“Đọc Truyện Tây Bắc, chúng ta có cảm tưởng đó vừa là một bản cáo trạng, vừa là một khúc tình ca: cáo trạng đối với phong kiến miền núi và thực dân, tình ca ngợi khen cảnh đẹp, tập quán hay, tinh thần cách mạng, quan hệ giữa người và người Tây Bắc, như bản tình ca viết với một bút pháp trữ tình nồng đượm và nên thơ.” - Giáo sư HUỲNH LÝ “Truyện Vợ chồng A Phủ cũng như tập Truyện Tây Bắc nói chung bộc lộ rõ nét phong cách của Tô Hoài: màu sắc dân tộc đậm đà; chất thơ, chất trữ tình đằm thắm, lời văn giàu tính tạo hình.” - Phó Giáo sư, Tiến sĩ LÊ TIẾN DŨNG “Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có thực. Tức là nguyên mẫu ở ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công tác từ Tà Sùa sang Phù Yên (Sơn La). Ở Tà Sùa, tôi gặp một cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp Tết truyền thống của họ, tức khoảng tháng Mười Một âm lịch, trước tết Nguyên Đán của ta một tháng. Tết người Mèo kéo dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ chồng nhà kia đi ăn Tết từ bản này sang bản khác. Ăn Tết và uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh, cuộc đời chị vợ, về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa vợ chạy trốn đi nơi khác. Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết của tôi về đời sống người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ dần. Và tôi bắt tay vào viết...” - Nhà văn TÔ HOÀI
Xem thêm

Phải đến Truyện Tây Bắc, Tô Hoài mới có được sự thành công đặc sắc ở mảng đề tài về miền núi Tây Bắc. Bằng tài năng nghệ thuật và vốn sống phong phú về Tây Bắc, ông đã thể hiện được một cách chân thật, sinh động những nỗi đau thương, khổ nhục của họ dưới ách áp bức nặng nề của kẻ thù thực dân phong kiến. Tập Truyện Tây Bắc gồm ba truyện: Mường Giơn, Cứu đất cứu mường, Vợ chồng A Phủ. Hình ảnh người lao động miền núi Tây Bắc nghèo khổ, mà nhất là người phụ nữ trong tập truyện này được Tô Hoài miêu tả với tất cả niềm cảm thông sâu sắc. Cảnh đời của Mị, một cô dâu gạt nợ chết dần, chết mòn trong địa ngục trần gian của nhà thống lí Pá Tra, hay thân phận của cô Ảng từ cô gái có vẻ đẹp nổi tiếng ở Mường Cơi bị xem như món đồ chơi qua tay nhiều quan châu, quan lang, chúa đất cho đến khi tàn tạ trở thành bà lão Ảng ăn mày..., đã để lại cho người đọc biết bao điều suy nghĩ về cuộc sống đắng cay, tủi nhục của người phụ nữ Tây Bắc dưới sự đè nén áp bức nặng nề của thực dân và phong kiến ở miền núi. Mặt khác, qua tập truyện trên, Tô Hoài đã khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người miền núi Tây Bắc, cũng như lí giải thành công về con đường tất yếu họ phải tìm đến để thoát khỏi cuộc sống bị đọa đày áp bức đó là con đường cách mạng. Có thể nói, Truyện Tây Bắc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trên con đường sáng tạo nghệ thuật, và bộc lộ sự nhận thức đúng đắn của Tô Hoài về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cách mạng.

Mẹ con bà Ảng trong Cứu đất cứu mường, Mát, Yên trong Mường Giơn, Mị trong vợ chồng A Phủ là đại diện, tượng trưng cho thân phận những người phụ nữ nghèo và khổ đến tận cùng cơ cực lúc bấy giờ. Nghèo, đói, áp bức đến rã rời, họ còn phải chịu trăm nghìn cay đắng, tủi nhục mà không được phép chết, bởi chết đồng nghĩa với bất hiếu, trút hết gánh nặng lên đôi vai gầy guộc của mẹ của cha.

Đau thương là thế, nhưng Tô Hoài không viết Truyện Tây Bắc để than nghèo kể khổ. Những câu chuyện thương đau được kể với sự dịu dàng, êm ấm, như một lời thì thầm rằng mọi chuyện đã qua rồi, “trời xanh” đã “thành tiếng hát”, cuộc sống đầy sức trẻ đang sinh sôi, rạo rực chuyển mình. Những bản tình ca vẫn vang lên thắm thiết, vi vút trong tiếng sáo, tiếng khèn, trong tiết tấu rộn ràng của điệu múa, điệu xoè. Tô Hoài viết về tình yêu thật đẹp đẽ, tình tứ mà trong trẻo, vui tươi. Những ánh mắt lúng liếng, những câu hát thắm thiết, đắm say, những câu chuyện kể đậm chất dân gian như vấn vít, giao hoà cùng trời đất mùa xuân tràn trề nhựa sống. Con chim kỳ xanh biếc chân đỏ cất tiếng hót rộn ràng, như là dấu hiệu của những điều may mắn, tràn đầy hi vọng.

"Truyện ngắn Tây Bắc" là tập truyện gồm 11 tác phẩm của nhà văn Tô Hoài, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1953. Tập truyện là kết quả của những năm tháng nhà văn sống và gắn bó với đồng bào các dân tộc Tây Bắc, ghi chép lại những câu chuyện về cuộc sống, phong tục tập quán và con người nơi đây.

Tác phẩm xoay quanh cuộc sống của người dân miền núi trước Cách mạng tháng Tám, với những mảng màu sáng tối đan xen. Qua những câu chuyện giản dị, đời thường, tác giả đã phơi bày hiện thực xã hội bất công, áp bức, bóc lột mà người dân phải gánh chịu. Đồng thời, nhà văn cũng ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do mãnh liệt của con người nơi đây.

Nhân vật trong "Truyện ngắn Tây Bắc" là những con người bình dị, mộc mạc, gắn bó với thiên nhiên và lao động. Họ phải chịu nhiều bất công, áp bức nhưng vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp như lòng dũng cảm, kiên cường, tình yêu thương và tinh thần đoàn kết. Tô Hoài đã sử dụng thành công nhiều biện pháp nghệ thuật như miêu tả sinh động, ngôn ngữ giản dị, giàu sức gợi, giọng văn trữ tình, kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn.

"Truyện ngắn Tây Bắc" là một tác phẩm giá trị, góp phần quan trọng vào nền văn học Việt Nam. Tác phẩm đã mang đến cho người đọc những hiểu biết sâu sắc về cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc, đồng thời khơi gợi lòng yêu thương, sự trân trọng đối với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Tô Hoài luôn hướng ngòi bút về phía người cùng khổ… bằng tất cả sự đồng cảm của trái tim. Đọc Truyện Tây Bắc của ông để hiểu thêm về cuộc sống của miền núi, với những mặt trái như những nỗi đau. Tập truyện có một chủ đề rất tập trung: những người dân miền núi vừa là nạn nhân của thực dân Pháp, của chế độ phong kiến, của chính những phong tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan của mình. Họ đã đứng lên đấu tranh, giải phóng…


Ông từng chia sẻ rằng: ‘’Năm 1952, tôi theo bộ đội chủ lực, tiến quân vào miền Tây, tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Các đơn vị quân ta qua sông Thao, đánh tan nhiều đạo quân và đồn bốt địch, cho đến lúc vượt sông Đà, giải phóng một dải đất đai rộng lớn phía hữu ngạn, trong đó bao gồm nhiều khu du kích của các dân tộc anh em đã chiến đấu ròng rã nhiều năm giữa lòng địch. Giải phóng tới đâu, tôi đi sâu tìm hiểu các khu du kích tới đó, bắt đầu lên vùng du kích các dân tộc Mường, Dao, Thái trắng, ở Bản Thải và Ngọn Lao thuộc châu Phù Yên, rồi qua khu du kích 99 sang Trạm Tấu, lên Tú Lệ, lên châu Than Uyên, châu Quỳnh Nhai, qua châu Tuân Giáo, vào châu Điện Biên – rồi lại từ các khu du kích dân tộc H’Mông xuống những vùng mới phải phóng, các làng dân tộc Thái trên cả bốn cánh đồng phì nhiêu của Tây Bắc. 

Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên. Không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi dốc núi Tà Sùa rồi cũng vẫy tay gọi theo: “ Chéo lù! Chéo lù!’’ ( Trở lại! Trở lại! ). Không bao giờ quên được vợ chồng Lý Nủ Chu đưa chúng tôi dưới chân núi Cao Phạ, cùng vẫy tay kêu: Chéo lù! Chéo lù! Hai tiếng “ trở lại, trở lại’’ chẳng những nhắc tôi có ngày trở lại mà tôi phải đem trở lại cho những người thương ấy một kỷ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiển hiện lại cuộc đời người HMông trung thực, chí tình, dù gian nan đến thế nào, bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại. Chéo lù! Trở lại! Trở lại! Chéo lù! “