Tuổi thơ, tuổi thơ, ai mà chả có một quãng thời gian để nhớ để chiêm nghiệm lại khi trưởng thành để thấy bản thân thật khờ khạo. Đó là quãng thời gian thanh xuân, trong sáng nhất nơi ta được thoả sức vẫy vùng, cho rằng mình là trung tâm của thế giới nhỏ bé xung quanh. Nếu bạn đang có một ngày mệt mỏi vì những bộn bề của cuộc sống, sự xoay vần của thế sự và muốn tìm một góc yên bình cho bản thân để được hồi tưởng, thắp lại chút gì đó ký ức tuổi thơ, xin hãy đọc và cảm nhận cuốn sách này. Nhân sinh hữu biệt – mỗi người đều có những ký ức tuổi thơ khác nhau, tuổi thơ của Duy Khán cũng vậy, nó mang mùi nghèo, mùi đói nhưng đọc những trang sách cũ ấy ta vẫn thấm đượm một thứ tình cảm về quê hương, con người, cảnh vật; độc giả như được đắm mình trong sắc nắng, thả mình trong cơn gió, và trải qua những năm tháng khốc liệt nơi miền quê tác giả.

Không được sinh ra trong những năm tháng hào hùng của dân tộc, tôi đến với thế giới này khi đất nước đang trên đà hội nhập và đổi mới. Vì vậy hình ảnh tuổi thơ tác giả gắn với vùng quê trước những năm 45 thật xa lạ - tưởng chừng như chỉ xuất hiện ở một thế giới khác. Tuy nhiên điều đó không ngăn được sự khát khao tìm hiểu cũng như đồng cảm của tôi về thế giới mà nhà văn đã hồi tưởng. Có lẽ sự thấu hiểu ấy xuất phát từ cách nhà văn tả núi, tả sông, tả con người, con vật, đồ vật, … Tất cả tạo nên cái nét làng quê bình lặng không lẫn vào đâu được.

Vài nét về tác giả Duy Khán và bối cảnh của Tuổi thơ im lặng

Duy Khán (6/8/1934 – 29/1/1993), sinh ra và có một khoảng thời gian trưởng thành tại huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Ông theo cách mạng từ năm 15 tuổi – hoạt động một cách năng nổ trong kháng chiến với vai trò là một nhà văn, nhà thơ, nhà báo, phóng viên chiến trường. Tuổi thơ im lặng là tác phẩm làm nên sự thay đổi trong cuộc đời cầm bút của tác giả. Không khó nhận ra, bối cảnh làng quê trong Tuổi thơ im lặng là nơi tác giả sinh hoạt trước khi gia nhập quân đội vào năm 15 tuổi. Cuốn hồi ký được viết từ năm 1977 và xuất bản vào năm 1986 thế mới thấy, những miền ký ức về tuổi thơ của văn nhân đã được ấp ủ và chau chuốt đến thế nào.

Theo lời tựa, cuốn sách là món quà dành tặng cho 3 người con của tác giả, vì thế những gì được viết trong cuốn sách là những gì chân thực nhất, những cảnh vật, con người đã bồi đắp một người cha, một chiến sĩ cách mạng như lúc ấy. Cuốn sách được viết bằng tất cả tình yêu thương, sự trân trọng luyến tiếc với quá khứ. Trong tâm trí tôi cuốn sách ấy luôn luôn hiện lên với hình dạng ố vàng, nhuốm màu thời gian.

Tuổi thơ trong tập sách này tính từ bao giờ? Bố tính theo lối tính của bố: từ khi biết nhận thức cho đến tuổi mười lăm. Tuổi mười lăm đúng bằng tuổi Khánh

Viết về bối cảnh làng quê trước năm 45, có thể diễn tả tuổi thơ im lặng như một thước phim nhựa nhưng được thu một cách toàn cảnh từ trên cao. Không kể lại những câu chuyện có lớp lang, không đi theo bố cục không gian, không xuôi theo dòng thời gian; Tuổi thơ im lặng viết về những ngày Duy Khán nhận thức cho đến tuổi mười lăm, nhưng không đi theo công thức chung. Không chắc có thể gọi đây là những câu chuyện hay không, nhưng cuốn sách là tập hợp những gì đẹp nhất, những ấn tượng mạnh nhất của tác giả về những người, địa danh thậm chí những cảnh sắc, đồ vật, con vật đã từng tồn tại và là một phần tuổi thơ của nhà văn. Những cảnh vật đôi khi là một tổng thể lớn lao, hùng vĩ như Thế đất: “Đứng ở chỏm núi cao nhất nhìn xuống: núi hoàn toàn là một con rồng. Gọi chung là núi Dạm. Làng tôi ở giữa núi nên gọi là Sơn Trung hay Dạm Giữa. Tên “Dạm” hình như thuộc về tình yêu. Quay mặt về hướng đông thị xã Lãm Dương bám vào các “chân rồng” bên trái, thoai thoải.” Nhiều khi lại đan xen bằng những thứ nhỏ bé, tưởng chừng chẳng ai thèm nhớ, chẳng ai thèm quan tâm như trong truyện những đồ dùng biết nói: nó là cái chày, cái cối, cái chăn dạ. Tất cả chúng được miêu tả thật kỹ lưỡng, thật chân thực cứ như vẫn tồn tại bên cạnh tác giả, chưa bao giờ biến mất, chưa bao giờ mục ruỗng.

Hồi ức về những năm tháng trước cách mạng là những năm tháng đau đớn nhưng không kém phần hào hùng của dân tộc, vì thế không lạ khi truyện viết về những đói nghèo, thiếu thốn, bệnh tật, những cảm cảnh mà có lẽ thời nay không ai có thể tưởng được. Nhưng truyện không đi sâu vào những chi tiết ấy, hoặc nói một cách khác nó khiến người đọc không tập trung vào những đau thương đã trở nên quen thuộc trong các tác phẩm trước cách mạng. Ngược lại người đọc bị thu hút, say mê bởi những cảnh sắc làng quê miền Bắc trước cách mạng. Cái cách mà tác giả miêu tả thật đơn giản, mộc mạc nhưng chạm đến trái tim của bao thế hệ, Duy Khán có cài tài miêu tả tài tình khiến cho độc giả không thể thoát ra khỏi những câu chuyện đời tưởng chừng đã trở nên quen thuộc nhàm chán, những thứ tưởng chừng chẳng có gì để viết để nhớ, thì lại được ông khơi thông, truyền vào cái hồn khiến nó trở nên độc và lạ, hay là do chúng ta đã sống trong xã hội xô bồ quá lâu nên cần chút gì đó để nhớ, hoài niệm về cuộc sống thuở xưa.

Những con người xuất hiện trong Tuổi thơ im lặng, đến và đi thoáng qua có những người hiện lên xinh đẹp tinh nguyên như trong ký ức: “anh Bao chị Bạch trong đám đu ngày hội xuân, cô Phan hiện lên da trắng hồng, hai hàm răng đều đặn, cô nhuộm bao giờ mà đen nhánh. Khi cô cười cái môi thêm đỏ”: chị Ngoãn là cô gái "xinh nhất nhì cái làng Vân này”, có những người thì lẳng lặng đi, lẳng lặng về, đôi khi chỉ lướt qua cuộc đời tác giả nhưng đã trở thành một phần ki ức không quên: bà Chè người gầy, dáng đi liêu xiêu, hai bàn chân toẽ ra như chân vịt, bà Sứt, với miếng môi bị sứt, giọng nói phều phào. Không ai là hoàn toàn xấu, không ai toàn thiện. Họ hiện lên với những câu chuyện riêng đời mình, đâu đó trong những áng văn tươi đẹp vẫn xuất hiện những con người chìm nổi, bấu víu vào cuộc sống. Khi đọc chương truyện Những nấm mộ bên đường ta thấy xúc động cho những kiếp người tha hương, chịu nhân tình ấm lạnh. Làm sao Duy Khán có thể quan sát và hồi tưởng về những con người tưởng chừng như bình thường mà đâu đâu cũng bắt gặp như thế? Người nhà là chủ thể xuất hiện thường trực và chiếm một phần quan trọng trong những câu chuyện của Duy Khán. Xuyên suốt trong hành trình ký ức của nhà văn là tình cảm mãnh liệt, mạnh mẽ, thứ tình cảm ấy không chỉ thực hiện qua lời nói mà còn được miêu tả thông qua dáng hình bóng ảnh, ai cũng hiện lên trong cái đói cái nghèo nhưng không che dấu nổi tình cảm của những người thân trong gia đình. Không phải những lời họ đã nói cho nhau mà là những điều họ đã làm vì nhau:

Những ngón chân của bố khum khum, lúc nào cũng như bám vào đất để khỏi trơn ngã.

Người ta nói “đấy là bàn chân vất vả”. Gan bàn chân bao giờ cũng xám xịt và lỗ rỗ, bao giờ cũng khuyết một miếng, không đầy đặn như gan bàn chân người khác. Mu bàn chân mốc trắng, bong da từng bãi, lại có nốt lấm tấm. Đêm nào bố cũng ngâm nước nóng hoà muối, gãi lấy gãi để rồi xỏ vào đôi guốc mộc. Khi ngủ bố rên, rên vì đau mình, nhưng cũng rên vì nhức chân. Rượu tê thấp không tài nào xoa bóp khỏi. Bố đi chân đất. Bố đi ngang dọc đông tây đâu đâu con không hiểu. Con chỉ thấy ngày nào bố cũng ngâm chân xuống nước xuống bùn để câu quăng. Bố tất bật đi từ khi sương còn đẫm ngọn cây ngọn cỏ. Khi bố về cũng là lúc cây cỏ đẫm sương đêm.

Đôi vai của mẹ thành chai từ bao giờ con không biết. Trên đôi vai ấy ai để chiếc bánh dày vào. Bánh dày màu nâu sẫm, có lúc nứt ra. Cái năm mẹ leo lên núi gánh “đá trăm” xuống thuyền cho người ta chở lên tỉnh, ấy là cái năm vai mẹ nứt to nhất, mất một lần da, rớm máu, dính cả vào đòn gánh. Con hỏi mẹ, mẹ bảo: “Không đau, nó ê ra rồi”.

Đọc những dòng miêu tả ấy tôi chỉ cảm thấy rưng rưng, day dứt, ai cũng có những người cha, người mẹ như thế hi sinh hết mình để bảo bọc cho chúng ta. Tình cảm của Duy Khán cho người thân thể hiện qua cách miêu tả: bàn chân của bố, đôi vai của mẹ, bàn chân có vết dao chém của anh Thả. Rồi hình ảnh người bà của tác giả, đó là người bà, bà nói không nhiều, hiền như chiếc bóng, gánh trên lưng bao cái đói cái nghèo, cái vất vả. Bà không nói nhiều nhưng mỗi câu nói là một bài học quý giá làm nên tuổi thơ của tác giả. Có lẽ người bà là ấn tượng sâu đậm trong tuổi thơ nhà văn, bà nội được nhà văn chau chuốt đến từng cử chỉ, phải có những ký ức tuổi thơ đạm sâu thế nào mới có thể hồi tưởng lại như thế.

Bà tôi có học hành gì đâu, một chữ cắn đôi không biết. Bà lặng lẽ; cứ tưởng bà không biết gì. Bà thuộc như cháo hàng trăm hàng nghìn câu ca. Bà nói những câu sao mà đúng thế. Bà bảo u tôi: Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợi từ thuở bơ vơ mới về

Người bà, người cha, mẹ, anh, em những mối quan hệ thân thuộc của làng quê miền Bắc, ai cũng đẹp ai cũng được Duy Khán trân trọng như một phần máu thịt của đời mình, từng dào dạt chảy, từng được âu yếm vỗ về qua từng trang sách.

Song hành với con người, thiên nhiên cảnh vật, con vật, đồ vật cũng hiện lên như một bức tranh nhuốm màu thời gian nhưng vẫn giữ được chất thơ chất hoạ của nó. Cách mà nhà văn miêu tả về thế núi, về chim chóc, hoa cỏ, chó, mèo lúc thì mượt mà như dòng chảy con sông uốn lượn đổi dòng linh hoạt, đôi khi lại như một con thác, mạnh mẽ dữ dội như cuộn trào khiến người đọc phải bật dậy. Sự song hành giữa hai phong cách khiến cảnh làng quê lúc thì yên bình vắng lặng đến lạ:

Giời chớm hè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm. Cây hoa lan nở trắng xoá. Hoa đẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng bụ bẫm thơm như mùi mít chín ở góc vườn của ông Tuyên. Ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đánh lộn nhau để hút mật ở hoa.

Có những lúc làng quê ấy lại hiện lên sôi sục, gấp gáp giữa khói lửa mưa đạn, khiến trời đất như trùng xuống, ủ dột như cái nhíu mày ngắc ngoải của làng Vân trước số phận của con người: “Tôi bất ngờ thấy bóng thầy ở cửa rừng, mờ trong mưa im như một pho tượng. Phía quê, khói ùn ùn. Đại bác nổ ập ình. Tôi tiếp tục đi để kịp ngày tuyển quân. Hôm ấy, là ngày hai mươi bảy tháng Giêng, năm một nghìn chín trăm năm mươi …”

 

Đôi nét cảm nhận của bản thân về Tuổi thơ im lặng. Không màu mè, xa hoa đó là những cảm nhận đầu tiên khi đọc những dòng viết của Duy Khán, cuốn hồi ký viết về làng quê và dùng ngôn ngữ đúng chất làng quê đó. Cái làm nên sự thu hút của tác phẩm là tác giả đã miêu tả làng Vân vẫn vẹn nguyên như vậy. Sử dụng lối miêu tả khơi gợi với nhiều hình ảnh liên tưởng, nhân hoá, so sánh. Làng Vân với những góc khuất của nó hiện lên như những con rồng, những thế lực, những con người biết thiện, ác, xấu đẹp. Cách sử dụng những từ ngữ dân giã đến dung tục, thậm chí đưa những câu chửi vốn là cửa miệng của dân làng vào câu truyện, thêm vào đó là những ca dao, tục ngữ, những phương ngữ gần gũi, vốn là phong cách của làng quê khiến cho cuốn hồi ký mang đậm phong cách văn nói tái hiện lại cái chân chất của thôn làng.

Con gà nó ở nhà tao nó là con gà con qué. Nó về nhà mày nó thành con đồng đanh con đỏ mỏ. Nó mổ người lớn người bé nhà mày! Không biết bà đứng ở đâu bà chửi Nhưng chắc chắn bà đứng giữa ngã ba ngã bảy, chứ bà chả chịu đứng khuất đâu.

Có lẽ sống trong thời này, không ít người mới có lần đầu được nghe những câu chửi ngoa ngoắt đến thế - nhưng lại là đặc trưng của lối sống xóm lài xôm tụ ngày xưa.

Viết về cuộc sống những năm 45, là những năm tháng khổ cực nhất nhưng cũng là bước ngoặt của dân tộc. Trong bức tranh làng quê ấy không thiếu những gam màu khác nhau, mặc dù dưới con mắt của tuổi thơ của cậu bé ấy, mọi thứ hiện lên với sự khắc khoải hoài niệm, đẹp đẽ. Nhưng điều ấy không thể che dấu sự tàn khốc của cái nghèo, cái đói, những con người đi qua tuổi thơ của Duy Khán rồi ra đi mãi mãi, chiến tranh, loạn lạc. Xen giữa những góc tươi sáng ấy, tôi cảm nhận những đớn đau mất mát đã hằn sâu trong tuổi thơ của tác giả, có thể những vết thương ấy đã qua nhưng vẫn nhức nhối. Những người thân đã ra đi: Bà nội, mẹ, anh Thả, chú Toàn, chị Cún, … chết vì chiến tranh vì bệnh tật, cứ nhìn cái cách mà tác giả nói về cái chết, là thấy được dường như cả ngôi làng cũng như trùng xuống. Còn bao nhiều số phận tha hương cũng xuất hiện trong lời kể ấy: bà Chè, ông Đống, bà Sứt, … nhưng ít ra họ vẫn còn được nhắc đến được tồn tại trong lời kể, giống như Benjamin Franklin đã nói: Nếu bạn không muốn bị lãng quên ngay sau khi chết, hoặc viết thứ gì đó đáng đọc hoặc làm gì đó đáng được viết; vậy còn bao nhiêu kiếp người bơ vơ như thế đã trôi vào quên lãng? Bên cạnh những người tôi cho là được ra đi để thanh thản ta còn đau đớn thay những số phận phải sống mà chịu những tủi nhục của cuộc đời như chú Ất, cô Phan, họ sống nhưng là sống trong đau khổ trong cái ghẻ lạnh, coi thường của người đời, Duy Khán viết những điều ấy bằng ánh mắt của một người từng trải nhưng lại bằng một trái tim trẻ thơ đầy yêu thương.

Tôi thích cách mà nhà văn điều chỉnh mạch viết của mình, từ cái nhìn bao quát về hình ảnh làng xóm mở đầu hồi ký với gam màu trung tính, giới thiệu bố cục đặc sắc làng quê, rồi dần dần, góc nhìn của nhà văn thu hẹp vào những sự vật trong làng: cổng chùa, chỗ chôn rau, vườn nhà, … từ cảnh tĩnh lại đi đến cảnh động về những loài vật: những con chim: diều hâu, chim cắt, cò, vạc, nông – đó là một bức tranh sống động với cả màu sắc, và hương thơm, và đôi khi có cả vị giác. Từ cảnh tĩnh về động vật, tác giả dùng những gam màu tươi sáng, ấm áp viết về con người làng Vân – về bà, về cha, mẹ, cái Bảng, hay bất cứ ai với tình cảm da diết nhất. Nhưng không vì thế mà tác giả bỏ qua những gam màu tối về cái chết về chiến tranh, về sự ra đi của những con người – tưởng như sẽ sống mãi, nhưng đó là những cuộc chia ly trong khoảnh khắc. Ấy thế mà trong góc tối ấy vẫn loé lên ánh sáng hi vọng – đó là hình ảnh cậu bé 15 tuổi lên đường tuyển quân, sau lưng là khói lửa rít gào, và hình ảnh ngôi làng quen thuộc cùng người cha với ánh mắt đỏ lên – đó là kết thúc cho một bức tranh tuổi thơ với tổng thể hài hoà của nhiều màu sắc, đưa người đọc trải nghiệm hết những tư vị trong cùng một tác phẩm.

Tuổi thơ im lặng – viết về quãng tuổi thơ không hề im lặng như ta vẫn nghĩ: đõ là quãng đời tràn ngập tiêng nói, tiếng cười, tiếng mưa bom, bão đạn, chim kêu, mèo kêu, chó sủa, … Vậy tại sao Duy Khán cho rằng tuổi thơ mình im lặng đến vậy? Theo tôi, tuổi thơ ấy là những tình cảm gắn bó không nói nên lời mà nhà văn không ngừng ấp ủ, trìu mến mà đói khi không cần nói thành lời. Đó còn là tuổi thơ mà nhà văn được sống trong tình yêu thương, bao bọc của con người, xóm làng như tuổi thơ của bao người khác, để đến khi đất nước cất tiếng gọi, nhà văn mới sống trong những năm tháng “dữ dội” nhất của dân tộc.

Tóm tắt bởi: Sơn Dương – Bookademy

--------------------------------------------------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy

(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ "Tên tác giả - Bookademy." Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.

Xem thêm

Bất cứ thứ vụn vặt, bình thường nào cũng sẽ trở nên đẹp đẽ khi được nhìn qua lăng kính của nỗi nhớ thương hoài vọng. Thế giới trong Tuổi thơ im lặng chính là thế giới của những điều bé nhỏ đơn sơ, song lại chất chứa kỉ niệm và tâm tư của tác giả. Ngược dòng kí ức, ông tìm về với khu vườn, góc bếp, con đường làng nắng đổ, từng cái ao, cái cây.. đâu đâu cũng có chuyện để kể, đâu đâu cũng đong đầy thương nhớ.


Tình yêu với những tháng ngày tuổi thơ - dù khó nghèo nhưng không thể quên lãng. Duy Khán còn dành hẳn một phần để kể về Những đồ dùng biết nói. Chẳng phải đồ dùng kì diệu, vĩ đại gì cho cam, chỉ là những thứ đã đồng hành cùng cậu bé Khán mười tuổi đi qua quãng đời thơ dại. Từ cái cối đá bị mẻ, đã nhẵn thín, nông choèn vì dùng nhiều, được người mẹ đem giã vỏ sò, vỏ hến thành bột uống cho đỡ đau. Tiếng giã khô khốc. Những mảnh sắc đâm vào chày. Chắc chày cũng đau. Còn lòng cối thì đau lắm ; cái cối tân xay lúa nuôi sống gia đình khi người mẹ làm hàng xáo; những cái chăn cũ bạc phếch, vá chằng vá đụp chống lại cái rét ngọt của miền Bắc, nơi cậu bé Khán thu mình trong hơi ấm thân thuộc của cha và anh. Hai cái chăn đang nói: "Bạn ơi! Nay mai bạn đi đâu thì đi, ra sao thì ra, bạn cũng ở trong lòng tôi những ngày bạn thơ bé." Tình cảm sâu nặng với thiên nhiên, phong tục quê hương không thiếu trong thơ văn Việt Nam, nhưng nặng tình với cả những vật dụng cũ kĩ, nhỏ bé thì có lẽ chỉ Duy Khán mới thể hiện rõ nhất. Bởi chúng là chứng nhân cho cả một trời kỉ niệm trong ông.


Đọc "Tuổi thơ im lặng", thấy như có một đứa trẻ đang nói chuyện với mình như một người bạn, để có lúc ta bỗng như quên mất rằng mình là người lớn, ta nhìn thế giới bằng con mắt của đứa trẻ ấy, bỗng sống lại cái ngày xưa, nhìn mọi thứ bằng ánh mắt lạ lẫm và say mê, mỗi ngày trôi qua dù buồn hay vui đều đầy cảm xúc và sống động. Chợt nhớ cũng từng say sưa ngắm chim hoa côn trùng, cũng từng mê mải bắt cua ngoài ruộng, rồi ăn những con muỗm nướng, cua rạm nướng, cũng từng rơi nước mắt vì cuộc sống khốn khó của người qua đường, cũng từng sợ hãi lo lắng đủ thứ, cũng từng mơ mộng với những tích truyện về cây đa đầu làng, cái gò giữa đồng, cũng chơi đùa chạy nhẩy sân phơi... Và tôi thiết nghĩ "Tuổi thơ im lặng" nên là một cuốn sách không thể thiếu trong nhà cho các em nhỏ, không phải những thứ quá giáo điều, cũng không phải là những cuộc phiêu lưu hồi hộp cuốn hút, mà thiếu đi mất cái hồn của cuộc sống, cuốn sách này có thể sẽ mang lại cho trẻ nhỏ cái nhìn chân thực hơn, sự yêu thương gắn bó với con người và thế giới xung quanh, bởi những cảm xúc về cuộc sống dường như nhạt đi khi các em ngày càng bị bao bọc bởi những bức tường. Và ngay cả với chúng ta nữa, có lẽ sẽ giật mình nhận ra rằng, quá mải mê với học hành và công việc, đôi khi quên đi mất cuộc đời rộng lớn xung quanh mình, bầu trời, vòm cây, chim chóc, con người, đôi khi ta để những điều tươi đẹp vụt qua mất mà không hề nhận thấy…để có lúc hoang mang thấy lòng mình chai sạn.

Giữa thời đại của kĩ thuật, của công nghệ và thế giới số hôm nay, chúng ta vẫn thường nói với nhau về sự thiệt thòi của con trẻ khi không được tắm mình trong bầu không khí trong trẻo của làng quê, không có nhiều kí ức thần tiên đầy thú vị nơi cánh đồng, lũy tre, bờ ao, rơm rạ… Thì những trang viết trong "Tuổi thơ im lặng" của Duy Khán sẽ phần nào bù lấp sự thiệt thòi ấy. Nó xứng đáng là hành trang đi cùng chúng ta trong từng bước trưởng thành của cuộc đời.


Cảnh Khán lên đường nhập ngũ, sau lưng là làng quê thân yêu mờ trong khói trong mưa, tiếng đại bác ập ình và người cha già mắt đỏ lên đứng trông theo thực sự là một trong những cảnh buồn bã nhất, ám ảnh nhất mà tôi từng đọc. Không có lá cờ bay phấp phới hào hùng, không có bài ca tiễn lên đường, chỉ có nỗi buồn thương đau đáu dành cho những người thân đã mất, nỗi oán hờn khôn nguôi trước tội ác của quân giặc, lời cha dặn thù nhà nợ nước phải biết trả. Cậu bé thơ dại năm nào vẫn trông về những miền đất xa xôi bên kia dãy núi Dạm, giờ đã bước qua ranh giới của tuổi thơ để trở thành người lớn, với cây súng trong tay, dấn mình vào vùng khói lửa chiến tranh. Nhưng dòng hoài niệm thì vẫn còn đó, mãi mãi tuôn chảy trong lòng người con xa quê.

Cuốn hồi ký khép lại, song bài đồng dao kí ức về làng quê và gia đình mãi đồng vọng, vừa ngọt ngào như nắng, vừa man mác như sương. Trong trẻo như nước sông mùa hạ, trầm lặng như tán đa cổ thụ mùa thu. Mộc mạc, bình dị mà đong đầy niềm thương nỗi nhớ. Vì lẽ đó, Duy Khán đã không ngần ngại viết phần kết cho đoạn mở đầu: Những chuyện này bố nhớ và mang theo trong trí. Nó từng đốt cháy tấm lòng suốt chặng đường bốn mươi mốt tuổi và hai mươi bảy năm cầm súng, làm Người đến suốt mai sau.

Nhân vật trong Tuổi thơ im lặng đều là những người dân quê lam lũ, nghèo khổ, chật vật với nồi cơm xanh độn đầy rau má, với từng con cua con cáy bắt dưới ruộng. Song từ tâm hồn họ vẫn toát lên những vẻ đẹp vô cùng ấn tượng. Bà nội một chữ cắn đôi không biết, nhưng lại thuộc hàng trăm hàng nghìn câu ca, hằng ngày dạy con, dạy cháu bằng những bài ca dao. Bà Kép Hỉ chua ngoa, đanh đá hay chửi bới, hay nói móc, nhưng đáo để và thương con. Tôi nhớ nhất hình ảnh những người tha hương, bỏ làng bỏ xứ đến xóm Trại hòng thoát khỏi nạn đói, mà vẫn giữ cho mình "Đói cho sạch, rách cho thơm" họ tự mình kiếm sống dù phải vất vả nhọc nhằn, đến độ qua đời ngay ngoài đường ngoài sông, song không hề dựa dẫm hay ngửa tay xin bất cứ thứ gì. Duy Khán viết văn êm như thơ, mượt mà như ca dao, song vẫn có lúc ngòi bút của ông hướng về hiện thực chua chát đến không ngờ. Những mả bà Chè, mồ ông Đống, mộ bà Sứt chơ vơ bên đường in vào tâm trí độc giả như những vệt buồn thẫm tối. Đọc phần Những nấm mộ bên đường, lần đầu tiên tôi thấm thía những câu thơ của Đại thi hào Nguyễn Du, xót thương cho những kiếp người cùng khổ: "Gặp cơn mưa nắng giữa trời / Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?"

Cuốn hồi ký được viết vào năm 1977 và xuất bản vào năm 1986 – giai đoạn văn chương nước ta còn đang sôi sục với dư âm của cuộc chiến vừa kết thúc, cũng như hướng cả về quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, đa phần đều là tiểu thuyết, truyện ngắn hiện thực. Giữa "thế trận" ấy, Duy Khán lại lặng lẽ tách mình ra, sống với kí ức tuổi thơ thuở nào, giống như con suối trong veo tự tách dòng khỏi con sông lớn cuồn cuộn chảy, tìm về chốn làng quê thanh bình.


Tình yêu quê hương và gia đình chưa bao giờ trở nên sâu lắng, ngọt ngào và buồn bã đến thế qua đôi mắt của chú bé Khán. Tuổi thơ trong tập sách này tính từ bao giờ? Bố tính theo lối tính của bố: Từ khi biết nhận thức cho đến tuổi mười lăm. Chính xác thì thời gian trong cuốn hồi ký khởi đầu từ lúc Khán mười tuổi đến khi rời làng đi kháng chiến năm mười lăm tuổi. Tuy nhiên, thời gian nghệ thuật của Tuổi thơ im lặng không phải là thứ thời gian cứng nhắc, tuyến tính, có trước có sau, mà làthời gian của niềm thương nỗi nhớ. Tác giả kể về gia đình mình, về ngôi làng, về những con người dân quê nghèo khổ, lam lũ mà tốt tính, về con chó, con mèo, về từng vật dụng nhỏ bé trong nhà.. tất cả tuôn trào theo mạch cảm xúc, tựa như tác giả nhớ đến đâu kể đến đó, là câu chuyện tuổi thơ người cha kể cho ba đứa con trai nghe hằng đêm, mộc mạc, dễ hiểu và chân thành.