Mọi
điều đều bắt đầu và kết thúc bằng sự cô độc. Auster viết cuốn tiểu thuyết đầu
tiên, khởi sinh từ sự cô độc ấy.
Cuốn sách được chia thành hai phần rõ
rệt. Phần đầu tiên được kể ở ngôi thứ nhất, có tựa Chân dung một người vô hình.
Đó là một cuộc hành trình. Hành trình bước vào một bí mật, khi Auster không cố
tình tìm kiếm, không chờ đợi, không kỳ vọng.
Từ những vết dấu để lại của người cha trong suốt mười lăm năm sống đơn độc, từ những mảnh ghép lấp chồng trong quá khứ hiện về rời rạc, vô thức, Auster đã tạo nên hình ảnh của người cha mà trước đó ông không thể chạm vào. Những bước chân của ông trên cuộc hành trình ấy, không dẫn lối ông về lòng hoài nhớ quá khứ, mà đi đến sự thấu cảm đầy sầu não. Người cha mà ông đã từng biết, không phải là người mà ông luôn nhìn thấy. Người cha đã từng vô hình, bỗng trở nên hữu hình với ông. Từ những điều ấy, sự đồng cảm nảy nở. Đó là cái khoảng ấm áp, cái tình yêu mà Auster gần như không bao giờ cảm thấy khi cha còn sống.
Phần thứ hai của cuốn
sách là Sách của ký ức. Dòng văn chương lại được kể ở ngôi thứ ba, nhân vật
chính là một nhà văn tên A. Anh ở trong căn phòng của mình, cô lập với thế giới
và bắt đầu tái hiện lại những mảnh ký ức của mình bằng những câu chuyện xung
quanh, mà ở đó vết dấu của sự tưởng tượng và ghép nối của thực tại xoắn quện
vào nhau, tạo nên một vùng mê cung tâm trí đầy rẫy những ý tưởng và tâm tư.
Trong cuốn sách ký ức, Auster đặt câu chuyện của mình giữa những mẩu chuyện khác, với mạch liên kết là mối kết nối giữa tình cha con. Từ thần thoại Hy Lạp, hình ảnh người anh hùng còn sót lại của thành Troy, vai cõng cha già, tay dắt con thơ vượt qua cơn nước lửa thoát đến chỗ an toàn, Paul Auster đã nhìn thấy được sự tương kết với hình ảnh Pinocchio cõng cha thoát khỏi bụng cá voi. Khi Pinocchio cõng cha bơi giữa biển khơi mịt mù và đêm tối dọa dẫm, cậu chỉ đơn giản nghĩ rằng nếu phải chết thì “ít nhất cha con mình cũng được chết cùng nhau”.
Đó cũng là mẩu chuyện thi sĩ Pháp
Mallarmé viết những vần thơ đau buồn bên giường đứa con trai đang chết dần, là
chuyện của chính Auster – người cha thức suốt ba ngày ba đêm bên cậu con trai
hai tuổi bệnh thập tử nhất sinh. Và còn có câu chuyện người con lần giở từng
món đồ của người cha vừa từ giã cõi đời để nhận ra rằng mình vừa mất cha, cùng
lúc đó lại tìm thấy cha.
Những mẩu chuyện ấy được kể lại trong
những cuốn sách của ký ức, trong căn phòng xa lạ hoàn toàn với thế giới loài
người. Ấy là sự ghi nhớ hay chính là sự phản chiếu lại chính bản thân mình, khi
chỉ có mình đối diện với chính mình.
Auster nhắc đi nhắc lại trạng thái cô
độc, lý giải sự cô độc, và đối diện với sự cô độc. Ông nhắc đi nhắc lại về hình
ảnh một người trong căn phòng của mình, đó là A, là Anne Frank, Friedrich
Holderlin, Emily Dickinson, Van Gogh.., Auster coi trạng thái ấy là khởi đầu và
cũng là kết thúc của mọi chuyện. Còn ở đoạn giữa, giữa sự sống và cái chết ấy,
thực ra đã diễn ra những điều gì. Để lưu giữ cái khoảng giữa cô độc ấy, ông
viết những cuốn sách của Ký ức.
Auster viết: “Rồi anh viết. Nó đã từng. Nó sẽ không bao giờ lại như thế nữa”, những từ ngữ ấy là chìa khóa mở – đóng cho cuốn sách ký ức. Auster viết lại để ghi nhớ, bởi chúng ta dù cố gắng đến đâu cũng không thể tái lập lại quá khứ vẹn nguyên như thế nữa. Ấy là điều bất khả và gây đau đớn nếu ta cố chấp theo đuổi. Cũng bởi thế, Paul viết cuốn sách ký ức để bù đắp cho những gì người cha không làm được. Paul viết cho con trai mình, để sau này, con trai ông không cần phải dò dẫm, lục lọi, và xác định mọi điều như ông đã từng phải làm đối với người cha cô độc của mình. Ông đã lựa chọn điều đẹp đẽ ấy, như một cách giải bày sâu thẳm nhất, đến gần với con người nhất. Ấy cũng là gắn kết mong manh nhưng tốt lành nhất giữa con người với con người.
Ở cuốn sách đầu tay này, Auster cũng đã
bắt đầu bày tỏ những trăn trở về việc viết văn. Có lẽ cái khởi đầu của cô độc
mà ông nhận ra ấy, đã đẩy ông đến gần hơn với ngôn ngữ. Lối viết của Auster ở
đây đã tỏ ra vô cùng linh hoạt, và đa dạng khi cố tình phá bỏ cấu trúc thông
thường của tiểu thuyết, để lồng ghép những tiểu thuyết nhỏ trong tiểu thuyết
lớn, đặt những câu chuyện tưởng như tách bạch nhau bên cạnh nhau, tạo thành một
đường dây liên văn bản đầy sáng tạo, hứng khởi và thách thức.
Thế giới văn chương của Paul là một thế
giới văn chương biến hóa khôn lường. Bắt đầu từ Khởi sinh của cô độc, và sau
này là Trần trụi với văn chương, Moon Palace, Người trong bóng tối, Nhạc đời
may rủi… Paul Auster luôn có cách khiến độc giả bị hấp dẫn ban đầu bởi những đề
tài độc đáo, những chi tiết “câu khách”, với lối viết đa dạng, kết hợp nhiều
thể loại, như trinh thám, điều tra, đầy bí ẩn, đầy mâu thuẫn, đầy phi lý… Nhưng
tất cả những chi tiết ấy, hòa trộn với nhau để tạo thành thế giới nghệ thuật
Paul Auster, hoàn toàn đứng vững trên ranh giới giữa nghệ thuật đỉnh cao, và
giải trí rẻ tiền.
Tác phẩm của Auster rất phổ biến tại Mỹ, nhưng không phải vì thế mà văn chương của ông tầm thường. Ngược lại, tận cùng hạt nhân của những tác phẩm ấy, chính là một sự suy nghiệm nhân sinh độc đáo, khúc triết và vô cùng nhân hậu. Ấy cũng chính là khởi sinh những tác phẩm độc đáo của nền văn chương hậu hiện đại.
Nguồn: Vnwriter
----------
Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về các cuốn sách hay tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn/
Tôi đã thích cuốn ‘Khởi Sinh Của Cô Độc’ Và Thế Giới Văn Chương Paul Auster (2012) mặc dù vậy, tôi phải nói rằng, đây là một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất của Auster, vẫn được viết một cách chân thật và để lại ấn tượng như một cuốn hồi ký, dù chỉ thể hiện rõ ở một chi tiết - cái chết đột ngột của cha ông, và những suy ngẫm lại về mối quan hệ của họ vốn chủ yếu dựa trên sự xa cách và thiếu vắng hơn là ấm áp và gần gũi. Thực sự, chính hai từ “cô đơn” lại phù hợp với cha của tác giả trong những khoảnh khắc nhất định mà ở đây Auster có đề cập đó là xem xét thái độ, cách cư xử của cha với gia đình, công việc và tiền tài, và những năm sau đó ông ly hôn, sống cô độc cho tới chết.
“Giống như mọi thứ trong cuộc sống của ông ấy, cha tôi chỉ thấy tôi qua màn sương cô độc kia.”
Và bởi vì sự cô độc này, khoảng cách giữa cha con và cũng như sự liên kết giữa hai người chưa được khám phá này đã khiến Auster muốn trải lòng vào những trang sách - phần một được viết chỉ trong vài tuần sau khi cha tác giả qua đời - những cảm xúc và đoạn ký ức được lưu lại như một cách để cha ông không bị rơi vào quên lãng vĩnh viễn. Auster cũng tìm hiểu về cha mẹ của cha mình, bi kịch gia đình - một vụ nổ súng - đã ảnh hưởng tới việc hình thành tính cách của cha tác giả sau này. Phần hai thì không hay bằng, ở phần này Auster tập trung nhiều vào lối viết mang tính thử nghiệm và tham vọng hơn - tác giả đặt mình vào ngôi thứ ba để nghiền ngẫm về những tình huống giống với mối quan hệ giữa ông và cha mình, và đặt mình vào vị trí là một người cha, khám phá thông qua kênh ký ức và niềm cô đơn, đáng để suy ngẫm.
Rõ ràng thì tác giả ảnh hưởng bởi các nhà văn người Pháp như Georges Perec; được biết Auster đã sống ở Paris một vài năm và đã có niềm đam mê với văn học thử nghiệm Pháp. Tôi cảm thấy ở phần hai của cuốn sách đã thể hiện một vài đặc điểm phong cách giả tưởng giống với cuốn Trần trụi với văn chương được xuất bản sau đó. Tôi vẫn hạnh phúc khi đọc cuốn sách, nhưng tôi còn hâm mộ tiểu thuyết gia Auster hơn thế.