Tướng về hưu, nhan đề dẫu đơn giản nhưng đằng sau nó là cả một bi
kịch cuộc đời. Khi chiến tranh qua đi, đời sống xã hội bắt đầu vận động theo hướng khẳng định cá nhân, những tác động
xã hội bên ngoài chính là nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến từng cá thể của cộng
đồng con người.
Con người trong truyện ngắn sau 1975 luôn mang nỗi cô đơn về tinh thần. Với tư cách là một thực thể sống, chỉ họ nhận biết sự cô đơn và chỉ cảm nhận được điều đó khi ở giữa cộng đồng mà thôi. Nghĩa là, nơi đâu có cô đơn, ở đó luôn có mối quan hệ bị tách rời khỏi cộng đồng và sự còn lại một mình. Những mối quan hệ bị đánh mất trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 thường xuất phát từ sự khác biệt mà hệ quả của nó là nỗi cô đơn mang sắc thái lạc loài. Đến sau 1986 tính toàn diện về con người đã được bộc lộ. Lúc này, con người cá nhân được khám phá sâu hơn vào bản thể với những trạng thái cô đơn, xa lạ.
Và sự cô đơn cũng được phân loại, đó là con người tự cô đơn và con người bị cô đơn. Riêng đối với hình tượng ông Thuấn trong Tướng về hưu, thì đây là một trường hợp thuộc khía cạnh bị cô đơn. Con người lúc này rơi vào trạng thái cô đơn mang tính bị động, họ bị đẩy vào một môi trường xa lạ, lạc lõng, không có khả năng thiết lập mối quan hệ với các cá nhân khác, bị ruồng bỏ, lạc loài giữa cộng đồng.
Bi kịch này xảy ra vào thời điểm khi kinh tế thị trường, văn minh công nghiệp mở ra, lối sống thực dụng như một cơn gió lốc tràn vào từng ngóc ngách của cuộc sống. Con người lúc này sẽ trở nên bơ vơ, lạc loài vì bị đẩy vào một thế giới mà họ không thể thích ứng được với nó. Chẳng hạn như ở nhân vật ông Thuấn, tình cảnh buộc ông trở về với một xã hội lạ lẫm bên ngoài môi trường quân đội đã khiến ông phải thốt lên: “Sao tôi cứ mãi lạc loài”. Đó là sự trăn trở, day dứt trong tâm hồn ông Thuấn – vị tướng về hưu trong kiệt tác cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp.
Ông Thuấn từng là một người lính, một vị chỉ huy mẫu mực,
một tấm gương sáng trong mắt mọi người: “Ở trong gia đình, cha tôi bao giờ cũng là
hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi của cha
tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng” – qua lời kể lại của Thuần,
người con trai duy nhất của ông. Từ rèn luyện trong quân đội, mà ông có một lối
sống trong sạch, ngay thẳng, không vụ lợi. Thế nhưng khi giã từ con đường binh
nghiệp để trở về cuộc sống đời thường, ông phải đối mặt với bao nhiêu bộn bề,
ngang trái.
Vị tướng về hưu và không thể hòa hợp được với cái lạnh lùng, cái lạ lùng của lối sống thực dụng. Cuộc sống hiện tại không còn chỗ cho ông, ông dần trở thành người thừa, người xa lạ với chính những người thân trong gia đình mình. Một khối cô đơn khổng lồ đè nặng lên tâm hồn vị tướng của một thời lửa đạn. Khoảng thời gian đầu mới về hưu, ông không biết cuộc sống tiếp theo của mình phải như thế nào. Bởi lẽ, khi còn trong quân đội đã quen việc phải luôn lao động, mọi chuyện luôn nằm trong kế hoạch và khuôn phép chuẩn mực thì khi trở về cuộc sống bình thường, ông đã không biết mình sẽ phải làm gì. Ông Thuấn dần trở lên lạc lõng hơn giữa gia đình của mình khi con trai, con dâu, hai đứa cháu và những người làm đều có công việc riêng. Những công việc ông không hiểu và họ cũng không muốn ông tham gia vào.
Từ một con người bận rộn công việc, thì sự nhàn rỗi lúc này
đã khiến ông trở nên bứt bối. Bên cạnh những sự việc diễn ra trước mắt thì lối
tư tưởng của ông cũng không thể tiếp nhận nổi với lối tư duy của những người mà
ông gọi là “một nhà”. Ông cảm thấy buồn lòng, khó chịu khi vợ mình bị tách biệt
với gia đình chỉ vì “Tại mẹ lẫn” –
qua sự nhìn nhận của đứa con dâu. Ông khóc khi chứng kiến các rau thai nhi
trong nồi cám: “Khốn nạn, tao không cần sự giàu có này”. Ông luống cuống
khổ sở trong một đám cưới ngoại ô lố lăng và dung tục. Ông ngán ngẩm trước việc
đứa con dâu ngoại tình. Càng chán ghét hơn với cái sự nhu nhược của thằng con
trai. Ông nhận ra một sự thật cay đắng rằng “Đàn
ông thằng nào có tâm thì nhục… tâm càng lớn càng nhục”.
Sự cô đơn,
lạc lõng của ông Thuần xuất phát từ sự mâu thuẫn của lý tưởng cao đẹp một thời
và sự thật trần trụi của một thời đại mới. Một người như ông, từng được đặt
trong “bầu không khí vô trùng” của
thời trước chắc chắn không đủ sức đề kháng để đối chọi với sự thật của thời
này. Ông Thuấn từ người lính trong chiến tranh khi trở về với đời sống dường
như bước vào một cuộc sống khác với hai bàn tay trắng. Giữa một cái thế giới
mới rối rắm, xấu xí, méo mó về nhân hình nhân tính đã khiến ông trở nên hoang
mang, choáng ngợp. Càng ở lâu ông càng không thể thấm thía nổi cái lối sống
toàn điều đen tối đang cuồn cuộn sóng ngầm ấy. Ông quyết định trở lại chiến
trường. Và ông hi sinh. Cuối cùng, ông Thuấn cũng có thể thoát ra khỏi cái thế
giới lạ lẫm và đi đến nơi thuộc về mình, làm những điều phù hợp với lí tưởng sống
của bản thân và kết thúc cuộc đời mình bằng sự trong sạch cuối cùng.
Lời kết:
Tướng về hưu là một cuốn truyện ngắn kể về xã hội trong thời bình của đất
nước ta mà bạn nên thử đọc. Từ bi kịch của một vị tướng đã về hưu khi phải đối
diện với sự biến đổi đầy khắc nghiệt của cái xã hội bên ngoài quân đội sẽ mở ra
một thế giới đa diện mà chúng ta có lẽ chưa từng biết đến. Một thế giới mà lòng
người đôi khi còn đáng sợ hơn cả bom đạn, thuốc súng.
Review
chi tiết bởi: Ngọc Diệp - Bookademy
Hình
ảnh: Ngọc Diệp
--------------------------------------------------
Theo
dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link:
Bookademy
(*)
Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại,
vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ "Tên tác giả - Bookademy." Các bài
viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.
Truyện “Tướng về hưu” là một câu chuyện về gia đình nhưng lắng đọng trong đó là rất nhiều bi kịch và mâu thuẫn của những con người trong thời kỳ Đổi mới. Trong bức tranh gia đình ông Thuần, ta không thấy sự đói khổ, thiếu thốn về vật chất như những gia đình khác mà ở đó là sự dằn vặt trong nội tâm của từng thành viên trong gia đình.
Câu chuyện được kể lại qua lời của người con trai. Ta có thể cảm nhận được sự thay đổi của nhân vật này qua cách Nguyễn Huy Thiệp sử dụng câu cú, nửa đầu truyện đa số là mô tả nhân vật, hành động, sự kiện bằng những câu văn ngắn, không chứa đựng cảm xúc hay đánh giá gì của nhân vật, khiến người đọc cảm nhận nhân vật “tôi” là một người khô khan và xa rời thực tế. Ông như một cái bóng nhạt nhòa trong gia đình, lúc nào cũng “vợ tôi nói” và ông nhu nhược trong vai trò làm cha, làm chồng. Ở đây, hình mẫu gia đình truyền thống với người đàn ông làm chủ gia đình đã bị đảo lộn, bởi người vợ mới là người làm kinh tế, gia tăng thu nhập cho gia đình và đồng thời quyết định mọi chuyện, từ nơi ăn chốn ở cho từng người đến việc ma chay, cúng kiếng. Nhân vật Thủy là một người phụ nữ tháo vát và năng động, cô cũng biết quan tâm đến gia đình, nhưng chủ yếu là về nhu cầu vật chất, chứ không để ý gì đến đời sống tinh thần. Thủy có tính quyết đoán và phán xét mọi việc theo lý trí hơn là tình cảm. Công việc ở bệnh viện hay tại gia của cô đều là những việc mà xã hội không dễ dàng chấp nhận, qua đó ta cũng thấy được cách sống lý trí và rấ thực dụng của Thủy. Gia đình của Thuần có lẽ là một định nghĩa của NHT về hình mẫu gia đình hiện đại, “sống theo lối mới, suy nghĩ độc lập, nhìn nhận vấn đề xã hội tương đối giản dị” và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn ngầm trong gia đình. Gia đình ấy như một xã hội thu nhỏ, có cả người làm kinh doanh, người trí thức, tướng quân đội, người làm thuê, và những thành phần bất hảo của xã hội. Xung đột giữa họ cũng chính là xung độ của giai cấp trong xã hội thời Đổi mới.
Giữa Thủy và ông Thuấn là sự xung đột giữa giới kinh doanh và những người cựu chiến binh. Trong khi Thủy sống rất thực tế, tính toan thì ông Thuấn vẫn sống trong hào quang cũ kỹ của một ông cựu thiếu tướng. Khi ông nghỉ hưu và được con dâu gợi ý nuôi vẹt, ông phản ứng rằng “Kiếm tiền à?”, ta có thể thấy được thái độ khinh thường của ông đối với việc kinh doanh và kiếm tiền. Ông Thuấn là hình ảnh cho những người lính bước ra từ cuộc chiến, đã quen với tác phong quân đội, với cuộc sống không cần lo cơm áo gạo tiền, chỉ lo chiến đấu, có thể nói ông đã bị một cú sốc văn hóa. Ông cũng không ca ngơi chiến tranh, ông sống trong hào quang nhưng cũng là nỗi dằn vặt sâu sắc mà người đọc có thể cảm nhận được qua câu chửi “Mẹ mày! Láo!” khi đứa cháu vô tình bảo “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” hay trong cái ngậm ngùi “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục. Tâm càng lớn, càng nhục” và cả trong câu nghẹn ngào “ con không hiểu rằng cả tin chính là sức mạnh để sống hả con?” Cái sự “lúng túng, khổ sở,…kinh hãi, đau đớn” của ộng trong cái đám cưới “ô hợp, láo nháo thản nhiên rất đời” khiến người đọc thấy xót xa và thương cảm cho ông, một người “từng chôn ba nghìn người” giờ lại bất lực trước sự bát nháo của chính gia đình mình. Câu nói của Thủy “Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy…” nghe như một lời châm biếm sâu sắc, bởi chính trong gia đình ông, ông vẫn không được “quyền” “sống ở dãy nhà ngang với mẹ tôi”, không được giúp ông Cơ và cô Lài, đến cả việc đi đâu, làm gì của ông vẫn chịu ảnh hưởng bởi Thủy, người quản lý kinh tế của gia đình. Ta thấy thấp thoáng trong nhân vật Thủy là hình ảnh chính quyền, kiểm soát về kinh tế và đối xử với những cựu chiến binh một cách trân trọng giả tạo, tôn thờ tung hô nhưng cũng tước đi quyền lực của họ.
Nhân vật ông Bổng cũng là một nhân vật khá đặc biệt khiến người đọc liên tưởng đến Chí Phèo của Nam Cao. Ông là người “ghê gớm, to như hộ pháp ăn nói văng mạng”. Ông mang tư tưởng của người bình dân, xem thường “Quân trí thức khốn nạn! Rẻ dân lao động!” nhưng vẫn không ngại ngùng đi vay tiền hay lợi dụng tang ma mà làm lợi cho riêng mình. Ông cũng có nỗi đau của riêng mình, bị “cả làng gọi là đồ chó. Vợ em gọi là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là khốn nạn” và chỉ có người mẹ già lú lẫn xem ông là người mà thôi. Giọt nước mắt của ông cũng như của Chí Phèo, giọt nước mắt của khao khát làm người lương thiện nhưng trong xã hội khó khăn này, không có cái danh phận của con nhà tướng, không có tiền bạc của người làm kinh doanh hay ít nhất là học thức của người trí thức thì những người bình dân không đủ sống bằng sự lương thiện của mình. Trong đám tang bà cụ, ngoài ông Thuấn và đứa con trai, chỉ có cô Lài dở người và ông Bổng “lỗ mãng, táo tợn” khóc thật tình, còn con dâu và những đứa cháu chẳng có tiếng khóc than, chỉ toàn những tiếng tính toán mâm cỗ thiệt hơn.