi

Con chim non trong trắng của tôi ơi.        

 (Tuổi thơ)

Nên vội vàng, cái bản ngã của người anh chở che trỗi dậy, nó khẩn khoản, nức nở nhận lỗi, nó nhìn thấy sự bất lực của mình là một tội đồ, nó nấc thành tiếng van xin được tha thứ - một kẻ si mê cái đẹp bị cuộc đời làm cho tan nát lòng. Câu cảm đầy ắp trong khúc thơ điệp theo nhịp trào dâng mãnh liệt của cảm xúc:

Các em ơi hãy tha thứ cho anh

Những con quay những hòn bi bé nhỏ

Hãy tha thứ, anh xin làm tất cả

Để các em trở về

Để cuộc sống như bức tường tin cậy chở che

Các em vẽ những vòng tròn rực rỡ              

(Khu nhà vắng trẻ con) 

Đối với kẻ làm thơ “rách rưới, bơ phờ, cô độc”, còn gì hạnh phúc hơn là được tồn tại vì một lý tưởng, một đức tin, một điều nghĩa lý. Ấy là dám đương đầu với cái ác để bảo vệ và cứu vớt những “tuổi thơ”, những “con chim non trong trắng”, những “con chim sẻ tóc xù”. Trong bài Ghi vội một đêm 1972, Lưu Quang Vũ xót xa thủ thỉ với đứa trẻ hoảng sợ “ôm chầm lấy anh dưới cầu thang tối” vì tiếng gầm gào của bom đạn giữa đêm:

Đừng sợ, bé em ơi, đừng sợ hãi

Chúng ta cần phải sống

Làm chứng nhân tấn kịch thảm thê này

“Anh” nói như đang khóc”: 

Thành phố thân yêu không nhỏ bé như em

Để anh ôm trong vòng tay che chở

Em ấm áp dịu dàng hơi thở

Nghe run run tim nhỏ đập mong manh

Nghe thơm non mầm nhỏ ngủ yên lành

Thời ấy, chẳng mấy ai lắng nghe để vội tỉnh thức vì những lời đau xót của “anh”. Nhưng nay và mai, tình yêu quảng đại của người thơ sẽ luôn tản ra làm mây trong và nắng ngọt xoa dịu bi ai của con người.

Đức tin lại trở về với “anh” cùng những phẩm hạnh cao thượng, “anh” kiên quyết:

Và chúng ta không có quyền được sợ

Nếu nỗi đau làm ngực anh buốt giá

Nếu những cánh tay buông thõng rã rời

Giấc ngủ trẻ thơ giấc ngủ ngày mai

Sẽ lấy gì làm sưởi ấm?                 

 


2. “Em” -  Nàng thơ của tình nghĩa và mái nhà bình yên:

Tôi không khỏi tự hỏi lòng mình, trong nỗ lực đầy thiện chí của “anh”, “em” có nhận ra? “Em” trong trẻo vô ưu có dám bước những bước chân đầu đi ra khỏi miền cổ tích, nhập vào đời? Lúc này, khi xoay sang biểu tượng thứ hai của hình tượng “em” để tìm lời giải đáp, ta trông thấy “em” đã đổi khác, đã trở thành: người phụ nữ chín chắn, nhân từ - một nàng thơ của tình nghĩa và mái nhà bình yên.

“Em” đổi khác cùng những chuyển biến thời cuộc. Chiến tranh qua đi để lại những gì?

Còn nỗi buồn trống rỗng

Sau một đời chiến tranh

Vẫn chính nhờ có “em”, ở thời bình, thi nhân không bị chết ngạt trong ám ảnh sầu muộn của quá khứ . Hãy điểm lại hành trình trưởng thành nội tâm mà thi sĩ đã cậy vào sự dẫn dắt của “em”: từ cái tôi bi ai, cô độc đến cái tôi quả cảm quyết chí với đức tin của mình; từ cái tôi tự mình đối diện nội tâm đến người anh quảng đại yêu thương và sẵn sàng hi sinh cho lý tưởng. Và ở đoạn thơ tôi sắp sửa trích dẫn đây: “em” dẫn lối nhà thơ trưởng thành từ người anh ra sức bảo vệ sự tồn tại của em, đến anh xem em là chỗ dựa và mái nhà trấn giữ lòng hỗn loạn. “Anh” là người được che chở, người cùng che chở, người cùng “em” vun đắp lý tưởng. Vào độ này, Lưu Quang Vũ đã thôi không bất bình và tuyệt vọng, đã không còn ở tận cùng đau thương. Thời bình để lại những nỗi buồn sâu thẳm, buộc người ta phải chấp nhận và thấu hiểu cuộc đời, gác quá khứ sang bên và vẫn phải tiếp tục sống. Đã thôi không là nỗi đau choáng váng và ngộp thở, chỉ còn lại nỗi buồn triết lý. Thời gian đã tặng cho Lưu Quang Vũ một cái nhìn bao quát nhân từ. Tuổi đời đã tặng cho người nghệ sĩ lãng tửcái già dặn của trí nghĩ. 

Song, chẳng phải bóng dáng “em” đã được nhà thơ nội tâm hóa? Từ miền tuổi thơ trắng trong, thơm thảo, “em” bước ra làm người phụ nữnhân từ rất thực đứng giữa đời.  “Em” nhìn cuộc đời bằng sự thấu hiểu sâu sắc và niềm tin vững chãi. Người con gái ngây ngô thuở nào đã trở thành một phần của nỗi buồn và niềm đau thương:

Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà

Như thác trắng vỡ tan như bạc của trời như bước chân của ký ức

Em vuốt nước mưa chảy ròng trên mặt

Ngoảnh đầu nhìn về đâu?                            

(Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà)

Thi sĩ nay trông nhìn “em” không như nhìn về miền mơ tưởng xa vắng. “Em” thuộc về thực tại trần trụi, đã lẫn với mưa, đã biết buồn, biết thấu hiểu. Giọng thơ trở nên bình tĩnh và trầm lắng. Hãy thử mường tượng về một ngày mưa dài trầm buồn, một ngày mưa tĩnh lặng hiếm hoi sau thời anh hùng chiến đấu khốc liệt và dữ dội, cái lấp đầy trí nghĩ ta không phải là bình yên mà là nỗi buồn da diết bám rễ trong thâm tâm. Những mất mát, những kí ức đen không thể nào xóa nhòa, chúng ùa về cùng làn mưa không ngớt. Trong mạch nhớ xót xa ấy, Lưu Quang Vũ nghĩ về mình trong những định nghĩa: “Bây giờ anh chỉ còn là một chiếc cốc vỡ, một vết thương”

Tựa vào “em” như một đứa trẻ thơ nấp bóng trong vòng tay mẹ, nhà thơ rụt rè hỏi về động lực sống, hỏi để mong chờ cái gật đầu đinh ninh của “em”, hỏi vì tin tưởng vào “em”.

Em bảo cần phải tìm một lý do để sống                                                    

Để gắn bó để lòng mình yên ổn

Thật thế chăng, có thể có không em?

Rồi tự nhủ thầm, nhà thơ viết: “Hãy bình tĩnh, bình tĩnh”.

Chúng ta sẽ chịu được khổ đau sẽ làm việc

Đóng một cái đinh treo một tấm áo

Và yêu nhau dưới một ngọn đèn

Những ngón tay, có thật thế chăng em?


Niềm tin yêu vội trở lại với trang thơ Lưu Quang Vũ. Có phải nhờ “em”, có phải nhờ phút chiêm nghiệm sâu sắc của tuổi trưởng thành? Mưa không còn phiền muộn nữa, mưa mang theo “những khát vọng vô hình”. Và kìa, sắc màu đã trở lại trong bức tranh nhạt nhòa xám trắng của nỗi buồn. Cái màu vàng ấm áp đẫm nước mưa trong hiện lên trong phép liên tưởng “biển lá vàng”, đó chính là dợn hồi sinh rạo rực trong lòng Lưu Quang Vũ.

Mưa như bước chân những khát vọng vô hình

Trên một biển lá vàng đang nổi gió. 


Đã đến lúc khép màn, một cuộc đời chỉ vẹn 40 năm, thi sĩ có lời nào muốn nói? Như là “Lời cuối”, vào năm 1975, trong êm ấm hạnh phúc đời thường cùng nữ sĩ Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ viết cho “em” những dòng tin tưởng và hứa hẹn.

Ở bên anh, trọn vẹn bên anh

Để mai tình yêu là hành lý lên đường

Để nếu có linh hồn

Cũng sẽ không giá lạnh

Và nếu chết là mọi điều đều hết

Hơi thở của em

Như ngọn lửa phập phồng

Như sắc cỏ không ngừng xanh trở lại

Nối phút giây ngắn ngủi với vô cùng.

Và mãi đến cuối đời, anh vẫn trung thành với đức tin vào cái cao thiện thiêng liêng của mình.


Để kết bài, tôi xin có chút ít những bình luận về nghệ thuật: 

Yuval Harari – nhà sử học xứ Israel khi bình luận về viễn cảnh thời đại mới đã không khỏi lo ngại cho số phận của nghệ thuật. Ông cho rằng: 

Vì hệ thống cảm xúc của con người chính là hệ thống hóa sinh – có thể được kích hoạt hoặc tiết chế, công nghệ hiện đại sẽ trở nên rất khéo léo trong việc điều khiển, kích hoạt những cảm xúc nhất định của con người. Nếu nghệ thuật là sự truyền tải và kích thích trải nghiệm cảm xúc, thì trí tuệ nhân tạo trong tương lai không xa có khả năng thống trị nền nghệ thuật. 

(Tóm tắt từ: “...Maybe art is not about inspiring human emotions but if it is, there is a case to be made that in the not – too – distant future, computer will be so good in manipulating human emotions that human artists will find it difficult to compete with them”). 

Nhưng thưa ngài, thật may mắn khi chúng ta được biết rằng: Nghệ thuật chân chính không lấy mục đích chính là kích hoạt sự trải nghiệm những cảm xúc nhất định (điều mà một số các tác phẩm khiêu dâm, kiếm hiệp, trinh thám, kinh dị, biếm họa… rất đỗi thành thạo) mà lấy mục đích chính là kết nối lòng nhân – tình yêu, sự thấu hiểu, lòng đồng điệu và sự chữa lành. Đọc thơ Lưu Quang Vũ, ta kết nối với đức tin cao cả của một người đã khuất, ta kết nối với những cảm xúc độc nhất vô nhị, không phải của ta, nhưng luôn dành cho ta, rồi từ đó soi ra đời trông nhìn loài người (có nội tâm ta) trong cội nguồn nhân bản. Tình nhân đạo và nội tâm độc nhất phải là những kẻ cầm bút viết thơ. Ta yêu cầu thứ văn chương cao đại, không phải chỉ là những lời nhại, những sự sao chép mòn vẹt nhằm thỏa mãn vài cảm xúc tủn mủn, tầm thường của con người

Lời kết :

Tôi sẽ lấy câu châm ngôn của Hippocrates thời cổ đại làm niềm mong mỏi cho sức sống của những áng thơ Lưu Quang Vũ: “Nghệ thuật trường tồn, sự sống ngắn hạn” (Ars longa, vita brevis) – những áng thơ của đức tin và lòng yêu hòa bình. Những áng thơ vì sự kết nối lòng nhân của một vị thần thi ca thiết tha yêu cuộc sống. 

Người cổ đại kể về Apollo trong những chữ: Ánh sáng, Nghệ thuật và Sự chữa lành. Có phải rằng: Tự bao giờ, Lưu Quang Vũ đã là một vị thần Apollo kín đáo ở trong tâm…


Review chi tiết bởi: Nho Minh Uyên - Bookademy

Hình ảnh: Mai Trang - Bookademy

--------------------------------------------------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy

Bạn đam mê viết lách, yêu thích đọc sách và muốn lan toả văn hoá đọc tới cộng đồng của YBOX.VN? Đăng ký để trở thành CTV Bookademy tại link: http://bit.ly/bookademy_ctv

(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ Tên tác giả - Bookademy”. Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.

Xem thêm

Không chỉ ở kịch, mà với thơ, thể loại ông tâm đắc nhất lúc sinh thời , Lưu Quang Vũ vẫn là người đi đầu, người khai mở. Trong thơ, ông bộc lộ một cảm quan tinh nhạy, một trái tim nồng nàn yêu thương và rất mực nhạy cảm, với những băn khoăn, day dứt về con người và cuộc sống. Với thơ, ông được mệnh danh là Người nổi gió, Người đập cửa, Người mở cửa. Ông quan niệm: “ Thơ là bó đuốc đốt thiêu là bàn tay thắp lửa/ Thơ sinh sự với đời không cho ai yên ổn”. Ông đã mang đến thơ ca nửa sau thế kỉ XX một giọng điệu lạ, một nguồn cảm hứng thế sự mà hồi đó có người cho là “lạc điệu”. Nhưng thi sĩ đã sống hết mình với cuộc đời, với đất nước, dám nghĩ đúng mình, dám là mình nên thơ Lưu Quang Vũ đã “phá tung những cái mực thước, khuôn phép, vừa phải, lưng chừng” để có những kết tinh nghệ thuật đáng quý, những bài thơ xuất sắc của nền thơ hiện đại như: Vườn trong phố, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Mây trắng của đời tôi,Và anh tồn tại, Tiếng Việt… Dù là biểu đạt niềm tin yêu trong trẻo hay những trăn trở, dằn vặt, tra vấn… thơ Lưu Quang Vũ đều truyền cảm lạ lùng bởi giọng thơ đắm đuối xuất phát từ một cường độ cảm xúc nồng nàn, qua những hình ảnh mới lạ đầy cảm giác.

Trong con người tài hoa đi đến tận cùng số phận, cống hiến hết mình cho nghệ thuật, không ít kẻ ghen ghét, đố kỵ, giành nhiều trang viết nói về thói hư tật xấu của ông. Tuy nhiên, thói hư, tật xấu ấy tác giả đã đem sang thế giới bên kia, thứ còn lại là những viên ngọc sáng long lanh, quý giá... góp nhặt cho đời. Riêng ở lãnh địa thơ ca, Lưu Quang Vũ có nhiều bài thơ in đậm trong tâm trí người đọc, như “Đất nước đàn bầu”, “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi”, “Nhà chật”, “Vườn trong phố”, “Những bông hoa không chết”; “Tiếng Việt”… Lưu Quang Vũ không chỉ dùng ngòi bút lột tả bộ mặt thật của xã hội qua kịch, chân dung những nhà văn tiền bối bằng phê bình, mà còn thể hiện tư tưởng, tình cảm, thế giới thầm kín qua thơ. Thơ chính là nhịp cầu tư tưởng, thế giới khép kín, nội tâm của người viết đi kèm với những biến động nghiệt ngã, sóng gió và bi thảm. Nói cách khác, cuộc đời Lưu Quang Vũ chính là một tác phẩm nghệ thuật. Nếu đặt trong bối cảnh văn hóa đất nước, ông là hiện thân của thế hệ danh nhân trưởng thành bằng con đường tự học, lớn lên bằng cách tự bươn chải, kiếm sống bằng nhiều nghề, trong đó có cả nghề lao động chân tay thuần túy. “Mây trắng của đời tôi” có thể coi như bản tuyên ngôn về nhân sinh quan, thế giới quan của Lưu Quang Vũ. Mọi quan điểm thẩm mỹ, tư tưởng thi ca đều hiển lộ qua từng câu thơ. Tác phẩm tập trung vẻ đẹp của nhạc điệu, tiết tấu, kết hợp với thế giới hình sắc biến ảo. “Những ngọn lửa vô hình chưa kịp có tên Dòng nhựa trong cây, mùa xuân trong dòng nhựa Cơn gió ấn sau buồm, chân trời sau biển cả Những nhịp cầu Nối hạt cát với ngôi sao…” Nếu như “Nhà chật”: “Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi/ Nếu nằm mơ, em quờ tay là chạm vào thùng gạo…” thể hiện hiện thực trần trụi của cuộc sống thì “Mây trắng của đời tôi” chính là hiện thực của tư tưởng. Nó thoát khỏi những ràng buộc đời thường vươn lên thành phi thường - xuất thế gian - lạc vào cõi vĩnh hằng muôn thuở. Lưu Quang Vũ đặc biệt nhạy cảm với những cung bậc của ngôn ngữ, qua các phương tiện biểu hiện của thi ca và thế giới đi ra từ cánh cửa nội giới. Trong bài thơ “Tiếng Việt”, tác giả đã khám phá ra chân trời mới lạ ẩn sau những cung bậc âm thanh trầm bổng, huyền diệu: “Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh. Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy. Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn. Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối. Tiếng heo may gợi nhớ những con đường...” Xuất phát từ khả năng nhạy cảm, đa cảm với cách thức biểu hiện của phương tiện ngôn từ, Lưu quang Vũ thể hiện một cách tuyệt vời thông qua nghệ thuật trình diễn là kịch nói. Lời thoại nhân vật luôn tràn đầy dư ba, ngân nga như nghệ thuật âm nhạc, lời lẽ thốt lên có khả năng truyền cảm, thẩm thấu, chuyển tải sâu sắc cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Kịch Lưu Quang Vũ phản ánh sâu sắc những vấn đề nóng bỏng mang tính thời sự, tác giả dũng cảm đương đầu trước hiện thực trần trụi bằng bản lĩnh của một con người từng mệnh danh là “không biết sợ”. Song, Kkịch là ngôn ngữ ông nói với thế nhân, còn thơ ca mới là lý tưởng sống. Nhạc sĩ Beethoven vĩ đại thể hiện mình qua chương III những bản Sonate bất tử, còn chương I giống như cuộc trò chuyện với người đời. Chương III tập trung mọi khả năng bùng nổ, tỏa sáng như tinh cầu trên bầu trời đêm. Lưu Quang Vũ với “Mây trắng của đời tôi” đã phác họa thế giới bằng vẻ đẹp thuần khiết, trong suốt, nhẹ tênh, như tâm hồn phiêu lãng tỏa bóng yên lành xuống cuộc đời sóng gió, đi từ cuộc sống nhọc nhằn tới đỉnh cao vinh quang trong tâm thái tiêu dao, nhởn nhơ trên cõi tạm. Lưu Quang Vũ sáng chói như sao băng rồi vụt tắt trên bầu trời nghệ thuật để lại sự ngỡ ngàng, tiếc nuối cho bao người yêu quý, tiếc thương cho tài năng, phẩm cách của một nghệ sĩ lớn. Nhìn cảnh ngang trái đầy rẫy trong xã hội không khỏi chạnh lòng nhớ xót xa và thầm nhủ giá cuộc đời còn có Lưu Quang Vũ. Lưu Quang Vũ đã đi vào cõi bất tử cách đây 30 năm. Ông đã rời “Nhà chật” đi vào nhà trống - cõi mênh mang trong vũ trụ không cùng. “Điều không thể mất” trong gia tài nghệ thuật quý giá đó chính là những tác phẩm bất hủ. Và thơ là phần tinh thoa, tinh túy, như tâm hồn nhẹ thênh thang, trôi bồng bềnh trên trời phiêu lãng của trí tưởng tượng kỳ vĩ. Những năm cuối đời ngắn ngủi, Lưu Quang Vũ làm việc như “bà nhập” với một năng lực “xuất quỷ nhập thần”, khoảng 10 năm cho ra đời gần 50 vở kịch, kèm theo những bài thơ đi cùng năm tháng. Vào thời điểm đó, có người nói: “Vũ sắp bị Giời bắt đi”. Thực tế, Lưu Quang Vũ không bị giời bắt đi mà ra đi vì tai nạn giao thông trong một ngày đầu thu cách nay 30 năm. Nguyễn Trãi từng than thở: “Tuấn kệt như sao buổi sớm. Nhân tài như lá mùa thu”. Lá mùa thu nhân tài trong vườn Nghệ thuật nước nhà vốn đã xác xơ sau mỗi mùa lá rụng và mỗi chiếc lá rụng xuống không khỏi khiến đất trời thêm hoang vu, dẫu biết mùa thu không phải là bất tử!

Nếu qua tập Lưu Quang Vũ - di cảo, chúng ta ngỡ ngàng trước một Lưu Quang Vũ điềm tĩnh và đau đớn về chiến tranh thì ở Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi ta lại nhận thấy một Lưu Quang Vũ tràn đầy tinh thần công dân, đau đáu, nhiệt thành với Tổ quốc, luôn đấu tranh quyết liệt cho sự tốt đẹp và tôn vinh giá trị người, giá trị dân tộc. Những người làm ở Đài Tiếng nói Việt Nam và đông đảo công chúng của Đài, suốt mấy chục năm qua luôn yêu quý, nâng niu và ngân nga bài thơ Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ, như là tác phẩm bất hủ viết riêng cho Đài, cho chương trình Tiếng Thơ của Đài. Không chỉ tài hoa, độc đáo trong lĩnh vực thi ca, văn xuôi Lưu Quang Vũ cũng cho thấy rõ sự đa dạng, biến tấu của một tài năng. Tại đó, ta nhận thấy chất thơ và sự tinh tế trong cảm nhận thấm đẫm trong từng truyện ngắn của Lưu Quang Vũ. Nếu ở những truyện ngắn đầu tay, người đọc nhận thấy tình quê hương, tình người đằm thắm qua cái nhìn trong trẻo khi nói về những vẻ đẹp bình yên đầy ắp kỷ niệm thì ở giai đoạn sau, truyện ngắn Lưu Quang Vũ có sự thay đổi đáng chú ý. Người đọc nhận thấy một Lưu Quang Vũ nhiều trăn trở, suy tư. Bên cạnh loại truyện ngắn mang đậm cảm xúc trữ tình, truyện ngắn Lưu Quang Vũ còn giàu có chất thế sự và triết lý. Không phải ngẫu nhiên mà khi đọc truyện ngắn Anh Thình của Lưu Quang Vũ, nhà văn Nguyễn Minh Châu nhận xét: "Nếu một lúc nào đó, anh bỏ kịch và thơ, đi hẳn vào văn xuôi, chắc là anh vẫn giữ cái ngòi bút chừng mực dung dị, và những truyện của anh chắc chắn sẽ có sức nặng hơn nhiều, và giới văn xuôi lại như giới kịch bây giờ, cứ ngớ ra mà nhìn anh tung hoành...". Có thể nói, làm thơ, viết truyện ngắn, viết báo, dường như ở lĩnh vực nào Lưu Quang Vũ cũng tạo được ấn tượng sâu sắc. Tuy nhiên, vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Lưu Quang Vũ chuyển hướng và nhanh chóng trở thành một hiện tượng nổi bật trong lĩnh vực sân khấu. Đó là những năm chói sáng của anh. Sân khấu Việt Nam hiện đại sôi động hẳn lên, có da có thịt, có hình khối một phần nhờ vào tài năng và lao động nghệ thuật phi thường của Lưu Quang Vũ. Trong khoảng thời gian gần 10 năm, Lưu Quang Vũ đã sáng tác được hơn 50 vở kịch - một khối lượng đồ sộ khiến ai cũng kinh ngạc và chắc chắn, sẽ rất khó có người có thể vượt qua, cả số lượng và chất lượng. Anh nghiễm nhiên là "nhà viết kịch xuất sắc của thời kỳ hiện đại". Sức hấp dẫn và khả năng thu hút của kịch Lưu Quang Vũ trước hết nằm ở tính dấn thân, tính dự báo, tính đối thoại và khát vọng đổi mới. Đó là những tác phẩm đi thẳng vào những vấn đề nóng bỏng nhất của cuộc sống đương đại. Điều đáng nói là Lưu Quang Vũ đã đem đến ngọn lửa của tình yêu và khát vọng, buộc chúng ta phải nghĩ, phải hành động và dám vượt lên mọi khó khăn, thử thách để đổi mới. Kịch Lưu Quang Vũ không dừng lại ở những thuyết lý, khẩu hiệu mà ông đã làm bật lên được quy luật phát triển của đời sống thông qua những xung đột, những chi tiết sống động và đắt giá. Hiệu ứng nghệ thuât mà Lưu Quang Vũ tạo nên gắn liền với sự nhạy bén, thông minh và linh hoạt về bút pháp. Các vở diễn của anh đã góp phần đổi mới tư duy nghệ thuật sân khấu của những người làm nghề và khả năng cảm nhận, chia sẻ, cùng nhập cuộc của công chúng. Nhiều người trong bộ máy công quyền lúc đó cũng để mắt nhiều hơn tới nghệ thuật, tới các vở kịch của anh, những thông điệp mạnh mẽ mà tác phẩm của anh đưa ra. Sẽ không khiên cưỡng khi nói rằng, Lưu Quang Vũ và các vở kịch của anh đã đóng góp một cách riêng, ấn tượng và hiệu quả nhất định vào sự nghiệp đổi mới đất nước ở một giai đoạn khó khăn. Trong gia tài kịch bản sân khấu của Lưu Quang Vũ, số lượng kịch khai thác trực tiếp từ cốt truyện dân gian không nhiều, nhưng hầu hết đó là những vở kịch đạt chất lượng nghệ thuật cao. Người ta nhận thấy ẩn sâu trong nhà viết kịch Lưu Quang Vũ là tầm vóc của một nhà văn hóa. Cho đến nay, có thể coi Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch thể hiện rõ nhất tinh hoa của Lưu Quang Vũ trong lĩnh vực văn học kịch. Vở kịch này được viết từ năm 1981, nhưng cho đến năm 1984, trong không khí đổi mới và dân chủ, mới được ra mắt công chúng. Ngay khi vừa công diễn, vở kịch đã gây chấn động dư luận, tạo ra một không khí tranh luận sôi nổi trên báo chí, giới sân khấu và dư luận xã hội. Năm 1990, Hồn Trương Ba da hàng thịt tham gia Liên hoan Sân khấu quốc tế lần thứ I tại Liên Xô và được đánh giá là vở diễn xuất sắc nhất. Năm 1985, trong các hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc từ Bắc chí Nam, Lưu Quang Vũ có 8 kịch bản tham dự và tất cả đều đoạt giải, trong đó có 6 vở đoạt huy chương Vàng, hai vở đoạt huy chương Bạc. Đây là một kỷ lục mà đến nay chưa ai có thể vượt qua. Tất nhiên, không thể nói mọi tìm tòi, sáng tạo của Lưu Quang Vũ đều đạt tới độ toàn bích. Kịch của anh cũng có những hạn chế nhất định. Đó cũng là lẽ thường, không ai thoát khỏi. Tuy nhiên, điều mà chúng ta ghi nhận, cảm ơn và ngưỡng mộ anh, đó là trách nhiệm công dân, trách nhiệm của người nghệ sỹ trước cuộc sống, trước những vấn đề lớn lao của đất nước. Đặc biệt là sự trồi lên mạnh mẽ trước hoàn cảnh sống khó khăn, cam go của chính người nghệ sỹ. Lưu Quang Vũ không kêu ca, ta thán. Anh lao vào công việc với sự khổ luyện, sáng tạo, thể nghiệm, bứt phá không ngừng nghỉ. Cho đến nay, những điều ấy như là tấm gương, không quá chói sáng, long lanh, nhưng khi đứng trước, buộc bao người phải suy nghĩ, suy tưởng. Sau khi Lưu Quang Vũ ra đi, người ta mới thấy rõ khoảng trống mà anh đã để lại trong lĩnh vực sân khấu là rất lớn, rất lâu và rất khó lấp đầy. Với những đóng góp to lớn và xứng đáng cho nền văn học nghệ thuật nước nhà, gần 10 năm trước, tháng 9/2000, Lưu Quang Vũ được Đảng, Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Đây là một phần thưởng cao quý và rất xứng đáng dành cho sự nghiệp văn học, nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Và mừng thay, tháng 4/2017, người vợ yêu dấu của Lưu Quang Vũ - Nhà thơ Xuân Quỳnh cũng được truy tặng giải thưởng cao quý này. Đây là cặp vợ chồng nghệ sỹ đầu tiên của cả nước cùng được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Với hơn 20 năm cầm bút, bằng sức sáng tạo mãnh liệt và bền bỉ, Lưu Quang Vũ đã để lại một khối lượng tác phẩm phong phú, đa dạng, nhiều giá trị. Trong số những tác phẩm ấy, chắc chắn sẽ có những tác phẩm đã và sẽ vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian, trở thành tài sản tinh thần quý giá cho nhiều thế hệ mai sau. Là một người có viết kịch, làm thơ, làm công tác lý luận, phê bình văn học nghệ thuật, cá nhân tôi đã và đang học được rất nhiều điều từ Lưu Quang Vũ và thực lòng, rất kính trọng và biết ơn Anh. Anh ấy, chị Xuân Quỳnh cháu Quỳnh Thơ đã và sẽ sống cùng chúng ta!/.

Tên của đêm thơ như một cuốn nhật ký lần đầu tiên được công bố. Cứ se sẽ, thật nhẹ nhàng, để anh Vũ, chị Quỳnh không vội đi mất, mãi quyến luyến bên nhau. Như những bức thư tình anh chị viết cho nhau đầy chất thơ và sự tinh tế, đôi khi nặng trĩu trăn trở, giàu thế sự và ưu tư. " Mùa đông này, về với anh, đi bên anh, nằm bên anh trong căn phòng đầy tranh của chúng ta. Về với Mí tuyệt vời của chúng ta. Và chúng ta sẽ viết thư, sợ gì em nhỉ"- Lưu Quang Vũ. "Cuộc sống ngắn ngủi, con người chỉ đi qua cuộc đời như một vệt sáng rồi biến mất, vĩnh viễn. Sống với nhau 12 năm mà ngắn quá dù có vài chục năm nữa ở bên nhau cũng chẳng là dài. Em và anh ngày càng già đi, càng buồn nhiều khi trông thấy những người thân mình ra đi" - Xuân Quỳnh. "Anh thì mãi mãi vẫn thế: vẫn là anh của em với tất cả những nhược điểm và ưu điểm mà anh có, nhưng sẽ mãi mãi yêu thương em, hơn những ngày qua cộng lại"- Lưu Quang Vũ. "Cả đời em, em chỉ muốn cố gắng sao cho cuộc đời anh đỡ nhọc nhằn. Lắm lúc em thấy em không xứng đáng với anh, không phải về tình yêu mà về trí tuệ" - Xuân Quỳnh. Công chúng biết đến Lưu Quang Vũ ở tài năng đa dạng: viết truyện ngắn, viết báo, đặc biệt là một nhà viết kịch xuất sắc. Nhưng khoảng nghệ thuật ít hơn trong số những sáng tác của anh, đó là thơ, lại đong đầy cảm xúc sâu lắng. Có bốn câu trong bài "Mây trắng của đời tôi" được làm lời tựa cho tập thơ cùng tên, cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Lưu Quang Vũ: “Trên mái nhà, cao vút rừng cây/ Trên rừng cây, những đám mây xô giạt/Trên ngày tháng, trên cả niềm cay đắng/ Thơ tôi là mây trắng của đời tôi”. (Trích “Mây trắng của đời tôi”- Lưu Quang Vũ). Cả 1 đời ngắn ngủi tận hiến cho lao động nghệ thuật, Lưu Quang Vũ đã sống hết mình, yêu hết mình. Vũ quan niệm rằng, “sự đầy đủ của cuộc đời con người là ở chỗ tìm thấy tình yêu, mặc dù tình yêu ấy có thể không ở lại cùng ta suốt đời”. Và niềm đau đáu ấy, Vũ mang cả vào thơ, với hình ảnh mây trắng trở đi trở lại: “Mảnh vườn em vẫn là mảnh vườn xanh/Nơi ban đầu lòng ta ươm tổ mật/Nơi ta hái những chùm thơ thứ nhất/Nơi thu sang mây trắng vẫn bay về”. (Trích “Vườn trong phố”- Lưu Quang Vũ). Tại đêm thơ, đạo diễn Hoàng Điệp dành toàn bộ không gian tầng 2 của khu vườn để trưng bày những kỷ vật lần đầu được tiết lộ, nơi “Nhà chật” bám bụi thời gian, thiếu ánh sáng nhưng đầy ắp tiếng cười và tình yêu thương. "Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi Nếu nằm mơ, em quờ tay là chạm vào thùng gạo Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình. (Trích bài thơ "Nhà chật" - Lưu Quang Vũ). "Ngủ nhé Quỳnh ơi, mọi việc để anh làm Anh rửa bát, dọn nhà, xếp lại những trang thơ Quỳnh viết dở Cái tẩu, lọ hoa, mặt bàn tàn thuốc lá Ngủ ngon Quỳnh ơi, gian phòng nhỏ như thuyền…". (Trích "Thơ ru Quỳnh ngủ" - Lưu Quang Vũ). Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ- khi sống giữa đời đã là hai nửa của nhau, hai mảnh ghép tương đối hoàn hảo về trí tuệ, về cảm xúc. Và chuyến đi định mệnh năm 1988 cũng không thể chia lìa, tách rời họ. Đi trên con đường văn chương, Vũ đã viết cho sân khấu Việt trên 50 kịch bản, với nhiều phiên bản ở nhiều sân khấu khác nhau, Quỳnh là "nữ chúa của thơ tình". Để hôm nay, người yêu thơ vẫn ở lại đây cùng Vũ- Quỳnh, để họ vẫn còn ở trong nhau, trong chúng ta…“Phút cuối cùng tay vẫn ở trong tay/ Ta đã có những ngày vui sướng nhất/ Đã uống cả men nồng và rượu chát/ Đã đi qua cùng tận của con đường/ Sau vô biên dẫu chỉ có vô biên/ Buồm đã tới và lúa đồng đã gặt” (Trích Bài hát ấy vẫn còn dang dở- Lưu Quang Vũ). Trong đêm Hà Nội đầu hạ, từng cơn mưa phùn thi thoảng giăng xuống trời đất, nhẹ nhàng như bảy-mươi-mốt của đời thơ Lưu Quang Vũ thấm thoát trôi. Nhưng người yêu thơ Vũ, thơ Quỳnh vẫn như thấy còn đây hình ảnh đôi vợ chồng nghệ sĩ, với tình yêu tha thiết họ dành cho nhau, cho thơ, cho cuộc sống và cho cả đời người…/. Nhà thơ, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ sinh ngày 17/4/1948 tại Phú Thọ, quê gốc là Thành phố Đà Nẵng, là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Nổi tiếng trên văn đàn khá sớm, từ 20 tuổi khi đang tham gia quân ngũ, Lưu Quang Vũ đã in chung với Bằng Việt tập thơ đầu tay Hương cây - Bếp lửa, được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt và các tập thơ tiếp sau này như “Mây trắng của đời tôi”, “Bầy ong trong đêm”. Với hơn 20 năm cầm bút, bằng sức sáng tạo mãnh liệt và bền bỉ, Lưu Quang Vũ đã để lại một khối lượng tác phẩm phong phú, đa dạng, nhiều giá trị, khi tạo ra một hiện tượng trong sân khấu kịch với hàng loạt vở diễn như: Nàng Sita; Hẹn ngày trở lại; Nếu anh không đốt lửa; Hồn Trương Ba da hàng thịt; Lời thề thứ 9; Khoảnh khắc và vô tận; Bệnh sĩ; Tôi và chúng ta... Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000.

Trong bài thơ Giấc mộng đêm Lưu Quang Vũ với trí tưởng tượng bay bổng của mình đã mơ được gặp Thi hào Nguyễn Du và nghe tiền nhân căn dặn: “Anh chớ ngại con đường gian khổ nhất/ Đau nỗi đau của mỗi trái tim người/ Để thơ anh mang lửa đến cho đời/ Trên chữ “tài”, chữ “tâm” kia phải “lớn”. Thực ra, đây chính là những lời tự vấn đầy trăn trở bật lên từ thẳm sâu tiềm thức của Lưu Quang Vũ – một thi sĩ có trái tim vô cùng nhạy cảm và luôn đau đáu, nồng nàn, da diết những yêu thương với cuộc đời và con người. Suốt một đời cầm bút, sáng tác trên nền tảng tinh thần lấy chữ “tâm” làm điểm tựa cơ bản cho nên dẫu chỉ có mặt trên “cõi tạm” bốn mươi năm ngắn ngủi nhưng Lưu Quang Vũ đã để lại một sự nghiệp văn chương đầy ấn tượng trong đó có sự thành công của thơ ca. Song nếu với kịch – một thể loại mà ngay từ những vở công bố đầu tiên đã khiến tên tuổi của Lưu Quang Vũ tỏa sáng, từ đó ông trở thành kịch gia lừng danh nhất trên văn đàn Việt Nam ở thế kỷ XX thì sự nghiệp thơ ca của Lưu Quang Vũ cũng như số phận của chính tác giả đã chịu nhiều nỗi truân chuyên. Lưu Quang Vũ từng ngậm ngùi chia sẻ: “Hàng vạn người biết đến tên Lưu Quang Vũ nhờ sân khấu, nhưng mình không thích bằng có năm trăm người yêu thơ mình. Mình chỉ mong in được một tập thơ thôi…” (Lưu Quang Vũ, Di cảo, 2018, Nxb.Trẻ, Hà Nội, tr.390). Lời tâm sự chân thành cho thấy đối với Lưu Quang Vũ, thơ mới chính là thể loại mà ông đam mê nhất, nhưng cũng đồng thời hé lộ bi kịch đau đớn của người cầm bút. Song, cùng với năm tháng, vẻ đẹp vĩnh hằng trong thơ Lưu Quang Vũ cũng như bản lĩnh, nhân cách nghệ sĩ với “một trái tim trung thực” của ông ngày càng tỏa sáng. Âu đó cũng là điều tuân theo quy luật mà không cường quyền, bạo lực và sự phi lý nào có thể phủ nhận: nghệ thuật đích thực bao giờ cũng là viên ngọc phát ánh hào quang trong tro bụi thời gian. Những vần thơ cất lên từ trái tim chưa bao giờ yên ổn vì tình yêu thương con người của Lưu Quang Vũ như một liên khúc thanh âm phủ đầy nốt lặng, trầm buồn, vang ngân xuyên thấu thời gian, mãi mãi thắp lên trong tâm thức bạn đọc những nỗi buồn, niềm vui, những sẻ chia đau khổ, hạnh phúc cho con người và vì con người – quan tâm đến thân phận con người với tất cả những vui buồn, được mất, hạnh phúc, khổ đau, vinh quang, cay đắng trong kiếp nhân sinh đầy biến đổi và bất an và đó là một trong những hệ giá trị nhân văn sâu sắc nhất khiến thơ Lưu Quang Vũ có sức cuốn hút, say lòng bạn đọc bao thế hệ.

Thơ Lưu Quang Vũ buồn bởi luôn nhìn thẳng vào những nghịch cảnh của đời sống, dẫu viết về tình yêu cũng đau đáu thời cuộc. Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) là kịch tác gia nổi tiếng của Việt Nam. Những năm 1980, ông trở thành hiện tượng trên sân khấu kịch nước nhà với loạt tác phẩm phản ánh thời cuộc như: Mùa hạ cuối cùng, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ, Tôi và chúng ta... Ngoài tài năng sáng tác kịch, Lưu Quang Vũ còn làm thơ. Lưu Quang Vũ viết thơ từ khi còn học phổ thông và sáng tác nở rộ trong giai đoạn 1965 đến 1970 - lúc ông nhập ngũ, phục vụ kháng chiến. Cảm hứng bao trùm phần lớn thơ ông là xót thương số phận dân tộc và cái nhìn trực diện chiến tranh. Trong khi nhiều nhà thơ cùng thế hệ ngợi ca sự hào hùng cuộc chiến thì Lưu Quang Vũ khai thác cái bi kịch, mất mát và đổ vỡ. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nhận định Lưu Quang Vũ như kẻ tách đàn, lạc nhịp trong dàn thế hệ nhà thơ cùng thời. Ông không né tránh những nghịch cảnh chua chát của đời sống. Trong bài Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn, nhà thơ nhìn số phận con người thời loạn lạc: "Gió hú ầm ào qua gạch vỡ/ Người chết vùi thân dưới hố bom/ Kẻ sống bơ vơ không chốn ở/ Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường". Thơ Lưu Quang Vũ là những dằn vặt, đau xót, cô đơn, muốn vượt lên mệt mỏi để tồn tại. Ông xót thương những người dân vô danh. Trong Người cùng tôi, người dân nổi bật với hình ảnh: "Đi chân không, người thêu vạn hài cong/ Mặc vải nâu, người dệt muôn sắc lụa/ Không biết chữ, người làm ra tục ngữ/ Những thuyền to, chuông lớn, những vườn cây". Ở Việt Nam ơi, nhà thơ chạnh lòng cảnh sống lam lũ của người dân: "Những áo quần rách rưới/ Những hàng cây đắm mình vào bóng tối/ Chiều mờ sương leo lắt đèn dầu/ Lũ trẻ ngồi quanh mâm gỗ/ Lèo tèo mì luộc canh rau/ Mấy mươi năm vẫn mái tranh này/ Dòng sông đen nước cạn/ Tiếng loa đầu dốc lạnh/ Tin chiến trận miền xa". "Di cảo Lưu Quang Vũ" xuất bản năm 2008. Nhà thơ Vũ Quần Phương phân tích: "Thơ Lưu Quang Vũ có sức chứa nội tâm rất lớn. Anh đã giúp chúng ta thấy một phía khác của chiến tranh, cái mà - vì cần cổ động cho chiến tranh - cả nền thơ đã phải nén lại và giấu đi. Chúng ta đã đọc những tổn thất về người, về của. Giờ đây, chúng ta đọc thêm những tổn thất của tâm trạng". Hai bài thơ Nói với mình và các bạn và Những chữ được các nhà phê bình ví như tuyên ngôn về tư tưởng, nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Ở Nói với mình và các bạn, nhà thơ phản đối nhiều bạn bè viết những câu thơ "nhạt phèo chiếu lệ", "lời nhàm tai", "điều vô ích" hoặc ngồi tô vẽ hiện thực. Trong Những chữ, Lưu Quang Vũ chú trọng lối viết trần trụi, không lãng mạn hóa câu từ để phản ánh nỗi đau đang trải qua. Bên cạnh mảng thơ nặng nỗi trăn trở về cuộc sống, Lưu Quang Vũ còn sáng tác thơ tình yêu như Gửi một người bạn gái, Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên, Cho Quỳnh những ngày xa, Em vắng... Thơ tình Lưu Quang Vũ nồng nàn, mãnh liệt. Ông luôn thể hiện sự gắn bó, hỗ trợ giữa nhân vật "anh" và "em", cùng dựng xây tổ ấm, vun đắp tình yêu và lao động hiến dâng cho đời. Thế nhưng, dưới vỏ thơ tình vẫn ẩn chứa nỗi niềm của Lưu Quang Vũ về thời cuộc. Ông viết: "Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều/ Rách tan cả những làn sương đẹp phủ/ Chỉ còn lại nỗi buồn trơ núi đá/ Điều em tin là nhảm nhí mà thôi" (Gửi một người bạn gái). Bài thơ là sự đối lập giữa niềm tin trong quá khứ với hiện tại. Nhân vật "em" từng tin vào trời xanh, yên ả nhưng lại phải thấy cảnh "trời đen sầm cửa sập". Hiện thực chiến tranh tàn khốc khiến những mong ước, mộng mơ trở thành thứ tầm thường. Bối cảnh sống trong thơ Lưu Quang Vũ đầy sự thô bạo, bóng đêm, giông bão. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nhận xét thơ tình Lưu Quang Vũ đậm chất tự sự. Nhà thơ như độc thoại nội tâm, hấp dẫn người đọc bởi những điều thật lòng, dễ đồng cảm và sẻ chia. Giọng điệu chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ là đắm đuối, buồn thương. Trong Tiếng Việt, Viết cho em từ cửa biển, Đất nước đàn bầu... câu thơ dồn dập như nỗi day dứt, trăn trở của tác giả. Căn nguyên nỗi buồn đến từ thực tế đời sống đất nước, gia đình. Đó là chiến tranh, sự nghiệp không ổn định, hôn nhân đầu đổ vỡ hay những tiêu cực xã hội bắt đầu nảy sinh. Nỗi buồn ấy lặng lẽ, ngấm sâu, chứ không thể hiện dữ dội, nổi lên bề mặt thơ. Sinh thời, Lưu Quang Vũ mới chỉ được in nửa tập thơ cùng Bằng Việt trong Hương cây - Bếp lửa (1968). Lưu Quang Vũ chỉ kịp đặt tên cho 12 tập thơ, trong đó nhiều tập đã hoàn chỉnh như: Cỏ tóc tiên, Mây trắng của đời tôi, Bầy ong trong đêm sâu, Cuốn sách xếp lầm trang... Năm 2008, gia đình cố thi sĩ cho xuất bản cuốn Di cảo Lưu Quang Vũ, trong đó, lần đầu lượng lớn tác phẩm thơ của ông được công bố. Ông từng viết: "Thơ tôi là mây trắng của đời tôi". Hình tượng "mây" trở đi trở lại trong sáng tác của Lưu Quang Vũ. Nhà nghiên cứu văn học Phạm Xuân Nguyên phân tích "mây" như chở che, làm dịu mát quãng đời buồn nhiều hơn vui của thi sĩ. "Thơ ca đã đi cùng anh suốt năm tháng cuộc đời. Những khoảnh khắc bị dồn đẩy đến cùng, thơ anh luôn muốn tung bứt lên để đối mặt với cảnh ngộ. Tình yêu và thơ ca như phương tiện cứu vớt còn lại trong đời", PGS.TS Lưu Khánh Thơ chia sẻ.

Điểm nổi bật trong thơ tình Lưu Quang Vũ là những cảm xúc tinh tế, dịu dàng chứa chan tình cảm. Không đại ngôn, không ồn ào, náo nhiệt có lẽ bởi đời sống và tính cách của chính nhà thơ là chất liệu để tạo nên những thi phẩm trữ tình: “Giữa bao la đường sá của con người/Thành phố rộng, hồ xa, chiều nổi gió/Ngày chóng tắt, cây vườn mau đổ lá/Khi tàu đông anh lỡ chuyến đi dài/Chỉ một người ở lại với anh thôi/Lúc anh vắng người ấy thường thức đợi/Khi anh khổ chỉ riêng người ấy tới/Anh yên lòng bên lửa ấm yêu thương” (Và anh tồn tại). Trong thơ Lưu Quang Vũ không chỉ hiện lên tình yêu tha thiết, đắm say trong thời chiến, những vất vả, gian lao của thời quá độ mà còn là những trăn trở của một người nghệ sĩ, là dự cảm trước sự thay đổi, chuyển mình với tương lai của dân tộc và bổn phận của nhà thơ trong thời đại mình đang sống: “Một con người không phải chỉ là một cái tên trong hộ khẩu/Một con tốt trong bàn cờ/Một viên gạch một cái đinh/Để treo biển hàng và đặt ghế… Nhưng trước khi có chữ viết/Đã có thơ ca/Như tình yêu thơ đã sinh ra/Không phải vì tiền nhuận bút/Không sợ ngục tù bạo lực/Dù khổ sở dù phiền hà/Thơ không bao giờ câm lặng” (Nếu đó là tội lỗi).

Trong suốt cuộc đời nghệ thuật của mình, Lưu Quang Vũ luôn hiện diện ở vị trí đầu tiên, hàng thứ nhất, cánh chim bay đơn, trước khi trở thành cái trang giấy kỳ lạ, trang-không/chưa-trang, tranggiữa-hai-trang, trong “cuốn sách xếp lầm trang” “rối bời” như lời thơ của ông. Là người tiên phong, Lưu Quang Vũ lập chí và lập ngôn, gián tiếp nhờ cái tôi trữ tình trong thơ, nhân vật trong truyện, diễn viên trong kịch. Khi trực tiếp, ông nói: “Trong quan niệm của tôi, thơ và kịch rất gần nhau. Có lẽ thơ với kịch còn gần nhau hơn là thơ với văn xuôi. Đều là hai thể loại lớn và khó của văn học, thơ và kịch đều là sự sống và thế giới bên trong của con người ở dạng tinh chất, cô đọng và mãnh liệt nhất. Đối với tôi, kịch cũng là một thứ thơ được trình bày trong không gian và thời gian kỳ diệu của sân khấu, thông qua diễn xuất của diễn viên”(2). Sự gặp gỡ giữa thơ và kịch, ở Lưu Quang Vũ, vì vậy, đánh dấu “những ngày đẹp nhất”, khi “người trai phiêu bạt” “mắc nợ những chuyến đi, những giấc mơ điên rồ, những ngọn lửa không có thật” nguyện trở về để viết tặng “vở kịch lớn, bài thơ hay nhất”. Chuyến trở về ấy, không ngờ, lại trở thành chuyến đi, xa, mãi, hoàn hủy một-thân-phận-lưu-đày. Có thể khẳng định, Lưu Quang Vũ là một kẻ đi không dừng lại, tự lần đi, bị đẩy đi, một đám mây phiêu dạt trên vùng trời thành phố thân yêu, tổ quốc bao la thương mến. Nhưng có đích đến. Từ chân trời nghệ thuật này sang chân trời nghệ thuật khác. Trong nỗ lực khám phá không cùng chiều cao sâu cá nhân chiều rộng dài xã hội, thách thức và mời gọi năng lượng sáng tạo. Ông lầm lũi đi, ngạo nghễ đi, và những dấu chân viết nên lai lịch của một Kẻ Khác. Mang một “trái tim trong trắng”, một lý trí và tình cảm lạc lõng và cô độc, sôi sục và thiết tha, dễ hiểu chàng trai 17 tuổi Lưu Quang Vũ sẽ “bầm dập” thế nào khi đi vào cuộc chiến và để cuộc chiến đi qua. Chỉ sau vài năm nhập ngũ, xuất ngũ, va đập với chiến tranh và cuộc đời, đã có một Lưu Quang Vũ hiện lên khác hẳn. Ông nhanh chóng tách ra khỏi dàn đồng ca những nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, lạc quan, trong trẻo, tươi vui, để vùi sâu trong những vần thơ dữ dội, đau đớn, u buồn, xót xa. Cuốn sách xếp lầm trang(3) , Những bông hoa không chết(4) , những tập/bài thơ di cảo là một tiếng thơ khác hẳn, khi nhìn nhận về chiến tranh và cuộc đời. Sự buông bỏ ngợi ca và chối từ chiến tranh, ý thức khắc sâu vào nỗi đau và đổ vỡ, tôn trọng tâm sự và cảnh ngộ cá nhân,… hiện diện một cách đậm đặc trong những trang thơ này. Nó là một nhật ký khác, “nhật ký bằng thơ”, được Lưu Quang Vũ viết ra theo sự thôi thúc của bản thân, tự chữa lành những vết thương do cuộc chiến phạt ngang tuổi xuân của mình: Chúng ta ra đi chiến tranh mùa đông/ Ta kịp biết gì đâu/ Vừa hết trẻ con đã là người lính/ Cô bạn gái cánh tay trần rám nắng/ Ngực phập phồng thở mạnh đến lo âu/ Đừng nói với ta những lời hào nhoáng về chiến tranh/ Tuổi trẻ ta đã qua bạn bè ta đã chết/ Ta đã vượt bao đèo cao chót vót/ Bao điều nhà trường chẳng dậy cho ta/ Nghĩ lại giễu cười những giấc mộng tuổi thơ/ Giờ trong ta vui buồn đều nín lặng/ Một thế hệ cứng đi như thỏi sắt/ Nhưng xoáy ngầm vẫn cuộn ở lòng sông (Những bông hoa không chết).

Có thể nói khi hướng ngòi bút về cuộc sống, kịch Lưu Quang Vũ đã góp một tiếng nói thiết thực vào công cuộc đổi mới đất nước. Nói như nhà phê bình sân khấu Nguyễn Văn Thành, kịch của Lưu Quang Vũ khiến người xem hiện đại được soi mình trong đó, được đối thoại, gợi mở cách giải quyết, được thức tỉnh tinh thần đến mức có thể thay đổi hành vi, nhận thức và lối sống. Đặc biệt là những vở kịch ấy phần nhiều đã đáp ứng được nhu cầu đổi mới của bản thân sân khấu, sự thưởng thức hưởng thụ của khán giả. Tiếng nói của sân khấu là một trong những tiếng nói của văn học nghệ thuật thời kỳ đổi mới. Vai trò của Lưu Quang Vũ trong sự đóng góp đó của sân khấu là một trong những nhân tố đã có những dự báo sớm về sự thay đổi của đất nước. Những yêu cầu khách quan của đất nước và xu thế của thời đại. Anh cộng hưởng thêm tiếng nói trẻ trung hơn và gần với con người hơn, gần với nhân dân hơn. Các tác phẩm của Lưu Quang Vũ không chỉ đơn thuần phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ mà còn thể hiện cách nhìn của tác giả với những trăn trở, suy tư, đòi hỏi với hiện thực, mong mỏi nó tiến tới những chân lý cuộc sống. Ông công khai ngợi ca những tư tưởng mới, lối suy nghĩ mới, cách làm sáng tạo, năng động, đồng thời thẳng thắn phê phán cơ chế quan liêu bao cấp trong nhiều lĩnh vực đời sống và tinh thần của xã hội lúc bấy giờ.

Lưu Quang Vũ đóng vai trò phức hợp về tài năng thể hiện trên nhiều lĩnh vực đa dạng, từ thơ ca, truyện ngắn, phê bình văn học, nghệ thuật cho tới Kịch nói, chưa kể ông còn có phẩm tài của một người từng theo học hội họa. Nói chung, ở lĩnh vực nào, dù nổi danh hay chỉ đơn giản được người thân, bạn bè biết tới, Lưu Quang Vũ đều chứng tỏ khả năng, tài năng xuất chúng. Trong con người tài hoa đi đến tận cùng số phận, cống hiến hết mình cho nghệ thuật, không ít kẻ ghen ghét, đố kỵ, giành nhiều trang viết nói về thói hư tật xấu của ông. Tuy nhiên, thói hư, tật xấu ấy tác giả đã đem sang thế giới bên kia, thứ còn lại là những viên ngọc sáng long lanh, quý giá... góp nhặt cho đời. Riêng ở lãnh địa thơ ca, Lưu Quang Vũ có nhiều bài thơ in đậm trong tâm trí người đọc, như “Đất nước đàn bầu”, “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi”, “Nhà chật”, “Vườn trong phố”, “Những bông hoa không chết”; “Tiếng Việt”… Lưu Quang Vũ không chỉ dùng ngòi bút lột tả bộ mặt thật của xã hội qua kịch, chân dung những nhà văn tiền bối bằng phê bình, mà còn thể hiện tư tưởng, tình cảm, thế giới thầm kín qua thơ. Thơ chính là nhịp cầu tư tưởng, thế giới khép kín, nội tâm của người viết đi kèm với những biến động nghiệt ngã, sóng gió và bi thảm. Nói cách khác, cuộc đời Lưu Quang Vũ chính là một tác phẩm nghệ thuật. Nếu đặt trong bối cảnh văn hóa đất nước, ông là hiện thân của thế hệ danh nhân trưởng thành bằng con đường tự học, lớn lên bằng cách tự bươn chải, kiếm sống bằng nhiều nghề, trong đó có cả nghề lao động chân tay thuần túy.