Nay đã là ngày 29/8, ngày buồn nhớ một linh hồn đã khuất. Tôi còn biết gì hơn ngoài việc lần giở những áng thơ sầu của người làm thơ, đem ra soi trong nắng và trong những ngẫm nghĩ.
Lưu Quang Vũ của lòng tôi đã để lại gì trên những chữ thơ? Những người con gái thơm thảo và ngàn lời yêu bình dị. Tôi chọn viết về những nàng thơ của Lưu Quang Vũ, song không phải để bàn về tình yêu đôi lứa lãng mạn, mà để nỗ lực thấu hiểu nội tâm sâu thẳm của thi sĩ. Xin hãy ý thức rằng những bài tôi sắp trích ra đây không là bài thơ tình đơn nghĩa yêu đương, mà là bài ca của tinh thần, của đức tin. Trong tâm hồn mộng mơ giàu suy tưởng, rất trầm tư và sâu lắng kia, những người con gái cụ thể đã được nội tâm hóa thành biểu tượng cho tấm lòng nhà thơ. Hay là, tấm lòng nhà thơ đã được hình tượng hóa trong “em”. Chính nhờ có “em”, tâm tình của nhà thơ chuyển hóa từ hỗn loạn đến bình yên. Nhưng “em” là ai?
“Em” là đức tin trong đau thương; là cái đẹp, cái thiện và lòng yêu hòa bình. Vì thế, “em” xuất hiện trong hai nét phẩm hạnh. Thứ nhất, đó là vẻ đẹp trong trắng, tinh khôi giữa miền tuổi thơ hồn hậu; là biểu tượng cho niềm tin và ước mơ hồn nhiên của thi sĩ những năm trẻ tuổi giữa chiến tranh khốc liệt. Thứ hai, đó là vẻ đẹp điềm tĩnh, vững vàng của mái nhà bình yên; là biểu tượng cho sự già dặn của trí nghĩ, sự thấu hiểu lẽ đời của nhà thơ vào thời bình.
tìm em buổi sớm mùa thu
nước bên đường trong vắt
tìm em cô gái mười sáu tuổi
hiền như một trái mơ xanh
(Em (I))
“Em” là niềm mơ, “em” là tuổi thơ trong văn vắt, là giọt sữa thơm cứu rỗi tâm hồn mỗi người. Với Lưu Quang Vũ, “em” là vệt nối giữa cái tôi cô độc – kẻ một mình trông nhìn nội tâm trong niềm xa cách, tuyệt vọng – và cái tôi vững chãi với đức tin ngùn ngụt lửa.”Giấc mông đêm” đã lột tả được “em” một cách trọn vẹn và hoàn hảo nhất.
Tâm lý chủ thể trữ tình trong bài thơ được thể hiện trong đại từ xưng hô “tôi”.
Ta xưng “tôi” khi ý thức được sự khác biệt của bản ngã giữa cộng đồng. Chữ “tôi” thể hiện nhiều hàm nghĩa: nó cho thấy người xưng “tôi” có ý chí kiên định, vững chãi, độc lập, tự chủ. Song, trong một vài trường hợp cụ thể, nó làm lộ diện nỗi cô đơn xa cách. Với Lưu Quang Vũ, những năm khói bụi lem luốt ngoài chiến trường đã đúc nên trong thơ một cái “tôi” bi ai, tuyệt vọng.
Tôi một mình thức với canh khuya
Thành phố khép ngàn ô mắt cửa
Những chân xưa chờ lúc vắng trở về
Lần từng bước trên mái nhà khe khẽ
Một nội tâm điên cuồng, đau đớn vì giấc mộng mị đêm khuya đã đem trở lại những thân phận, những mặt người bị vùi dập trong quá khứ, trong chiến trường khắc nghiệt.
Trong lá động ai nói gì thủ thỉ
Ai than vãn rên rỉ dưới chân giường
Những cái đinh như mắt lạnh mở trừng
Những chiếc ghế bỗng chập chờn chuyển động
Ai đổ mực đen sì trang giấy trắng
Ai viết lên tường những dòng chữ vẹo xiêu
Bàn tay nào trong bóng tối nhăn nheo
Đập lên cửa từng hồi vang động
Giữa ảo ảnh buổi đêm, Lưu Quang Vũ soi rõ từng bóng người, ai cũng méo mó, tàn tạ, ai cũng u buồn, vỡ nát:
Những bóng gày lặng im
Người ngồi trên cửa sổ chênh vênh
Người đứng sững khoanh tay buồn bã
Những mặt tái nhìn tôi giận dữ
Những nụ cười giàn giụa miệng run run
Cái “tôi” hỗn loạn thời chiến viết thơ rất u buồn, tan nát. Quá khứ trở về với nó trong ác mộng kinh hoàng, những mảnh ghép của tiềm thức lẫn lộn đan vào nhau: “Những bà thím suốt đời không ngẩng mặt”, “Ông tôi rượu say gác tối khóc cười”, những “đêm giao thừa mù mịt mưa bay”, những “tích tuồng xưa mê mẩn”, “những ông tướng mất thành chết chém”, “Bầy hồ ly hoá gái đẹp trêu người”…
Hỗn loạn, chỉ toàn ký ức hỗn loạn. Dường như không còn lối thoát nào cho người thi nhân khổ hạnh, kẻ không thể tự cứu vãn khỏi đau thương. Giọng thơ tràn ra cay đắng, u tối, dữ dội, tột cùng cảm xúc. Cấu trúc câu thơ dài ngắn lộn xộn, tràn dòng – theo cơn mê ngủ sôi sục, tột cùng của tâm trí.
Lưu Quang Vũ khi ấy ở vào độ chới với của đức tin, bi quan và kiệt sức, thì “em” xuất hiện như một phản ứng tâm lý đối xứng: trong tận cùng, tột cùng một thái cực cảm xúc, ta liên tưởng ngay đến cái đối lập. Trong lạnh giá, ta nghĩ đến cái ấm áp chói nắng của hè thơm, trong bóng tối mịt mờ, ta nhớ về ánh sáng. Với Lưu Quang Vũ, đau thương tột cùng đã kích hoạt sự liên tưởng đối xứng: “em”. Đó là tận cùng tuyệt vọng trong thế giới đổ nát và miền thơ ngây trong trẻo của em. Đó là nỗi kinh hoàng, choáng ngợp, đau thương và niềm bình yên, vô ưu, hạnh phúc.
Sự xuất hiện của “em” là sự vực dậy của đức tin vào những giờ phút tăm tối nhất. Vậy ra, bài thơ là những nỗ lực đào sâu tâm hồn của một kẻ hoài nghi dằn xé nội tâm, một kẻ mất hướng giữa thời đại mà các giá trị đạo đức tuyệt đối bị va đập. Nói như Nietzsche, đó là thơ của một vì sao hỗn mang: “Ta nói thật cùng các ngươi điều này: phải còn mang theo mình sự hỗn mang, mới có thể làm nảy sinh một ngôi sao lung linh điệu vũ.”. Tâm hồn mẫn cảm là tâm hồn hỗn loạn, và vì thế cũng là tâm hồn thơ.
Kí ức về “em”, lạch suối nguồn trong mát đã len lỏi vào giữa một tâm hồn tuyệt vọng.
Cô giáo cười, áo dài trắng bay tung
Hoa phượng đỏ lòa xòa trước ngực
Em che mặt, ngón tay đầy vết mực
Em suốt đời cách biệt với lòng tôi
Kẹp tóc rơi trên bậc cửa xa vời
Từ ấy, “em” mở ra bầu trời tuổi thơ êm ái bị cào rách bởi đau thương:
Lão bán chim lưng gù râu bạc thếch
Anh kẹo bông rách rưới ngố nghê cười
Những nếp nhăn như dao chém mặt người
Những người bạn chiến đã chết trở về trong mộng mị - “Các cậu trở về…, đau đớn khát khao”. Rồi như vực ra khỏi ngục tối, ảo ảnh Nguyễn Du hiện về nhắn nhủ kẻ viết thơ về chữ “tâm” lớn lao, về lòng quả cảm. Và “em” của thiên lương, và tuổi thơ trong trắng chảy dài trong vô thức:
Những cô gái tôi yêu
Nói cười nghiêng ngả
Những quần áo tôi mặc từ tuổi nhỏ
Những chăn chiếu tôi đã từng đắp ngủ
Bay giữa trời rách vá
Đêm nay về chụp xuống hồn tôi
Những cây đàn tan vỡ ở trên tay
“Em” đã thổi bùng đức tin trở lại. Thơ ư? Ấy là một cuộc đi hành trí nghĩ để tìm ra câu trả lời. Tìm sự khai sáng, tìm phút thức tỉnh, tìm lại thế vững chắc, chỗ bình yên, không còn hỗn mang mà đinh ninh. Cái tôi lúc này ngẩng đầu lên đầy dũng khí, thẳng thừng cất tiếng hỏi:
Muôn người chết đứng lên cùng kẻ sống
Những cánh tay như dấu hỏi chìa ra
Những cánh tay như buồm thẳng vươn xa
Trên biển rộng, đợi một lời giải đáp
Và cất lời phán quyết cuối cùng:
Những mặt người như những quả chuông
Sáng lòe chớp giật.
Quả chuông trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới được xem như là “tín hiệu giao tiếp giữa cõi trời, đất và cõi nhân sinh”, trong “Kinh điển Phật giáo bằng tiếng Pali đồng hóa tiếng nói thánh thần với tiếng chuông vàng…”. Khi đem những lát nghĩa này soi vào thơ Lưu Quang Vũ, có thể thấy thi nhân đã thiêng liêng hóa những thân phận bi kịch - cả người sống lẫn người chết - trong mối giao hòa với đất trời, trong cơn bão lập lòe ánh chớp (“Lửa trộn mưa trong điệu nhảy quay cuồng”). Điều đó cũng có nghĩa là, người thơ một mực đinh ninh vào sức mạnh bất diệt của loài người, bi ai không thể làm vẩn đục được thiên lương, không làm vẩn đục được tuổi thơ và “em” – đức tin vào lòng nhân. Họ mãi là “những bông hoa không chết”.
Bên cạnh làm dấy lên đức tin trong cái tôi, “em” còn làm biến đổi tâm lý từ “tôi” đến “anh”. Nói như vậy là vì khi cố sắp xếp cho rành mạch nội tâm Lưu Quang Vũ, tôi nhận ra chút ấn tượng trong sự thay đổi đại từ nhân xưng giữa “tôi” và “anh” của nhà thơ.
Khác với cái “tôi” biệt lập, xa cách, “anh” là đại từ xưng hô dùng trong quan hệ ruột thịt, khi đem dùng với người ngoài trở thành thiện chí bày tỏ tình thân, tình cảm gắn kết, yêu thương với người đối diện. Anh là người cha, người anh, người tình với ý thức trách nhiệm bảo vệ và che chở sự tồn tại của “em” – cái đẹp tinh khiết giữa đời thực bộn bề. Sự chuyển biến cho thấy quá trình trưởng thành của nội tâm thi sĩ. Từ “tôi” đến “anh”, đó là từ nỗi cô độc tự đối diện đến ý thức trách nhiệm giữa mọi người, từ sùng bái đức tin đến đấu tranh vì sự tồn tại của đức tin, từ lòng yêu hòa bình đến sống chết vì hòa bình.
Nhưng điều gì đã làm nên sự chuyển hóa tuyệt diệu đó? Chính là khi thi nhân nhận thức về sự mỏng manh của “em” trong áp lực của sự thật (“em chập chờn đi trên đổ nát”); nhận thức về cái chết dần mòn của “em” trong chiến tranh, “Khi mặt đất mênh mông đầy biển loạn”, “Khi bước chân lầm lạc”, “Khi con người giết nhau”. Người con gái trơ trọi giữa biến động, máu me và loạn lạc là ẩn dụ cho cái mong manh, yếu đuối đáng thương tâm của cái đẹp, cái thiện:
anh lại nhớ về em
cái chấm nhỏ lạ lùng
trên cánh đồng trơ trụi
đôi mắt bàng hoàng như hỏi:
“giết chóc thế còn chưa đủ
các người điên cả hay sao?”
(Em (I))
Làm sao để bảo vệ “em”? Làm sao để bảo vệ đức tin, bảo vệ loài người? Làm sao để bảo vệ những nét phẩm hạnh trong mỗi con người? Lưu Quang Vũ đã chọn nói sự thật. Nói với em sự thật để bảo vệ em. Bằng chất giọng trầm buồn, dịu dàng, xót xa, nhà thơ nói với những tâm hồn ngây ngô về một cuộc đời đầy bụi. Chiến tranh đã để lại những gì trong hình ảnh thơ méo mó đi: “đen xì”, “rách nát”, “sụp”, “cũ”?
Đứng giữa hai ta là những người đã chết
Bóng họ che đen xì cả mặt
Những vết thương rách nát
Những nụ cười từ lâu đã tắt
Như tuổi trẻ sớm tàn trong cay cực của ta
Nói một sự thật ghê rợn, rằng “chẳng có chút mặt trời nào trong nước lạnh”, rằng “tiếng em không át được tiếng bom gầm”, rằng con tàu chở lý tưởng, chở đam mê sục sôi tuổi trẻ, đã tạm ngừng trên cây cầu sụp (“ Ích gì đâu hoa tím của ngày xưa/ Cầu đã sụp con tàu không chạy nữa”). Và ngay cả tình yêu thương cũng không thể cứu vãn những điều đã mất.
Tình yêu ta như tấm vé cũ rồi
Không thể vào rạp hát
(Mặt trời trong nước lạnh - 6/ 1972)
Không thể vào rạp hát – không thể bước vào mái nhà của nghệ thuật, cái đẹp và niềm mãn nguyện thiêng liêng.
Không, Lưu Quang Vũ ko bao giờ có ý phủ nhận “em”. Lưu Quang Vũ nói thật là để truyền dạy “em” hãy nhìn toàn diện cuộc đời: có trắng thì có đen, có cái cao thiện thì có cái độc địa xấu xa. Sự thật phức tạp chứa trong nó quá nhiều sắc độ, mà một màu đơn của “em” sẽ không thể kham nổi. Vì thế, nói sự thật là để bảo vệ và nuôi lớn “em”. Theo nghĩa đen, nói sự thật là cách để Lưu Quang Vũ bảo vệ cái trong sạch ở đời, bảo vệ đức tin và ý chí của mình.
Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều
Rách tan cả những làn sương đẹp phủ
Chỉ còn lại những nỗi buồn trơ núi đá
Điều em tin là nhảm nhí mà thôi.
(Gửi một người bạn gái)
Rồi bằng cái vẻ run run, xót xa, cay đắng, thi sĩ dò hỏi nàng thơ về niềm tin yêu vĩnh viễn. Hỏi vì thiết cần có một lời đinh ninh từ em, hỏi vì tin yêu và mong chờ ở em cái gật đầu không do dự:
Chiếc cốc rơi mọi điều tan vỡ hết
Em có còn mong ước nữa không em?
Các nhà bình luận gọi tên đó là những “dòng thơ phản chiến trong lòng cuộc chiến”. Song, vì thứ văn chương phản biện ấy rất thịnh hành trong xã hội dân chủ hiện đại, nên lấy gì làm vạch ngăn giữa nghệ thuật chân chính và nghệ thuật tăm tối, đồi bại? Hãy xem xét bình luận của Nelson Mandela: “Lòng dũng cảm không phải là sự vắng mặt của nỗi sợ, mà là sự vinh quang vượt qua nó.” (“Courage was not the absence of fear, but the triumph over it”) và nghĩ về những tác phẩm viết về “những con chim bị gãy cánh” của chúng ta (Diêm Liêm Khoa). Chúng có thật là những áng văn chương của lòng dũng cảm? Trong khi kịch liệt vạch trần, phê phán, chỉ trích sâu cay, bi lụy, sầu não, chúng có nỗ lực vượt qua bóng tối để đến với những miền đất sáng? Chúng có đem đến cho loài người một đức tin, một con đường mở ra chiến thắng quang vinh? Tác phẩm cao đại không chỉ đặt vấn đề về sự thật mà còn nỗ lực giải quyết vấn đề. Xem ra thơ của Lưu Quang Vũ đã có được lòng quả cảm cao đại ấy.
Thôi đừng nói khổ đau và sợ hãi
Hãy vuốt nước mưa trên mặt chảy dài
Ngồi xuống đây em
Những khổ đau dằng dặc
Những tai ương đang diễn ra khủng khiếp
Có chút gì nghĩa lý hay không?
(“Mặt trời trong nước lạnh”)
Người một mực trung thành với đức tin về sự tồn tại của cái cao đẹp. Vẫn dịu dàng và đong đầy yêu thương, người viết:
Đừng buồn nữa nhá
Bác thợ mộc nói sai rồi
Nếu cuộc đời này toàn chuyện xấu xa
Tại sao cây táo lại nở hoa
Sao rãnh nước trong veo đến thế?
(“Phố ta”)
Nhưng kìa, nói sự thật không thôi vẫn chưa đủ, những bi thương vẫn dằng dặc trải ra trước mắt người lính trẻ tội nghiệp. Người cảm được nỗi đau (“cổ tôi chừng nghẹn đắng”) mà không thể làm gì (“Nỗi bất lực cứa lòng muôn kính nát”). Trong những giờ phút tan nát, khổ sở, Lưu Quang Vũ lại ướm thân mình vào cái “tôi” xa cách, cô độc. Đọc thơ, ta nghe cái rùng mình nhói đau. Khi cầm ngòi viết, nước mắt của thi nhân có làm nhòe giấy trắng?
Người ta đã đánh em
Trong toa tàu chật chội
Người ta làm nhục em
Dưới bẩn thỉu của những lùm cây tăm tối
Em sẽ nằm trong những nhà giam đầy muỗi
Con chim non trong trắng của tôi ơi.
(Tuổi thơ)
Nên vội vàng, cái bản ngã của người anh chở che trỗi dậy, nó khẩn khoản, nức nở nhận lỗi, nó nhìn thấy sự bất lực của mình là một tội đồ, nó nấc thành tiếng van xin được tha thứ - một kẻ si mê cái đẹp bị cuộc đời làm cho tan nát lòng. Câu cảm đầy ắp trong khúc thơ điệp theo nhịp trào dâng mãnh liệt của cảm xúc:
Các em ơi hãy tha thứ cho anh
Những con quay những hòn bi bé nhỏ
Hãy tha thứ, anh xin làm tất cả
Để các em trở về
Để cuộc sống như bức tường tin cậy chở che
Các em vẽ những vòng tròn rực rỡ
(Khu nhà vắng trẻ con)
Đối với kẻ làm thơ “rách rưới, bơ phờ, cô độc”, còn gì hạnh phúc hơn là được tồn tại vì một lý tưởng, một đức tin, một điều nghĩa lý. Ấy là dám đương đầu với cái ác để bảo vệ và cứu vớt những “tuổi thơ”, những “con chim non trong trắng”, những “con chim sẻ tóc xù”. Trong bài Ghi vội một đêm 1972, Lưu Quang Vũ xót xa thủ thỉ với đứa trẻ hoảng sợ “ôm chầm lấy anh dưới cầu thang tối” vì tiếng gầm gào của bom đạn giữa đêm:
Đừng sợ, bé em ơi, đừng sợ hãi
Chúng ta cần phải sống
Làm chứng nhân tấn kịch thảm thê này
“Anh” nói như đang khóc”:
Thành phố thân yêu không nhỏ bé như em
Để anh ôm trong vòng tay che chở
Em ấm áp dịu dàng hơi thở
Nghe run run tim nhỏ đập mong manh
Nghe thơm non mầm nhỏ ngủ yên lành
Thời ấy, chẳng mấy ai lắng nghe để vội tỉnh thức vì những lời đau xót của “anh”. Nhưng nay và mai, tình yêu quảng đại của người thơ sẽ luôn tản ra làm mây trong và nắng ngọt xoa dịu bi ai của con người.
Đức tin lại trở về với “anh” cùng những phẩm hạnh cao thượng, “anh” kiên quyết:
Và chúng ta không có quyền được sợ
Nếu nỗi đau làm ngực anh buốt giá
Nếu những cánh tay buông thõng rã rời
Giấc ngủ trẻ thơ giấc ngủ ngày mai
Sẽ lấy gì làm sưởi ấm?
Tôi không khỏi tự hỏi lòng mình, trong nỗ lực đầy thiện chí của “anh”, “em” có nhận ra? “Em” trong trẻo vô ưu có dám bước những bước chân đầu đi ra khỏi miền cổ tích, nhập vào đời? Lúc này, khi xoay sang biểu tượng thứ hai của hình tượng “em” để tìm lời giải đáp, ta trông thấy “em” đã đổi khác, đã trở thành: người phụ nữ chín chắn, nhân từ - một nàng thơ của tình nghĩa và mái nhà bình yên.
Còn nỗi buồn trống rỗng
Sau một đời chiến tranh
Vẫn chính nhờ có “em”, ở thời bình, thi nhân không bị chết ngạt trong ám ảnh sầu muộn của quá khứ . Hãy điểm lại hành trình trưởng thành nội tâm mà thi sĩ đã cậy vào sự dẫn dắt của “em”: từ cái tôi bi ai, cô độc đến cái tôi quả cảm quyết chí với đức tin của mình; từ cái tôi tự mình đối diện nội tâm đến người anh quảng đại yêu thương và sẵn sàng hi sinh cho lý tưởng. Và ở đoạn thơ tôi sắp sửa trích dẫn đây: “em” dẫn lối nhà thơ trưởng thành từ người anh ra sức bảo vệ sự tồn tại của em, đến anh xem em là chỗ dựa và mái nhà trấn giữ lòng hỗn loạn. “Anh” là người được che chở, người cùng che chở, người cùng “em” vun đắp lý tưởng. Vào độ này, Lưu Quang Vũ đã thôi không bất bình và tuyệt vọng, đã không còn ở tận cùng đau thương. Thời bình để lại những nỗi buồn sâu thẳm, buộc người ta phải chấp nhận và thấu hiểu cuộc đời, gác quá khứ sang bên và vẫn phải tiếp tục sống. Đã thôi không là nỗi đau choáng váng và ngộp thở, chỉ còn lại nỗi buồn triết lý. Thời gian đã tặng cho Lưu Quang Vũ một cái nhìn bao quát nhân từ. Tuổi đời đã tặng cho người nghệ sĩ lãng tửcái già dặn của trí nghĩ.
Song, chẳng phải bóng dáng “em” đã được nhà thơ nội tâm hóa? Từ miền tuổi thơ trắng trong, thơm thảo, “em” bước ra làm người phụ nữnhân từ rất thực đứng giữa đời. “Em” nhìn cuộc đời bằng sự thấu hiểu sâu sắc và niềm tin vững chãi. Người con gái ngây ngô thuở nào đã trở thành một phần của nỗi buồn và niềm đau thương:
Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà
Như thác trắng vỡ tan như bạc của trời như bước chân của ký ức
Em vuốt nước mưa chảy ròng trên mặt
Ngoảnh đầu nhìn về đâu?
(Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà)
Thi sĩ nay trông nhìn “em” không như nhìn về miền mơ tưởng xa vắng. “Em” thuộc về thực tại trần trụi, đã lẫn với mưa, đã biết buồn, biết thấu hiểu. Giọng thơ trở nên bình tĩnh và trầm lắng. Hãy thử mường tượng về một ngày mưa dài trầm buồn, một ngày mưa tĩnh lặng hiếm hoi sau thời anh hùng chiến đấu khốc liệt và dữ dội, cái lấp đầy trí nghĩ ta không phải là bình yên mà là nỗi buồn da diết bám rễ trong thâm tâm. Những mất mát, những kí ức đen không thể nào xóa nhòa, chúng ùa về cùng làn mưa không ngớt. Trong mạch nhớ xót xa ấy, Lưu Quang Vũ nghĩ về mình trong những định nghĩa: “Bây giờ anh chỉ còn là một chiếc cốc vỡ, một vết thương”
Tựa vào “em” như một đứa trẻ thơ nấp bóng trong vòng tay mẹ, nhà thơ rụt rè hỏi về động lực sống, hỏi để mong chờ cái gật đầu đinh ninh của “em”, hỏi vì tin tưởng vào “em”.
Em bảo cần phải tìm một lý do để sống
Để gắn bó để lòng mình yên ổn
Thật thế chăng, có thể có không em?
Rồi tự nhủ thầm, nhà thơ viết: “Hãy bình tĩnh, bình tĩnh”.
Chúng ta sẽ chịu được khổ đau sẽ làm việc
Đóng một cái đinh treo một tấm áo
Và yêu nhau dưới một ngọn đèn
Những ngón tay, có thật thế chăng em?
Niềm tin yêu vội trở lại với trang thơ Lưu Quang Vũ. Có phải nhờ “em”, có phải nhờ phút chiêm nghiệm sâu sắc của tuổi trưởng thành? Mưa không còn phiền muộn nữa, mưa mang theo “những khát vọng vô hình”. Và kìa, sắc màu đã trở lại trong bức tranh nhạt nhòa xám trắng của nỗi buồn. Cái màu vàng ấm áp đẫm nước mưa trong hiện lên trong phép liên tưởng “biển lá vàng”, đó chính là dợn hồi sinh rạo rực trong lòng Lưu Quang Vũ.
Mưa như bước chân những khát vọng vô hình
Trên một biển lá vàng đang nổi gió.
Đã đến lúc khép màn, một cuộc đời chỉ vẹn 40 năm, thi sĩ có lời nào muốn nói? Như là “Lời cuối”, vào năm 1975, trong êm ấm hạnh phúc đời thường cùng nữ sĩ Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ viết cho “em” những dòng tin tưởng và hứa hẹn.
Ở bên anh, trọn vẹn bên anh
Để mai tình yêu là hành lý lên đường
Để nếu có linh hồn
Cũng sẽ không giá lạnh
Và nếu chết là mọi điều đều hết
Hơi thở của em
Như ngọn lửa phập phồng
Như sắc cỏ không ngừng xanh trở lại
Nối phút giây ngắn ngủi với vô cùng.
Và mãi đến cuối đời, anh vẫn trung thành với đức tin vào cái cao thiện thiêng liêng của mình.
Để kết bài, tôi xin có chút ít những bình luận về nghệ thuật:
Yuval Harari – nhà sử học xứ Israel khi bình luận về viễn cảnh thời đại mới đã không khỏi lo ngại cho số phận của nghệ thuật. Ông cho rằng:
Vì hệ thống cảm xúc của con người chính là hệ thống hóa sinh – có thể được kích hoạt hoặc tiết chế, công nghệ hiện đại sẽ trở nên rất khéo léo trong việc điều khiển, kích hoạt những cảm xúc nhất định của con người. Nếu nghệ thuật là sự truyền tải và kích thích trải nghiệm cảm xúc, thì trí tuệ nhân tạo trong tương lai không xa có khả năng thống trị nền nghệ thuật.
(Tóm tắt từ: “...Maybe art is not about inspiring human emotions but if it is, there is a case to be made that in the not – too – distant future, computer will be so good in manipulating human emotions that human artists will find it difficult to compete with them”).
Nhưng thưa ngài, thật may mắn khi chúng ta được biết rằng: Nghệ thuật chân chính không lấy mục đích chính là kích hoạt sự trải nghiệm những cảm xúc nhất định (điều mà một số các tác phẩm khiêu dâm, kiếm hiệp, trinh thám, kinh dị, biếm họa… rất đỗi thành thạo) mà lấy mục đích chính là kết nối lòng nhân – tình yêu, sự thấu hiểu, lòng đồng điệu và sự chữa lành. Đọc thơ Lưu Quang Vũ, ta kết nối với đức tin cao cả của một người đã khuất, ta kết nối với những cảm xúc độc nhất vô nhị, không phải của ta, nhưng luôn dành cho ta, rồi từ đó soi ra đời trông nhìn loài người (có nội tâm ta) trong cội nguồn nhân bản. Tình nhân đạo và nội tâm độc nhất phải là những kẻ cầm bút viết thơ. Ta yêu cầu thứ văn chương cao đại, không phải chỉ là những lời nhại, những sự sao chép mòn vẹt nhằm thỏa mãn vài cảm xúc tủn mủn, tầm thường của con người
Lời kết :
Tôi sẽ lấy câu châm ngôn của Hippocrates thời cổ đại làm niềm mong mỏi cho sức sống của những áng thơ Lưu Quang Vũ: “Nghệ thuật trường tồn, sự sống ngắn hạn” (Ars longa, vita brevis) – những áng thơ của đức tin và lòng yêu hòa bình. Những áng thơ vì sự kết nối lòng nhân của một vị thần thi ca thiết tha yêu cuộc sống.
Người cổ đại kể về Apollo trong những chữ: Ánh sáng, Nghệ thuật và Sự chữa lành. Có phải rằng: Tự bao giờ, Lưu Quang Vũ đã là một vị thần Apollo kín đáo ở trong tâm…
Review chi tiết bởi: Nho Minh Uyên - Bookademy
Hình ảnh: Mai Trang - Bookademy
--------------------------------------------------
Theo
dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy
Bạn đam mê viết lách, yêu thích đọc sách
và muốn lan toả văn hoá đọc tới cộng đồng của YBOX.VN? Đăng ký để trở thành
CTV Bookademy tại link: http://bit.ly/bookademy_ctv
(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ “Tên tác giả - Bookademy”. Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.