Bằng những góc nhìn hài hước và lối kể chuyện sinh động, Steven D. Levitt và đồng tác giả Stephen J. Dubner đã dẫn dắt độc giả đi khám phá những khía cạnh bất ngờ còn ẩn khuất của mọi hiện tượng xã hội từ quan điểm kinh tế học thông qua cuốn sách có cái tên vô cùng đặc biệt: Kinh tế học hài hước (Freakonomics). Và trong câu chuyện mở màn của chuỗi các hiện tượng xã hội mà Levitt và Dubner đã đưa vào trong Kinh tế học hài hước, hãy cùng khám phá một góc nhìn vô cùng thú vị bằng cách đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Tại sao tỷ lệ tội phạm ở nước Mỹ trong những năm 90 của thế kỷ trước lại giảm đột ngột, dù cho các dự báo đều chỉ ra rằng tỷ lệ ấy sẽ có xu hướng tăng lên trong tương lai?

Bất kỳ ai sống tại Hoa Kỳ vào những năm đầu thập niên 1990 có quan tâm đôi chút tới các bản tin tối hay nhật báo đều có thể được cảm thông nếu họ rơi vào tâm lý hoảng loạn.

Nguyên nhân chính là tình trạng tội phạm. Tội phạm không ngừng gia tăng – biểu đồ về tội phạm tại bất kỳ thành phố nào của Mỹ trong những thập kỷ gần đây đều biểu thị độ dốc đi lên – và đồ thị đó như báo trước ngày tận thế vậy. Tử vong do súng đạn, có chủ đích hay vì nhiều lý do khác, đã ngày càng trở nên phổ biến. Cũng nhức nhối như nạn cướp bóc, phá hoại ô tô, trộm cắp và hiếp dâm, tội phạm đã trở thành một nỗi khiếp sợ thường trực. Mọi thứ dường như sẽ ngày càng tồi tệ. Tệ đi rất nhiều. Tất cả các chuyên gia đều nói vậy.

Nguyên nhân là do một kẻ được coi là tội phạm siêu hạng cùng một lúc có mặt tại khắp mọi nơi. Hắn xuất hiện trên bìa các tờ tuần báo với ánh mắt trừng trừng, nghênh ngang xuất hiện trên các báo cáo của chính phủ. Hắn có vóc dáng khẳng khiu, một thanh niên sống trong thành phố lớn với một khẩu súng rẻ tiền trong tay và trái tim trống rỗng, chỉ chất chứa bạo lực. Chúng ta cũng biết rằng có hàng ngàn kẻ như vậy ngoài xã hội, một thế hệ những kẻ giết người luôn muốn đẩy nước Mỹ vào tình trạng hỗn loại cực điểm.

Năm 1995, một chuyên gia tội phạm học là James Alan Fox đã viết một bản báo cáo gửi tới vị Tổng chưởng lý của Mỹ, liệt kê rất chi tiết xu hướng gia tăng các vụ án mạng do trẻ vị thành niên gây ra. Fox đưa ra cả viễn cảnh lạc quan và bi quan. Với viễn cảnh lạc quan nhất, ông tin rằng tỷ lệ án mạng do trẻ vị thành niên gây ra sẽ tăng 15% trong thập niên tới; còn với viễn cảnh bi quan, tỷ lệ này sẽ tăng gấp đôi. Theo ông, “Làn sóng tội phạm sắp tới sẽ cực kỳ nhức nhối” và “đến mức nó sẽ khiến chúng ta nhìn lại năm 1995 giống như những ngày tươi đẹp xa xưa”.

Các nhà nghiên cứu tội phạm học, các nhà khoa học chính trị và cả các nhà dự báo trong những lĩnh vực khác đã dự đoán một tương lai cũng khủng khiếp như vậy. Đó cũng là ý kiến của Tổng thống Clinton, thể hiện trong phát biểu: “Chúng ta đều biết nước Mỹ cần khoảng sáu năm để thay đổi hoàn toàn tình trạng tội phạm vị thành niên, hoặc nước Mỹ sẽ phải chung sống với sự hỗn loạn. Và con cháu chúng ta sẽ không thể thấy được những cơ hội tuyệt vời của nền kinh tế toàn cầu; chúng ta sẽ chỉ cố gắng để bảo vệ tính mạng của mọi người ở những thành phố này”. Những đồng tiền quý giá sẽ chỉ được dành cho việc chống tội phạm.

Nhưng sau đó, thay vì gia tăng liên tục, liên tục và liên tục, tội phạm bắt đầu suy giảm. Giảm, giảm và ngày càng giảm mạnh hơn. Tỷ lệ tội phạm giảm một cách đáng kinh ngạc trên một số khía cạnh. Tội phạm suy giảm tại khắp mọi nơi và mọi loại tội phạm đều suy giảm ở khắp mọi miền trên đất nước Mỹ. Tội phạm giảm liên tục và ngày càng giảm qua từng năm. Mà điều này hoàn toàn không được dự báo trước – nhất là không phải do những chuyên gia, từng dự báo về những diễn biến ngược lại.

Sự thể hoàn toàn đảo lộn đến mức đáng kinh ngạc. Tỷ lệ sát thủ vị thành niên, thay vì tăng 100% hay thậm chí chỉ 15% như James Alan Fox đã cảnh báo, đã giảm hơn 50% trong vòng 5 năm. Năm 2000, tỷ lệ án mạng trên toàn nước Mỹ đã giảm xuống tới mức thấp nhất trong vòng 35 năm qua. Tỷ lệ các loại tội phạm khác, từ hành hung tới cướp ô tô, cũng giảm tương tự như vậy.

Mặc dù các chuyên gia đã không thể dự báo về tình trạng tội phạm giảm sút – mà thực tế đó diễn ra ngay cả khi họ đang đưa ra những dự báo nghiêm trọng về tình trạng tội phạm giảm sút – thì nay họ lại vội vàng giải thích hiện tượng này. Hầu hết những giả thuyết của họ đều có vẻ hoàn toàn hợp lý. Các chuyên gia cho rằng đó chính là do nền kinh tế đang phát triển của những năm 1990 đã góp phần giảm bớt tội phạm. Họ cho rằng đó chính là do sự tăng cường của luật kiểm soát súng; đó là do các chiến lược cải tổ ngành cảnh sát được triển khai tại thành phố New York, nơi các vụ án mạng đã giảm từ 2.245 vụ trong năm 1990 xuống còn 596 vụ trong năm 2003.

Các giả thuyết này không chỉ hợp lý; chúng còn mang tính khích lệ khi đã gắn sự suy giảm tội phạm với những sáng kiến cụ thể và mới mẻ của xã hội. Nếu nguyên nhân chính là do việc kiểm soát súng chặt chẽ hơn và số lượng cảnh sát tăng lên đã đẩy lui nạn tội phạm, thì sức mạnh để chế ngự nạn tội phạm thật sự nằm trong tầm tay của chúng ta. Và nếu vậy trong thời gian tới, lạy Chúa, bọn tội phạm sẽ khốn đốn.

Các giả thuyết đều có lý lẽ riêng của chúng, có vẻ như chẳng có sai sót gì từ lời giải thích của các chuyên gia, tới diễn giải của báo chí và nhận thức của người dân. Tóm lại, chúng đã trở thành nhận thức thông thường.

Duy chỉ có một vấn đề: các giả thuyết đó không đúng.

Có một yếu tố khác đóng vai trò chính trong việc đẩy lui nạn tội phạm trong thập niên 1990. Yếu tố đó đã hình thành từ hơn 20 năm trước và liên quan tới một phụ nữ trẻ tuổi ở Dallas có tên là Norma McCorvey.

Cũng giống như một con bướm độc xuất hiện tại một lục địa và cuối cùng lại gây ra thảm họa tại một lục địa khác, Norma McCorvey đã thay đổi đột ngột tiến trình của các sự kiện mà không hề có chủ ý. Tất cả những điều cô ta muốn chỉ là việc phá thai. Đó là một phụ nữ 21 tuổi, nghèo, thất học, không nghề nghiệp, nghiện rượu và ma túy; đã cho hai đứa con làm con nuôi người khác và lúc đó, cái năm 1970 ấy, người phụ nữ này phát hiện mình lại có thai. Nhưng tại Texas, cũng như các bang khác (ngoại trừ một vài bang) ở Mỹ thì việc phá thai bị coi là bất hợp pháp. Vấn đề của McCorvey đã được nhiều nhân vật có quyền lực hơn hẳn người phụ nữ này ủng hộ. Những nhân vật đó đã đưa người phụ nữ này trở thành nguyên đơn trong một vụ đòi hợp pháp hóa việc phá thai. Bị đơn là Henry Wade, luật sư tại Hạt Dallas. Cuối cùng vụ án đã được tống đạt lên Tòa án Tối cao Mỹ, tất nhiên lúc đó McCorvey đã được đặt tên giả là cô Jane Roe. Ngày 22 tháng Một năm 1973, tòa án đã tuyên bố cô Roe thắng kiện, cho phép hợp pháp hóa việc phá thai trên toàn quốc. Vào thời gian đó, tất nhiên là đã quá muộn để McCorvey (dưới cái tên là Roe) phá thai. Và người phụ nữ này đã sinh con và nuôi con tới khi lại cho con làm con nuôi. (Những năm sau đó, người phụ nữ này đã phủ nhận trách nhiệm của mình đối với việc phá thai được hợp pháp hóa và trở thành một người hoạt động xã hội).

Vậy vụ việc của Roe có vai trò gì trong đợt suy giảm làn sóng tội phạm mạnh mẽ nhất trong lịch sử?

Nói tới tội phạm, hóa ra không phải mọi đứa trẻ sinh ra đều bình đẳng, hay thậm chí là gần bình đẳng. Các nghiên cứu trong hàng thập kỷ đã cho thấy một đứa trẻ được sinh ra trong môi trường gia đình hoàn cảnh bất ổn sẽ có nguy cơ trở thành tội phạm cao hơn những đứa trẻ khác. Và hàng triệu phụ nữ phá thai theo trào lưu của Roe – những phụ nữ nghèo, sống đơn thân, những bà mẹ tuổi vị thành niên (mà với họ, việc phá thai bất hợp pháp là quá tốn kém và khó khăn) – sẽ là những hình mẫu của sự bất ổn. Con cái họ, nếu như được sinh ra, sẽ có nguy cơ trở thành tội phạm cao hơn rất nhiều so với mức trung bình. Nhưng sau vụ kiện của Roe, những đứa trẻ đó đã không được sinh ra. Nguyên nhân này gây ra một tác động sâu sắc và lâu dài, dẫn tới kết quả: nhiều năm sau đó, do những đứa trẻ chưa được sinh ra đã không có cơ hội bước vào thời kỳ phạm tội của chúng, nên tỷ lệ tội phạm đã giảm mạnh.

Không phải do việc kiểm soát súng, hay do nền kinh tế thịnh vượng, hay các chiến lược kiểm soát mới đã cản bước làn sóng tội phạm tại Mỹ. Ngoài những yếu tố khác, thì còn một nguyên nhân quan trọng là do số lượng người có nguy cơ trở thành tội phạm đã giảm sút đột ngột.

Giờ đây, khi là các chuyên gia nghiên cứu hiện tượng suy giảm tội phạm (trước đó là các chuyên gia nghiên cứu tội phạm) thêu dệt các giả thuyết của họ trước báo chí, đã bao nhiêu lần họ dẫn việc phá thai được hợp pháp hóa là một nguyên nhân của hiện tượng suy giảm làn sóng tội phạm?

Chưa bao giờ.

______________

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy

Đăng ký để trở thành CTV Bookademy tại link: http://bit.ly/bookademy_ctv

Xem thêm

Chương trình truyền hình 'Seinfeld' tự hào nói rằng đó là một chương trình không có gì mặc dù nó thực sự là về một thứ gì đó - một truyện tranh tự thu mình sống ở Thành phố New York và những người bạn khó tính, thần kinh của anh ta. Tương tự, Freakonomics tự hào tuyên bố rằng nó không có chủ đề thống nhất. Tuy nhiên, trên thực tế, đây là một cuốn sách có chủ đề thống nhất là nó sử dụng dữ liệu để đưa ra kết luận khách quan về một số vấn đề xã hội nhạy cảm. Một chương duy nhất và tạo ra những liên tưởng mong manh. Một ví dụ sẽ là liên kết cuộc thảo luận về cách KKK sử dụng nỗi sợ hãi thay vì hành động để tác động đến hành vi (vào giữa thế kỷ 20, họ thực sự không làm gì nhiều) với cuộc thảo luận về cách các đại lý bất động sản sử dụng nỗi sợ hãi để tác động đến khách hàng của họ (các nỗi sợ hãi trong trường hợp này không phải là bạo lực thể xác mà là nỗi sợ hãi không thể bán được căn nhà của bạn và nhận được lời đề nghị hợp lý đầu tiên thay vì chờ đợi nhiều tiền hơn - tốt hơn hết là đại lý bán hàng nhanh hơn và chấp nhận một khoản hoa hồng ít hơn 100 đô la hoặc 200 đô la thay vì thực sự làm việc để kiếm nhiều tiền hơn cho khách hàng của họ). 

Lời chỉ trích khác của tôi là cuốn sách đôi khi đưa ra kết luận dựa trên các nghiên cứu đơn lẻ. Để thực sự đưa ra kết luận chắc chắn, dữ liệu khoa học cần được xác nhận thông qua nhiều nghiên cứu. Tuy nhiên, cuốn sách đã thành công trong việc đưa ra nhiều kết luận mang tính khiêu khích về các chủ đề bằng cách phân tích khách quan dữ liệu có sẵn - tính khách quan đôi khi bị thiếu trong xã hội học phổ thông. Câu trả lời có thể không phải là những gì chúng ta muốn nghe, nhưng đó là những gì dữ liệu cho thấy. Một ví dụ là bác bỏ ý kiến cho rằng tội phạm giảm vào những năm 90 do nền kinh tế tốt hơn nhưng đúng hơn là do việc hợp pháp hóa việc phá thai dẫn đến một thế hệ thanh niên nhỏ hơn được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo, đơn thân, ít học trong các khu dân cư đầy rẫy tội phạm. Các tác giả cố gắng không biến điều này thành một lập luận ủng hộ việc phá thai. 

Rõ ràng, một chủ đề phổ biến hơn sẽ là tìm dữ liệu cho thấy phá thai là sai trái về mặt đạo đức, đặc biệt là xem xét sự mất cân bằng về tỷ lệ mắc bệnh giữa các tầng lớp kinh tế xã hội và nhân khẩu học chủng tộc. Tương tự như vậy, cuộc thảo luận về tầm quan trọng của hành vi của cha mẹ có thể không phải là điều mà chúng ta muốn nghe - rằng kết quả học tập của trẻ em được quyết định nhiều hơn bởi cha mẹ là ai hơn là cách họ thực hiện với tư cách là cha mẹ. Trong bối cảnh liên tục xuất bản và công khai các nghiên cứu thiên lệch thu hút công chúng chỉ vì chúng cho họ biết điều họ muốn nghe hoặc vì họ ủng hộ điều mà chúng ta coi là "sự khôn ngoan thông thường", thật sảng khoái khi thấy một cuốn sách trở nên phổ biến đối với mọi người. lý do ngược lại. Một lưu ý khác về cuốn sách này là nó không liên quan gì đến kinh tế học. Mặc dù tác giả có lý thuyết là cơ sở của cuốn sách là một nhà kinh tế học, các chủ đề được đề cập là các vấn đề xã hội được kiểm tra thông qua khai thác dữ liệu và phân tích thống kê. Dựa trên thực tế là chúng thậm chí còn cung cấp một lời giải thích đơn giản và thú vị về phân tích hồi quy là gì, một cái tên thông minh dựa trên từ 'thống kê' sẽ phù hợp hơn. Nhìn chung, đây là một cuốn sách đọc nhanh có thể có ít nhất một số ảnh hưởng đến cách người đọc nhìn thế giới ngay cả khi nó không thay đổi cuộc sống của họ.

Khi các tác giả thú nhận rằng không có chủ đề nào cho cuốn sách này, bạn sẽ rất vui vì bạn là một kẻ bất hảo. Nhưng sau đó chúng tiếp tục giải quyết một số câu hỏi nhất định dưới dạng các chương, và với mỗi chương như vậy, bạn ngày càng cảm thấy ít vui hơn vì cuốn sách này không có chủ đề. Hãy để tôi giải thích. Chúng tôi có một câu hỏi như, điểm kiểm tra của học sinh như thế nào? Chúng tôi xem xét tất cả các lý do (tất nhiên là các tác giả đã có 'dữ liệu') và thấy rằng một học sinh có nhiều khả năng đạt điểm như vậy và như vậy nếu điều đó xảy ra. Câu hỏi đã được trả lời. Nhưng, học sinh là một người như thế nào? Nhiều lần, các tác giả háo hức giải thích làm thế nào một học sinh không bị ảnh hưởng bởi những gì cha mẹ làm, mà bởi con người của họ. Bạn đau lòng khi bạn sử dụng rất nhiều chỉ số về cuộc đời của một thiếu niên nhưng chỉ có thể nói, điều đó cũng không thuyết phục lắm, về một chỉ số rất yếu về cuộc đời của anh ấy, điều này liên quan nhiều hơn đến việc anh ấy là ai (Điểm kiểm tra). Nó chủ yếu là vì họ đã từ bỏ ý tưởng về một chủ đề ngay cả đối với một chương và giải quyết một số câu hỏi dễ dàng. Và chúng ta vẫn chưa hoàn thành. Có một điều quan trọng khác mà bạn có thể bỏ qua khi đọc. Nguyên nhân và hậu quả. Đấy, cuốn sách không đi tìm một 'hiệu ứng' toàn diện mà chỉ ở một phần yếu của hiệu ứng, một câu hỏi. Nhưng điều có thể xảy ra là, một số lý do bị loại bỏ như là 'sự khôn ngoan thông thường' vì nó không ảnh hưởng đến 'câu hỏi' liên quan, có thể tỏ ra không quan trọng đối với một độc giả nhàn rỗi. Nhiều việc cha mẹ 'làm' được cho là không quan trọng trong điểm thi của học sinh. Bây giờ, điểm kiểm tra là một câu hỏi. Đó là một phần rất yếu của một hiệu ứng là cuộc sống của học sinh.

Phần lớn những gì các tác giả nói về tội phạm là mối quan tâm đặc biệt đối với tôi. Tôi được tuyển dụng để cung cấp hỗ trợ cho một số chiến lược kiểm soát sáng tạo mới phát triển từ Quy trình COMSTAT của NYPD. Anh ấy không bao giờ chỉ trích trực tiếp cách tiếp cận này nhưng nó có thể bị bán quá mức. Tuyên bố nổi tiếng nhất được đưa ra rằng việc phá thai có sẵn đã góp phần làm giảm hơn mười lăm năm tội phạm trên toàn quốc. Tôi không nghe tuyên bố này đưa ra bất kỳ cuộc thảo luận nào trong nghề. Tuy nhiên, không có sự thống nhất trong giới chuyên môn về điều gì giải thích cho sự suy giảm này. Không có bất kỳ thỏa thuận nào về mặt này của xu hướng khiến tất cả chúng ta bị phơi bày khi xu hướng này, giống như những xu hướng khác quay đầu. Điều tôi không thích là phần giới thiệu ngắn của mỗi chương mới. Tất cả những đoạn nói về Stephen Levitt tuyệt vời và độc đáo như thế nào. Tất cả có xu hướng đọc giống như rất nhiều P.R. Nếu người đàn ông cần bán nhiều như vậy, tại sao? 

Phần phụ đề: Liệu một Roshanda có tên khác có mùi ngọt ngào không? Đưa chúng ta đến giới hạn của cách tiếp cận của Levitt. Ở phần đầu của phần này, anh ấy cho chúng tôi biết về một số nghiên cứu cho thấy những người có cùng nội dung sơ yếu lý lịch và tên cho thấy nền tảng đạo đức/chủng tộc khác nhau có tỷ lệ được chấp nhận khác nhau trong các cuộc phỏng vấn xin việc và các trường Cao đẳng. Những điều này được giảm giá vì chúng không cho chúng tôi biết liệu sự thiên vị dựa trên chủng tộc hay dựa trên mối liên hệ với những tên này và điều kiện kinh tế/xã hội. Người muốn vào trường hay tìm việc làm, đây là một sự khác biệt không có sự khác biệt. Trên thực tế, xác suất của một cuộc phỏng vấn thành công là bao nhiêu. Không phỏng vấn nghĩa là không có việc làm. Việc không phỏng vấn là chắc chắn 100%, còn lại chỉ là một xác suất không thể đo đếm được. Sau đó, có một đề cập ngắn gọn về các nghiên cứu cho thấy kết quả lâu dài thấp hơn đối với những người có tên sai. Một lần nữa tại sao ít quan trọng hơn thực tế là những nghiên cứu này có xu hướng củng cố các quyết định của nhà trường và người sử dụng lao động.

Lời khuyên ngắn gọn của tôi là xem bộ phim "kinh tế học hài hước" và bỏ qua cuốn sách. Các ý tưởng đều giống nhau ở cả hai nơi. Bản sao của tôi chưa đầy 240 trang và văn phong thuộc loại trò chuyện vui vẻ pha chút mọt sách - nên đọc rất nhanh. Khi Steven Levitt và Stephen Dubner xuất bản "Kinh tế học hài hước" lần đầu tiên vào năm 2005, nó đã được quảng bá rộng rãi như một tư duy đột phá và một thách thức quan trọng đối với trí tuệ chung. Tôi không chắc tại sao tôi lại không đọc nó vì tôi rất ấn tượng với báo chí và các cuộc phỏng vấn. Bây giờ, gần 13 năm sau, nó có vẻ cũ kỹ và hầu như không có gì đột phá. Kể từ đó, đã có một số cuốn sách khác dựa trên những lợi thế của việc suy nghĩ từ những quan điểm khác nhau và vượt ra ngoài trí tuệ thông thường. Bây giờ có vẻ như chính sự khôn ngoan thông thường được diễn đạt là nụ hôn chết chóc đối với bất kỳ ý tưởng nào. Tất cả chúng ta đều đã trở thành chuyên gia về mọi thứ đến nỗi có quá nhiều người cảm thấy được trao quyền để thách thức ngang hàng với bất kỳ ai đã thực sự nghiên cứu và giành được quyền xuất bản về cả những chủ đề bí truyền nhất. Sản phẩm của khoa học có xu hướng được tiêu dùng. 

Hai ví dụ. Thông thường, các ý kiến về nghiên cứu dựa trên phân tích cũ của bài báo đang được thảo luận. Hãy nghe phân tích này từ bên trong bộ chặn tiếng vang tương ứng của chúng tôi, có nghĩa là bắt đầu từ vị trí thiên vị, được điều khiển bởi độ nghiêng của phương tiện truyền thông ưa thích. Việc người nói đã đọc sai hoặc đọc có chọn lọc bài báo phải là một phần trong phân tích của một cá nhân. Hoặc tốt hơn nữa, đọc bài báo trong bản gốc của nó. Điều khiến tôi tức giận nhất là sự nhầm lẫn về ý nghĩa khi một bài báo kết luận rằng điều gì đó có xu hướng gây ra điều gì khác.

Một phần của cuốn sách phù hợp với mối quan tâm của tôi. Nó ghi lại cách một nhà kinh tế thực sự thông minh áp dụng các công cụ trong lĩnh vực của mình cho những câu hỏi dường như nằm ngoài lĩnh vực đó. Ví dụ, anh ấy cố gắng chỉ ra rằng chúng tôi, những bậc cha mẹ ở ngoại ô, lo lắng về bạo lực súng đạn hơn là về việc bể bơi của chúng tôi là mối nguy hiểm đe dọa đến tính mạng của con cái chúng tôi. Hoặc anh ấy cho chúng tôi thấy rằng các đại lý bất động sản có động cơ bán nhà của chúng tôi với giá thấp hơn những gì họ có thể nhận được. Hoặc các đô vật sumo có động cơ gian lận khi họ thấy mình trong các trận đấu cao su quan trọng trong các sự kiện của họ. Hoặc thậm chí là có một cách để xác định giáo viên trường công lập nào ở Chicago đã đưa ra câu trả lời cho học sinh của họ trong các bài kiểm tra tiêu chuẩn. Mỗi giai thoại đó đều được trình bày khéo léo và có điều gì đó thỏa mãn khi thấy ai đó hiểu rõ ràng về thế giới như vậy. Dubner ghi lại những bước đột phá của Levitt với một khuôn mẫu khá thú vị: chúng ta hiểu ra một vấn đề, Levitt đặt một câu hỏi thông minh và chúng ta thấy những loại dữ liệu giúp anh ta hiểu rõ hơn mà chưa ai thu thập được. Dubner nói về đề xuất nổi tiếng nhất của Levitt. Đó là, khi cố gắng tìm ra lý do tại sao tội phạm lại giảm đáng kể như vào đầu những năm 1990, ông đã xác định rằng đó là thời đại mà những đứa trẻ đáng lẽ sẽ được sinh ra nếu không có Roe vs. Wade đến tuổi trưởng thành. Đó là ông đề xuất rằng tội phạm giảm xuống như nó đã xảy ra bởi vì một thế hệ tội phạm có khả năng bị hủy bỏ. Công bằng mà nói, cả hai tác giả đều thừa nhận tính đạo đức rủi ro của tuyên bố đó. Dubner dẫn đầu bằng cách tuyên bố rằng đạo đức là câu chuyện của thế giới như chúng ta mong muốn trong khi kinh tế học là câu chuyện của thế giới như nó vốn có. Cả hai cũng nhảy xung quanh, đôi khi trầm ngâm, về khả năng tồn tại sai sót trong phương pháp luận. Và có thể có. Nhưng đạo đức dường như bị vi phạm ở đây không chỉ đơn thuần là chính trị bạn-không-được-phá thai theo cả hai hướng.

Có vẻ như Levitt đã vi phạm nguyên tắc trung tâm trong tác phẩm của chính mình. Anh ta, tức là, đã đơn giản hóa quá mức một tình huống phức tạp. Một thiên hướng phạm tội, giống như lời khẳng định bâng quơ của anh ta rằng chỉ số IQ là do di truyền (có thể là như vậy, nhưng, nếu vậy, nó cần phải giải thích rất nhiều trước khi có thể sử dụng nó như một yếu tố thay thế) đối với trí thông minh chức năng, chỉ là một thứ có quá nhiều biến đối với một tiền đề được khai báo rõ ràng như vậy. Có thể những đứa trẻ mà cha mẹ không muốn chúng - những đứa trẻ có khả năng bị phá thai - có khả năng phạm tội cao hơn, nhưng chắc chắn còn nhiều điều hơn thế nữa. Nhiều nhà kinh tế lành nghề hơn Levitt – như Richard Thaler và Cass Sunstein – đã đi qua những lãnh thổ tương tự, và họ đã làm điều đó bằng cách thừa nhận sự mơ hồ hơn. Và bằng cách đưa ra ít tuyên bố sâu rộng hơn. Điều này bắt đầu với niềm vui khi được quan sát ai đó xây dựng một cái nhìn sâu sắc về trường hợp hấp dẫn bằng cái nhìn sâu sắc và từng thuật ngữ. Tuy nhiên, vào thời điểm điều này kết thúc, có vẻ như các tác giả của chúng tôi đã cố gắng đưa ra một vài điều khoản chính cho chúng tôi, như thể họ đã khiến chúng tôi chấp nhận những cơ sở mà chúng tôi chưa bao giờ ký vào. Có sự thông minh ở đây, nhưng nó lại thiếu sót của dự án hoàn tác của Michael Lewis, và nó để lại mùi vị khó chịu trong miệng. Và tôi muốn gắn thêm nửa sao cho nó vì đã in lại các bài báo gốc mà Dubner đã viết trên Levitt. Có vẻ như đây là một phần phụ lục không cần thiết, và thật khó xử khi cùng một giai thoại được trình bày bằng một giọng điệu khác, đôi khi với thông tin phụ trợ có thể có nhiều tác dụng hơn ở phần đầu của cuốn sách.

Một số phần của "Kinh tế học hài hước" rất thú vị, đặc biệt là những phần về đại lý bất động sản, đô vật sumo và tên em bé. Tuy nhiên, cuốn sách dường như dựa vào sự tranh cãi và lật ngược sự hiểu biết thông thường, để thu hút sự chú ý vào chính nó, hơn là phân tích sâu sắc. Một số trong những tuyên bố gây tranh cãi này có giá trị. Một trong những tuyên bố gây tranh cãi nhất, rằng phá thai dẫn đến tỷ lệ tội phạm thấp hơn, có thể khiến nhiều người khó chịu, nhưng nó khá rõ ràng. Việc ép buộc phụ nữ sinh con mà họ chưa sẵn sàng, sẵn sàng, không thể hoặc không muốn nuôi nấng sẽ dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực (ở cả cấp độ cá nhân và xã hội), một trong số đó là tỷ lệ tội phạm cao hơn. Trong nhiều trường hợp, các bà mẹ bị buộc phải sinh con sẽ oán giận con cái vì đã nhốt họ trong cảnh nghèo khó hoặc trong các mối quan hệ bị lạm dụng. Tuy nhiên, các tác giả không đề cập đến một yếu tố có thể khác dẫn đến tỷ lệ tội phạm giảm bắt đầu từ những năm 1990. Với sự gia tăng của nhiều kênh truyền hình và máy chơi trò chơi điện tử, trẻ em có nhiều việc phải làm hơn. Nhiều nghiên cứu đã gợi ý rằng những người trẻ tuổi có nhiều việc bận rộn hơn sẽ ít có khả năng tham gia vào các hành vi chống đối xã hội. Tuy nhiên, "Kinh tế học hài hước" thậm chí chưa bao giờ đề cập đến khả năng này. Một vấn đề khác của "Kinh tế học hài hước" là nó dựa trên những dữ liệu rất hạn chế để đưa ra những kết luận sâu rộng. Một trong những kết luận sâu rộng này là cha mẹ làm gì không quan trọng. Đó là những gì cha mẹ là quan trọng. Điểm kiểm tra trong một bài kiểm tra tiêu chuẩn cụ thể là phương tiện được sử dụng để chứng minh điều này. Việc đọc cho trẻ nghe không quan trọng bởi vì những đứa trẻ được đọc cho nghe và những đứa trẻ không được đọc có điểm kiểm tra tương tự nhau. Tuy nhiên, có một số vấn đề với kết luận này.

Tôi luôn hoài nghi về những lời giải thích dựa trên những con số cứng nhắc. Số liệu thống kê nói dối như bất kỳ ai trong sự nghiệp có liên quan đến các con số, trung bình và tỷ lệ cược sẽ biết. Tuy nhiên, tôi thấy cuốn sách này là một cuốn sách đáng đọc. Đối với một, nó đã được nhanh chóng. Tôi đã đọc nó trong ba lần. Tất nhiên, để bán được một cuốn sách, bạn phải đi ngược lại quan điểm phổ biến hoặc thông thường về một chủ đề, nếu không, bạn sẽ không bán được cuốn sách của mình. Nhưng một lần nữa, tốt hơn hết bạn nên đưa ra một lập luận thuyết phục hoặc ít nhất là biết cách vận dụng từ ngữ sao cho có vẻ như bạn đang ủng hộ quan điểm độc đáo của mình về các chủ đề đã được đại chúng coi là đương nhiên. Đây là điều mà các tác giả, Steven D. Levitt và Stephen J. Dubner cố gắng thực hiện. Điều đó có nghĩa là đôi khi họ ủng hộ những khẳng định của mình và đôi khi họ không bao giờ xoay sở để thực sự ủng hộ những tuyên bố của mình. Các chương thú vị nhất đề cập đến những giáo viên gian lận, Ku Kux Klan và những kẻ buôn bán ma túy. Trong chương một, họ đã thảo luận về việc giáo viên phải chịu trách nhiệm nặng nề như thế nào đối với điểm kiểm tra của học sinh đã dẫn đến việc một số giáo viên gian lận. Có nhiều cách họ có thể làm điều này - đưa ra câu trả lời, giúp học sinh làm theo - nhưng cách tốt nhất để tránh bị phát hiện là chỉ cần xem qua các bài kiểm tra và thay đổi câu trả lời sai của học sinh. Giờ đây, giáo viên thông minh không thay đổi mọi đáp án hoặc tất cả các câu trả lời của học sinh. Rốt cuộc, họ là những nhà giáo dục và không ngu ngốc. Nhưng điều đáng ngờ là vì trách nhiệm giải trình của giáo viên, một số học sinh có tiền sử thất bại đột nhiên được so sánh một cách thuận lợi với các bạn cùng trang lứa. Ít nhất là trong một năm. Năm sau, nhiều người trong số họ lại tụt xuống mức cũ. Bây giờ nghi ngờ giáo viên gian lận và chứng minh điều đó là hai việc khác nhau. 

Tôi đã nghe nói về cuốn sách này mãi. Tôi có nhiều cảm xúc lẫn lộn. Một mặt - nó đặt ra một số câu hỏi rất thú vị và rút ra một số suy luận rất thú vị. Nó tạo ra những kết nối hấp dẫn và, tôi nghĩ, quan trọng. Các tác giả cũng khiêm tốn và dễ đọc. Tuy nhiên. Tôi có một số thắc mắc.

 Câu hỏi: Các tác giả cho rằng “những người ủng hộ quyền phụ nữ đã thổi phồng tỷ lệ tấn công tình dục, cho rằng cứ ba phụ nữ Mỹ thì có một người trong đời họ sẽ là nạn nhân của hiếp dâm hoặc cố gắng hiếp dâm. Con số giống như một phần tám - nhưng những người ủng hộ biết rằng sẽ cần một người nhẫn tâm để công khai tranh chấp các yêu sách của họ. Ồ vậy ư? Bạn đang dựa trên điều gì? Báo cảnh sát? Khảo sát? Làm sao bạn biết? Thấy chưa, tôi là phụ nữ. Tôi đã bị tấn công tình dục. Trong số 15 người bạn nữ của tôi, cho đến nay, gần một nửa đã bị tấn công tình dục theo một cách nào đó và hầu hết những người bạn nữ đó thuộc tầng lớp trung lưu thượng lưu (tỷ lệ bị tấn công tình dục thấp hơn phụ nữ thuộc tầng lớp lao động). Nếu 1 trong 3 là sự thật, tôi sẽ không ngạc nhiên; Tôi thậm chí sẽ không ngạc nhiên với ước tính 1 trong 2. Hiện nay. Có bao nhiêu người trong số những người bạn đó đã báo cảnh sát? Không có. Có bao nhiêu người sẽ trả lời nó một cách trung thực trong một cuộc khảo sát ẩn danh? Tôi không biết câu trả lời, nhưng tôi khá chắc chắn rằng một số người sẽ không biết. Vì vậy, bạn thấy đấy, tôi hơi nghi ngờ về độ chắc chắn mà họ nói “Điều đó hoàn toàn sai, đó là 1 trên 8”, rất khó để thiết lập hồ sơ thực tế về loại thông tin này; có lẽ chúng ta không nên lặp lại thống kê này một cách quá sốt sắng”. Tôi không thấy có chỗ nào để nói “điều đó là sai, đó là 1 trên 8", mặc dù những người ủng hộ những người ủng hộ phụ nữ cứu người Bambi đang rỉ máu tim này sẽ khiến bạn tin như thế nào.

Một trong những chủ đề thú vị nhất trong "Kinh tế học hài hước" là giả định sai về quan hệ nhân quả. Những điều này được thực hiện khi mọi người xem xét quan hệ nhân quả đối với một sự kiện cụ thể và họ đưa ra các giả định bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như tư lợi, định kiến, lẽ thường, v.v. một bối cảnh lớn hơn, một số nguyên nhân không liên quan có thể xảy ra để kích hoạt sự kiện ban đầu. Một ví dụ từ cuốn sách là tỷ lệ tội phạm ở Mỹ đã giảm như thế nào vào giữa những năm 90 sau nhiều năm gia tăng và trái ngược với hầu hết các dự đoán. Các tác giả lưu ý rằng việc hợp pháp hóa phá thai vào năm 1973, hoàn toàn không liên quan đến tội phạm, là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ tội phạm giảm. Họ lập luận rằng hầu hết những đứa trẻ không mong muốn, những người có nhiều khả năng có xu hướng phạm tội, đã không được sinh ra nữa vì việc hợp pháp hóa nói trên. Hầu hết mọi người sẽ cho rằng tỷ lệ tội phạm đã giảm do nền kinh tế mạnh hoặc do các chiến lược mới của cảnh sát hoặc bất cứ điều gì. Nhưng khi bạn nhìn vào bức tranh toàn cảnh hơn, chuỗi sự kiện thực sự có thể bắt đầu thành hiện thực. Cuốn sách giúp biết cách phân biệt các giả định tốt với giả định xấu. Một công cụ rất hữu ích trong việc này là nghiên cứu về các động cơ khuyến khích. Mọi người phản ứng với bất cứ điều gì tùy theo động cơ khuyến khích của họ. Động lực có thể bao gồm từ tiền bạc đến thứ gì đó mơ hồ như sự bình an nội tâm. Trong ví dụ trước, những người trong ngân khố sẽ muốn tin rằng một nền kinh tế vững mạnh đã giúp giảm tỷ lệ tội phạm. Cảnh sát trưởng rất có thể sẽ thuyết phục bản thân và những người khác rằng các chiến lược cảnh sát mới của ông ta là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ. Một số người có thể nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã can thiệp và giúp đỡ. Đây có vẻ là một ý tưởng rất đơn giản, nhưng khi nói đến cuộc sống hàng ngày, động cơ của mọi người lại không rõ ràng.

Cuốn sách cho thấy các đại lý bất động sản rất có thể sẽ thuyết phục bạn bán ngôi nhà của mình với mức giá mà họ sẽ không chấp nhận nếu chính họ là chủ sở hữu ngôi nhà của bạn. Lời giải thích của họ khá đơn giản và hợp lý: Khi bạn là chủ sở hữu của ngôi nhà, việc tăng thêm 10000 đô la có nghĩa là chỉ mất vài trăm đô la cho người đại diện, trong khi đó không phải là trường hợp khi người đại diện là chủ sở hữu. Tôi không phải là chuyên gia trong lĩnh vực này, nhưng tôi tin rằng phân tích thống kê và ý nghĩa của nó không phải lúc nào cũng áp dụng được ở cấp độ cá nhân vì nó không thể đưa ra kết luận khô khan và chúng tôi không thích điều đó với từng cá nhân. Có thể nó có thể giúp chúng ta quan sát kỹ hơn, nhưng điều đó có những tác dụng phụ đáng kể, trong đó khả năng xảy ra cao nhất là sự nhầm lẫn. Các tác giả cho rằng cuốn sách sẽ giúp ích cho cá nhân mọi người, nhưng tôi nghĩ nó có thể giúp ích nhiều cho các tập đoàn hoặc nhóm. Một vấn đề khác mà tôi nhận ra là mối tương quan của dữ liệu, điều này có thể dẫn đến những kết quả trái ngược nhau như đã xảy ra trong chính cuốn sách này. Trong một nghiên cứu, các tác giả chỉ ra rằng cha mẹ có thu nhập cao thường nuôi dạy con cái thành đạt. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu khác ở gần cuối cuốn sách, họ chỉ ra rằng tình trạng kinh tế của cha mẹ hoàn toàn không ảnh hưởng đến sự thành công trong cuộc sống của con cái họ, vì có thể có các yếu tố khác tác động. Tôi biết rằng trong thống kê, rất tự nhiên là các trường hợp riêng lẻ có thể mâu thuẫn với nhau, đó là điều vốn có trong bản chất của thống kê, nhưng khi toàn bộ kết quả thống kê trái ngược nhau, tôi nghĩ phương pháp được sử dụng có thể bị coi là không hiệu quả. Điều này thú vị hơn là đáng tin cậy, ngoại trừ chương cuối cùng về những cái tên mà tôi tin là hoàn toàn lãng phí thời gian. Tôi nghĩ rằng thay vì cung cấp bất cứ điều gì mới, cuốn sách là một sự đào tạo thực tế về một trí tuệ lâu đời hơn nhiều.