Bằng những góc nhìn hài hước và lối kể
chuyện sinh động, Steven D. Levitt và đồng tác giả Stephen J. Dubner đã dẫn dắt
độc giả đi khám phá những khía cạnh bất ngờ còn ẩn khuất của mọi hiện tượng xã
hội từ quan điểm kinh tế học thông qua cuốn sách có cái tên vô cùng đặc biệt: Kinh tế học hài hước (Freakonomics). Và trong
câu chuyện mở màn của chuỗi các hiện tượng xã hội mà Levitt và Dubner đã đưa
vào trong Kinh tế học hài hước, hãy
cùng khám phá một góc nhìn vô cùng thú vị bằng cách đi tìm câu trả lời cho câu
hỏi: Tại sao tỷ lệ tội phạm ở nước Mỹ trong những năm 90 của thế kỷ trước lại
giảm đột ngột, dù cho các dự báo đều chỉ ra rằng tỷ lệ ấy sẽ có xu hướng tăng lên
trong tương lai?
Bất kỳ
ai sống tại Hoa Kỳ vào những năm đầu thập niên 1990 có quan tâm đôi chút tới
các bản tin tối hay nhật báo đều có thể được cảm thông nếu họ rơi vào tâm lý hoảng
loạn.
Nguyên
nhân chính là tình trạng tội phạm. Tội phạm không ngừng gia tăng – biểu đồ về tội
phạm tại bất kỳ thành phố nào của Mỹ trong những thập kỷ gần đây đều biểu thị độ
dốc đi lên – và đồ thị đó như báo trước ngày tận thế vậy. Tử vong do súng đạn,
có chủ đích hay vì nhiều lý do khác, đã ngày càng trở nên phổ biến. Cũng nhức
nhối như nạn cướp bóc, phá hoại ô tô, trộm cắp và hiếp dâm, tội phạm đã trở
thành một nỗi khiếp sợ thường trực. Mọi thứ dường như sẽ ngày càng tồi tệ. Tệ
đi rất nhiều. Tất cả các chuyên gia đều nói vậy.
Nguyên
nhân là do một kẻ được coi là tội phạm siêu hạng cùng một lúc có mặt tại khắp mọi
nơi. Hắn xuất hiện trên bìa các tờ tuần báo với ánh mắt trừng trừng, nghênh
ngang xuất hiện trên các báo cáo của chính phủ. Hắn có vóc dáng khẳng khiu, một
thanh niên sống trong thành phố lớn với một khẩu súng rẻ tiền trong tay và trái
tim trống rỗng, chỉ chất chứa bạo lực. Chúng ta cũng biết rằng có hàng ngàn kẻ
như vậy ngoài xã hội, một thế hệ những kẻ giết người luôn muốn đẩy nước Mỹ vào
tình trạng hỗn loại cực điểm.
Năm
1995, một chuyên gia tội phạm học là James Alan Fox đã viết một bản báo cáo gửi
tới vị Tổng chưởng lý của Mỹ, liệt kê rất chi tiết xu hướng gia tăng các vụ án
mạng do trẻ vị thành niên gây ra. Fox đưa ra cả viễn cảnh lạc quan và bi quan.
Với viễn cảnh lạc quan nhất, ông tin rằng tỷ lệ án mạng do trẻ vị thành niên
gây ra sẽ tăng 15% trong thập niên tới; còn với viễn cảnh bi quan, tỷ lệ này sẽ
tăng gấp đôi. Theo ông, “Làn sóng tội phạm sắp tới sẽ cực kỳ nhức nhối” và “đến
mức nó sẽ khiến chúng ta nhìn lại năm 1995 giống như những ngày tươi đẹp xa
xưa”.
Các
nhà nghiên cứu tội phạm học, các nhà khoa học chính trị và cả các nhà dự báo
trong những lĩnh vực khác đã dự đoán một tương lai cũng khủng khiếp như vậy. Đó
cũng là ý kiến của Tổng thống Clinton, thể hiện trong phát biểu: “Chúng ta đều
biết nước Mỹ cần khoảng sáu năm để thay đổi hoàn toàn tình trạng tội phạm vị
thành niên, hoặc nước Mỹ sẽ phải chung sống với sự hỗn loạn. Và con cháu chúng
ta sẽ không thể thấy được những cơ hội tuyệt vời của nền kinh tế toàn cầu;
chúng ta sẽ chỉ cố gắng để bảo vệ tính mạng của mọi người ở những thành phố
này”. Những đồng tiền quý giá sẽ chỉ được dành cho việc chống tội phạm.
Nhưng
sau đó, thay vì gia tăng liên tục, liên tục và liên tục, tội phạm bắt đầu suy
giảm. Giảm, giảm và ngày càng giảm mạnh hơn. Tỷ lệ tội phạm giảm một cách đáng
kinh ngạc trên một số khía cạnh. Tội phạm suy giảm tại khắp mọi nơi và mọi loại
tội phạm đều suy giảm ở khắp mọi miền trên đất nước Mỹ. Tội phạm giảm liên tục
và ngày càng giảm qua từng năm. Mà điều này hoàn toàn không được dự báo trước –
nhất là không phải do những chuyên gia, từng dự báo về những diễn biến ngược lại.
Sự thể
hoàn toàn đảo lộn đến mức đáng kinh ngạc. Tỷ lệ sát thủ vị thành niên, thay vì
tăng 100% hay thậm chí chỉ 15% như James Alan Fox đã cảnh báo, đã giảm hơn 50%
trong vòng 5 năm. Năm 2000, tỷ lệ án mạng trên toàn nước Mỹ đã giảm xuống tới mức
thấp nhất trong vòng 35 năm qua. Tỷ lệ các loại tội phạm khác, từ hành hung tới
cướp ô tô, cũng giảm tương tự như vậy.
Mặc dù
các chuyên gia đã không thể dự báo về tình trạng tội phạm giảm sút – mà thực tế
đó diễn ra ngay cả khi họ đang đưa ra những dự báo nghiêm trọng về tình trạng tội
phạm giảm sút – thì nay họ lại vội vàng giải thích hiện tượng này. Hầu hết những
giả thuyết của họ đều có vẻ hoàn toàn hợp lý. Các chuyên gia cho rằng đó chính
là do nền kinh tế đang phát triển của những năm 1990 đã góp phần giảm bớt tội
phạm. Họ cho rằng đó chính là do sự tăng cường của luật kiểm soát súng; đó là
do các chiến lược cải tổ ngành cảnh sát được triển khai tại thành phố New York,
nơi các vụ án mạng đã giảm từ 2.245 vụ trong năm 1990 xuống còn 596 vụ trong
năm 2003.
Các giả
thuyết này không chỉ hợp lý; chúng còn mang tính khích lệ khi đã gắn sự suy giảm tội phạm với những sáng kiến cụ thể
và mới mẻ của xã hội. Nếu nguyên nhân chính là do việc kiểm soát súng chặt chẽ
hơn và số lượng cảnh sát tăng lên đã đẩy lui nạn tội phạm, thì sức mạnh để chế
ngự nạn tội phạm thật sự nằm trong tầm tay của chúng ta. Và nếu vậy trong thời
gian tới, lạy Chúa, bọn tội phạm sẽ khốn đốn.
Các giả
thuyết đều có lý lẽ riêng của chúng, có vẻ như chẳng có sai sót gì từ lời giải
thích của các chuyên gia, tới diễn giải của báo chí và nhận thức của người dân.
Tóm lại, chúng đã trở thành nhận thức thông thường.
Duy chỉ
có một vấn đề: các giả thuyết đó không đúng.
Có một
yếu tố khác đóng vai trò chính trong việc đẩy lui nạn tội phạm trong thập niên
1990. Yếu tố đó đã hình thành từ hơn 20 năm trước và liên quan tới một phụ nữ
trẻ tuổi ở Dallas có tên là Norma McCorvey.
Cũng
giống như một con bướm độc xuất hiện tại một lục địa và cuối cùng lại gây ra thảm
họa tại một lục địa khác, Norma McCorvey đã thay đổi đột ngột tiến trình của
các sự kiện mà không hề có chủ ý. Tất cả những điều cô ta muốn chỉ là việc phá
thai. Đó là một phụ nữ 21 tuổi, nghèo, thất học, không nghề nghiệp, nghiện rượu
và ma túy; đã cho hai đứa con làm con nuôi người khác và lúc đó, cái năm 1970 ấy,
người phụ nữ này phát hiện mình lại có thai. Nhưng tại Texas, cũng như các bang
khác (ngoại trừ một vài bang) ở Mỹ thì việc phá thai bị coi là bất hợp pháp. Vấn
đề của McCorvey đã được nhiều nhân vật có quyền lực hơn hẳn người phụ nữ này ủng
hộ. Những nhân vật đó đã đưa người phụ nữ này trở thành nguyên đơn trong một vụ
đòi hợp pháp hóa việc phá thai. Bị đơn là Henry Wade, luật sư tại Hạt Dallas.
Cuối cùng vụ án đã được tống đạt lên Tòa án Tối cao Mỹ, tất nhiên lúc đó
McCorvey đã được đặt tên giả là cô Jane Roe. Ngày 22 tháng Một năm 1973, tòa án
đã tuyên bố cô Roe thắng kiện, cho phép hợp pháp hóa việc phá thai trên toàn quốc.
Vào thời gian đó, tất nhiên là đã quá muộn để McCorvey (dưới cái tên là Roe)
phá thai. Và người phụ nữ này đã sinh con và nuôi con tới khi lại cho con làm
con nuôi. (Những năm sau đó, người phụ nữ này đã phủ nhận trách nhiệm của mình
đối với việc phá thai được hợp pháp hóa và trở thành một người hoạt động xã hội).
Vậy vụ
việc của Roe có vai trò gì trong đợt suy giảm làn sóng tội phạm mạnh mẽ nhất
trong lịch sử?
Nói tới
tội phạm, hóa ra không phải mọi đứa trẻ sinh ra đều bình đẳng, hay thậm chí là
gần bình đẳng. Các nghiên cứu trong hàng thập kỷ đã cho thấy một đứa trẻ được
sinh ra trong môi trường gia đình hoàn cảnh bất ổn sẽ có nguy cơ trở thành tội
phạm cao hơn những đứa trẻ khác. Và hàng triệu phụ nữ phá thai theo trào lưu của
Roe – những phụ nữ nghèo, sống đơn thân, những bà mẹ tuổi vị thành niên (mà với
họ, việc phá thai bất hợp pháp là quá tốn kém và khó khăn) – sẽ là những hình mẫu
của sự bất ổn. Con cái họ, nếu như được sinh ra, sẽ có nguy cơ trở thành tội phạm
cao hơn rất nhiều so với mức trung bình. Nhưng sau vụ kiện của Roe, những đứa
trẻ đó đã không được sinh ra. Nguyên nhân này gây ra một tác động sâu sắc và
lâu dài, dẫn tới kết quả: nhiều năm sau đó, do những đứa trẻ chưa được sinh ra
đã không có cơ hội bước vào thời kỳ phạm tội của chúng, nên tỷ lệ tội phạm đã
giảm mạnh.
Không
phải do việc kiểm soát súng, hay do nền kinh tế thịnh vượng, hay các chiến lược
kiểm soát mới đã cản bước làn sóng tội phạm tại Mỹ. Ngoài những yếu tố khác,
thì còn một nguyên nhân quan trọng là do số lượng người có nguy cơ trở thành tội
phạm đã giảm sút đột ngột.
Giờ
đây, khi là các chuyên gia nghiên cứu hiện tượng suy giảm tội phạm (trước đó là
các chuyên gia nghiên cứu tội phạm) thêu dệt các giả thuyết của họ trước báo
chí, đã bao nhiêu lần họ dẫn việc phá thai được hợp pháp hóa là một nguyên nhân
của hiện tượng suy giảm làn sóng tội phạm?
Chưa bao giờ.
______________
Theo dõi fanpage của Bookademy để
cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy
Đăng
ký để trở thành CTV Bookademy tại link: http://bit.ly/bookademy_ctv
Một phần của cuốn sách phù hợp với mối quan tâm của tôi. Nó ghi lại cách một nhà kinh tế thực sự thông minh áp dụng các công cụ trong lĩnh vực của mình cho những câu hỏi dường như nằm ngoài lĩnh vực đó. Ví dụ, anh ấy cố gắng chỉ ra rằng chúng tôi, những bậc cha mẹ ở ngoại ô, lo lắng về bạo lực súng đạn hơn là về việc bể bơi của chúng tôi là mối nguy hiểm đe dọa đến tính mạng của con cái chúng tôi. Hoặc anh ấy cho chúng tôi thấy rằng các đại lý bất động sản có động cơ bán nhà của chúng tôi với giá thấp hơn những gì họ có thể nhận được. Hoặc các đô vật sumo có động cơ gian lận khi họ thấy mình trong các trận đấu cao su quan trọng trong các sự kiện của họ. Hoặc thậm chí là có một cách để xác định giáo viên trường công lập nào ở Chicago đã đưa ra câu trả lời cho học sinh của họ trong các bài kiểm tra tiêu chuẩn. Mỗi giai thoại đó đều được trình bày khéo léo và có điều gì đó thỏa mãn khi thấy ai đó hiểu rõ ràng về thế giới như vậy. Dubner ghi lại những bước đột phá của Levitt với một khuôn mẫu khá thú vị: chúng ta hiểu ra một vấn đề, Levitt đặt một câu hỏi thông minh và chúng ta thấy những loại dữ liệu giúp anh ta hiểu rõ hơn mà chưa ai thu thập được. Dubner nói về đề xuất nổi tiếng nhất của Levitt. Đó là, khi cố gắng tìm ra lý do tại sao tội phạm lại giảm đáng kể như vào đầu những năm 1990, ông đã xác định rằng đó là thời đại mà những đứa trẻ đáng lẽ sẽ được sinh ra nếu không có Roe vs. Wade đến tuổi trưởng thành. Đó là ông đề xuất rằng tội phạm giảm xuống như nó đã xảy ra bởi vì một thế hệ tội phạm có khả năng bị hủy bỏ. Công bằng mà nói, cả hai tác giả đều thừa nhận tính đạo đức rủi ro của tuyên bố đó. Dubner dẫn đầu bằng cách tuyên bố rằng đạo đức là câu chuyện của thế giới như chúng ta mong muốn trong khi kinh tế học là câu chuyện của thế giới như nó vốn có. Cả hai cũng nhảy xung quanh, đôi khi trầm ngâm, về khả năng tồn tại sai sót trong phương pháp luận. Và có thể có. Nhưng đạo đức dường như bị vi phạm ở đây không chỉ đơn thuần là chính trị bạn-không-được-phá thai theo cả hai hướng.