Tôi thường đọc sách cho dễ ngủ, cũng có thể là những câu chuyện, nhưng những cuốn truyện xưa của Kim Lân, Nam Cao hay các tác giả thời kháng chiến, tôi đều khó ngủ vì nó quá đau thương, tuyệt vọng làm tôi ám ảnh.
Giới thiệu đôi chút về Nam Cao, ông sinh năm 1997 và mất năm 1951 khi mới ba mươi sáu tuổi. Ông mất khi đang làm nhiệm vụ, một nhà văn trẻ tài năng. Tôi ấn tượng với ông qua tác phẩm Chí Phèo, tác phẩm mang đến những cảm xúc vừa hận vừa thương. Cuộc đời nhân vật Chí Phèo từ tốt thành xấu rồi một lần nữa thấy được cái thiện nhưng đời chẳng cho phép anh quay về với cái thiện, kết thúc anh chọn cái kết để giữ lấy cái tốt trong tâm của mình. Một cái kết vừa đau buồn nhưng thầm mừng cho anh đã được giải thoát khỏi cái thế giới người tốt, kẻ xấu, thiện ác lẫn lộn. Đặc biệt thời ấy cái khổ khiến con người ta mất dần những bản tính tốt đẹp.... Nam Cao có rất nhiều tác phẩm trước cách mạng và trong tuyển tập lần này có khá nhiều câu chuyện trước cách mạng. Tôi viết lời giới thiệu khi đã đọc tới chương cuối cùng vì như vậy tôi mới có thể cảm nhận được một phần nào đó trong văn phong của ông. Không có lời văn hoa mỹ nhưng trong từng câu chữ, lời thoại của nhân vật hàm chứa bao câu nói sâu sắc về đời, về những thứ tưởng chừng thực tế nhưng ẩn sâu trong đó là hàm ý về những đạo lý, đạo lý ở đây chẳng phải trên trời mà ngay trong cuộc sống thường ngày. Chẳng cần mây hoa uốn lượn, “đạo lý” được đúc kết qua người. Người ta sống hay chỉ là để tồn tại? Người ta sống có tránh được cám dỗ? Có bị cái nghèo là cho mất đi cái nhân? “văn Nam Cao, ngay trong những tác phẩm đầu, đã thực sắc sảo. Anh nhìn sâu vào sự thật một cách sắc cạnh, nhiều khi mỉa mai. Không vuốt ve ngay bản thân mình và giai cấp mình như một vài tiểu tư sản tìm cách an ủi trong một triết lý hàng chục chế độ đương thời, anh tạo được những điển hình giai cấp thật sống và cảm động”. Tại thời điểm ấy những câu chuyện tình yêu được các tác giả ưa chuộng viết theo lối yêu đương sến súa, nội dung trống rỗng “viết lại Tây như văn dịch”. Nam Cao đã mang hiện thực đến cho người đọc, ông chán ghét những chế độ đội lốt “tốt đẹp”, ông yêu ngôi làng, cây đa, yêu những người nông dân nghèo nhưng tâm hồn luôn hướng về cái thiện, yêu sự bình yên giản đơn. Tất cả những tác giả viết về cách mạng, viết về nhân dân đều là những người có lòng yêu nước nồng nàn mà chẳng trang giấy hay lời văn nào tả nổi. Nam Cao sẵn sàng hy sinh để đất nước được độc lập.... Trước đây tôi thường viết kết bài “Dù ông đã hy sinh nhưng những tác phẩm và cái tên của ông sẽ mãi trong lòng người đọc” bây giờ tôi vẫn dùng lời văn mượn này nhưng đây là thật lòng tôi gửi đến những anh hùng. Tác phẩm của họ sẽ mãi để lại trong lòng tôi sự kính trọng, yêu mến.
Câu chuyện đầu tiền của Nam Cao "Nghèo" Kể về gia đình nghèo khó, cái nghèo ấy không chỉ gia đình ấy mà xóm làng, nơi đâu cũng là tiếng ai oán, tiếng khóc thương của những người dân vất vả làm quanh năm nhưng vẫn chẳng có miếng cơm mà ăn, nợ vẫn nợ, vòng quay nghèo khổ cứ lặp lại. Trong câu chuyện Bu, mẹ và chị phải ăn cám mà mẹ lại gọi là chè, cậu nhóc chẳng thể ăn được cái món dành cho động vật ấy nhưng cơm đâu mà ăn? Nghe đến những năm tháng kháng chiến, tôi chỉ lạnh sống lưng, tôi chưa từng chứng kiến nhưng đọc sách, học lịch sử nghe kể lại. Tất cả là sự cố gắng mà cả đời này tôi cũng không bằng một góc, sẵn sàng hy sinh tính mạng để đất nước hòa bình. Từ tận trong trái tim mỗi con người Việt Nam thời bình là lòng kính yêu, tôn trọng và nhớ ơn những người đã ngã xuống. Tôi sợ chết, ai mà chẳng sợ cái chết. Chạy trốn, họ có quyền làm vậy nhưng quay về làm nô lệ, sống không bằng chết nhìn người thân yêu ngày ngày sống trong nghèo khổ, đói khát, nợ nần, sống như vậy chết sẽ nhẹ nhõm hơn, vậy thì tại sao phải đầu hàng trong khi ra chiến trường có thể làm thay đổi, sống chết có số. Quay lại với Bu, cha cậu đã thắt cổ chết có lẽ ông biết căn bệnh của mình cần thêm thuốc. Thêm thuốc là thêm tiền, nhìn gia đình phải ăn cám còn mình lại là gánh nặng, đó có lẽ là suy nghĩ trong đầu ông hay bất kì ai đang bất lực với cuộc sống và thất vọng với bản thân. Chết đi sẽ không còn gây phiền phức cho gia đình, không còn cần chừa cơm cho mình, con cái có thể ăn nhiều một chút. Đặc biệt ông là trụ cột trong gia đình, tôi nghĩ ông là một người có trách nhiệm, vì có trách nhiệm mới chọn cái chết. Nhưng tôi nhớ đến tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố chết vẫn phải đóng thuế, chết nhưng vẫn nợ đời và bắt người sống trả, không biết trong câu chuyện này thế nào vì kết thúc và Bu và mẹ đang xin dời hạn trả nợ còn cha Bu dùng sức lực cuối cùng để kết thúc đời mình. Đời là thế đấy, đôi lúc chết là giải thoát, chết rất nhanh kia mà. Có người nói kẻ tự tử là kẻ thất bại, chịu thua cuộc sống. Sao cũng được, họ được giải thoát, xin lỗi vì tôi biết người chết còn người thân, họ sẽ đau khổ, mất mát. Nhưng đó là lựa chọn, xin lỗi vì bỏ cuộc.
Câu chuyện thứ hai là cái chết của Mực. Chó là bạn, Du một chàng trai hiền lành đã có ý định giết người bạn của mình, lần đầu tiên thất bại khiến cậu bẻ mặt với mọi người nên cậu đã lên kế hoạch lần hai, lần này cậu đã đập được Mực nhưng trái tim cậu không cho phép, cậu cùng Mực lớn lên, cậu nhìn nó ốm yếu, đáng thường nên không nỡ. Tôi vừa thương vừa buồn cậu, cậu không giết Mực nhưng hành nó như vậy thì tôi nghĩ cậu nên giết nó càng sớm để giải thoát nó khỏi đau đớn, cuối cùng thì Mực cũng chết, không phải do cậu giết, cậu quay vào trong lau nước mắt. Nước mắt vì Mực chết, khóc vì bất lực, tôi biết cậu muốn Mực sống, biết cậu đã cố gắng nhưng hiện thực trong giai đoạn của Du, trước Cách Mạng người còn chẳng có cơm ăn, hôm nay thức dậy mai chết vì đói, lấy đâu ra sức lực nuôi nấng động vật như bạn.
Tiếp theo là những câu về sự bạc bẽo, cái nghèo, cái duyên phận nhưng tôi chú ý nhất là những kẻ ăn bám, tôi quên mất thời xưa đàn ông không chỉ có những người có chí, biết mình mang trọng trách nặng nề mà còn những kẻ rượu chè, cờ bạc, đánh vợ. Nghèo thêm nghèo cái nặng đè lên vai người phụ nữ, họ chỉ biết cách răn chịu đựng. Tại sao không phải kháng? Có khi đó là "văn hóa" thứ văn hóa dơ bẩn ấy đã vào trong đầu của tất cả mọi người, phận làm dâu phải phụng dưỡng, chăm sóc chồng không quá khi nói đặt chồng lên đầu, những điều thời đại này đang đấu tranh, xem đó là điều không thể chấp nhận thì thời ấy đó lại là nét văn hóa. Thật may vì tôi sống ở thế kỉ này.
Con người ta khi nghèo khổ, cái khó khăn khiến bản thân mất lí trí, họ thường mất kiểm soát và trút giận vào người thân yêu của mình. Trong hai câu chuyện tiếp theo của Nam Cao, đều kể về sự nghèo khó mà đánh mất đi chính mình, một người tìm đến rượu để uống sau đó trút giận lên vợ và các con. Hơi men vào không còn biết gì, những câu chửi, những cú đánh giáng trời cứ thế mang ra. Người yêu rượu thì nhớ gì, nhưng người phải nghe câu chửi sẽ nhớ cả đời. Buồn trong câu chuyện Tu, người vợ đã mang ơn chồng, ơn nghĩa có trả cả đời cũng không hết vì Hộ đã giang tay cứu giúp lúc cô khó khăn nhất. Có con mà không có chồng là điều tệ nhất thời ấy, thời phong kiến với những suy nghĩ đáng khinh, đáng hận có thể giết chết cô nhưng Hộ đã cưu mang cô, nếu là tôi, cái ơn này tôi cũng chẳng thể trả hết, vì vậy việc nhẫn nhịn, làm người vợ hiền là điều cô có thể. Còn thời nay, suy nghĩ đã tiên tiến, chẳng việc gì phải dựa vào đàn ông. Sau mỗi trận đánh là những kí ức mơ hồ của Hộ, hôm ấy anh đã khóc, khóc vì bản thân yếu đuối, con người ta thường dễ dính vào những cám dỗ. Anh đã muốn mua đồ ăn cho gia đình nhỏ nhưng vì cái tính sĩ lại vung tiền vào bạn bè, văn thơ, bia rượu. Tôi không dám trách anh vì nhiều khi tôi đã quyết định sẽ để lương làm gì đó có ích nhưng lại quên đi mà mua đồ ăn, hay việc ăn uống của tôi, quyết tâm giảm cân nhưng không có tính kỉ luật nên khi thấy đồ ăn lại nhảy vào. Đáng thương cho phận làm người lại không làm chủ được bản thân, dục vọng. Vòng nghèo khổ, vòng xấu xí cứ lặp lại vì chúng ta không chịu thay đổi
Câu chuyện thứ hai "Bài học cái chổi" của bé Na, cô bé chỉ mới năm tuổi, nhưng đã nhận thấy sự thay đổi con bố mẹ. Mẹ cô vì mệt mỏi với cuộc sống, tiền bạc mà đã tát Na, chỉ vì Na không quét nhà được. Tôi vừa buồn vừa tức, cái tuổi ấy còn chưa đứng tới cây chổi mà bắt bé quét, con bé đứng không vững, tay chân loạng choạng có gì sai, nhưng mà con người đang mệt mỏi, dễ cáu giận làm gì còn đủ suy nghĩ để thấu hiểu chuyện đương nhiên. Cái tát vung ra mới thân bản thân sai, nhưng đánh cũng đã đánh rồi, vết thương đã gây ra, làm gì có chuyện xin lỗi là xong. Đêm đến khi Na nằm ngủ, mẹ mới dám nói nhỏ, bà biết bà đã sai, bà thật hồ đồ "lúc ấy bà bị điên". Tôi thấy được bố mẹ và chính tôi trong câu chuyện, thật đáng buồn. Chúng ta lại một lần nữa không làm chủ được bản thân chỉ vì nóng giận mà mất khôn. Đây là tuyển tập truyện ngắn được viết vào trước Cách mạng vậy mà bây giờ đã mấy chục năm trôi qua, thời đại công nghệ, con người được ăn, học, sống trong ấm no, hạnh phúc, nhưng không thay đổi được bản chất xấu xí. Nam Cao miêu tả nhân vật như ông đã từng trãi qua tất cả, đừng nói truyện xưa không hay, không còn áp dụng được vào hiện đại, bản chất con người chẳng thể đổi thay cho dù thời đại có thay đổi.
Câu chuyện dài nhất trong tập truyện ngắn là câu chuyện của một nhà giáo. "Sống mòn" nghe được tiếng lòng của Thứ, một thầy giáo nghèo, mang trong mình những suy nghĩ cao quý nhưng đâu đó vẫn là ánh nhìn chán ghét cuộc sống, âm thầm đánh giá, ghét kẻ này người nọ. Khác với những mảnh đời nghèo khổ, bần cùng mà Nam Cao đã khắc họa trước đó. Thứ khá hơn, anh kiếm tiền đủ để trang trải cuộc sống và lo cho gia đình dưới quê. Qua lời kể của anh về San, người đồng nghiệp cũng là người bạn thân thiết của Thứ, anh chín chắn và suy nghĩ thấu đáo hơn San. Qua mỗi suy nghĩ của anh về cuộc đời, về cái nghèo ở làng quê, về những lúc anh tiết kiệm để lo cho gia đình. Thứ là một người có trách nhiệm. Tuy vậy anh vẫn có những tính xấu mà ai trong chúng ta cũng có, tự ái. Sợ bị người khác khinh bỉ, chê cười, những chuyện rất nỗi bình thường nhưng lại nghiêm trọng trong mắt người thầy này. Nam Cao không miêu tả quá nhiều vào ngoại hình của Thứ hay San nhưng lại miêu tả Oanh rõ nét là một người không quá đẹp hay vợ của Mô( người sai vặt trong trường Thứ), Lân,.. Hầu như là những người phụ nữ với vai trò khác nhau, đồng nghiệp của Thứ, cô người ở. Tôi đặc biệt chú ý vào đoạn Nam Cao để Thứ, San và Mô đưa cảm nghĩ về cô người ở “đầy đặn, trẻ trung, uyển điệu...” nghe như những cô tiểu thư nhà giàu nhưng thật chất chỉ là người ở. “Cái đỏng đảnh thì nó ăn vận thế, chứ thật ra nó ở nhà cũng khổ hơn con chó” Trên đời này có rất nhiều kẻ mắc bệnh sĩ, luôn muốn chứng tỏ mình tài giỏi, giàu vì vậy ngụy tạo cho mình vẻ bề ngoài hoàn mỹ nhưng bên trong là sự hôi thối, rách nát của cái nghèo. Sẵn sàng quỳ xuống mượn tiền để mua được cái túi hàng hiệu mang khoe với người đời. Làm vậy chỉ thiệt mình nhưng những kẻ thích sự giả tạo nào có nhận ra, chỉ cần người ngoài nhìn vào thấy mình giỏi, giàu là được. Ai cũng biết dối trá không thể che giấu lâu, cũng sẽ có một ngày bị phát hiện. Khi được hỏi có muốn lấy Lân về làm vợ không ? Ai cũng ngao ngán lắc đầu. Dù khi ấy cô ta đang là “tình nhân” với Mô nhưng Mô chán ghét khi nhắc tới hôn nhân với nàng. Yêu đương không ràng buộc, hết yêu thì chấm dứt nhưng kết hôn là chuyện không dễ dàng. Không thể tùy tiện, cũng may Mô hiểu được triết lý sâu sắc này hoặc y nghĩ về cuộc sống sau hôn nhân với một người thích mặc đẹp không biết làm gì để sống, cuộc sống đã khổ thêm khổ. Thôi thì chấm dứt để nhẹ lòng, nhẹ người
"Già và trẻ là hai thái cực không nên gần nhau. Bà già chưa bao giờ được ăn ngon, không thể quan niệm rằng người ta có thể ăn ngon; chưa bao giờ được nghỉ ngơi, không thể tin rằng người ta có quyền được nghỉ ngơi; chưa bao giờ được vui vẻ, yêu đương, không bằng lòng cho kẻ khác yêu đương vui vẻ”. Tôi khá ấn tượng với lối suy nghĩ của Nam Cao qua câu nói về bà của Thứ. Người khổ cả đời có thật sự ganh ghét với những người được ấm no không? Tôi không biết vì tôi chưa quá khổ, tôi sẽ để câu nói của Nam Cao ở đây, một ngày nào đó khi hiểu thấu đạo lý này tôi sẽ quay lại.
Người học và người không học có khổ như nhau? Nam Cao đã khéo léo đưa suy nghĩ của Thứ và San để ta nhìn thấy được hai góc cạnh khác nhau. Người làm công việc chân tay chỉ cần xong là có thể nghĩ ngơi nhưng người làm việc trí óc chẳng bao giờ xong được, họ phải suy nghĩ, tìm ra giải pháp. Hay như hai thầy giáo trong "Sống mòn" dạy ở trên trường xong về lại phải chấm bài, lên giáo trình để ngày mai tiếp tục. San với lối suy nghĩ "mòn" như những kẻ lười biếng hay biện minh, tôi nghĩ vậy, vì tôi cũng là kẻ lười, thích trì hoãn, thích nghĩ cái học không phải con đường duy nhất để thành công. Tôi thấy mình đã từng có những suy nghĩ lướt qua như San nói "Trong khi những người làm nông đã về ngủ từ khi nào. Học đương nhiên cần đến tiền và hàng trăm ngàn sự cố gắng, mỗi ngày chỉ có thể ngủ ba, bốn giờ. Sống trong căn trọ chật hẹp, hôi thối, học thật nhiều chỉ mong được làm ở sở này sở nọ. Có khi số tiền dành để học mang ra buôn bán, đầu tư bây giờ đã giàu". Nếu ở ngoài có ai nói với tôi như vậy, mẹ tôi sẽ phản bác lại liền, mẹ tôi không phải người giàu, đi học đầy đủ. Mẹ là người ở tầng lớp thấp, nhưng mẹ siêng, mẹ tôi không học trong trường lớp nhưng ở xã hội, mẹ tôi chăm chỉ học những kiến thức chẳng trường lớp nào dạy. Bố tôi cũng vậy, ông làm ngày làm đêm. Chẳng có thời gian nghỉ ngơi như San nói. Để mua được căn nhà và nuôi dạy tôi, hai đứa em nên người. Mỗi khi chúng tôi lười biếng, mẹ đều than mẹ khổ vì không chịu học hành tử tế, người ta ngồi ở nhà làm việc nhẹ nhàng cũng gấp đôi lương bố, mẹ tôi làm dù họ chỉ làm tám tiếng còn bố mẹ tôi làm cả ngày. Tôi đồng ý với quan điểm học hành sẽ có việc làm tốt, và lương có khi gấp đôi, gấp ba người không có bằng cấp. Nhưng như San và Thứ kể khổ về cái ngành nhà giáo của mình, họ phải suy nghĩ, phải thức đêm, không phải đánh trống về là yên giấc. Việc nào cũng nặng, việc nào cũng mệt cũng khó. Nhưng hiểu biết, có kiến thức sẽ được ưu tiên hơn. Thứ nghĩ sâu xa về những người vùng quê, họ sợ trời, sợ đất, sợ nắng, sợ mưa sợ cả những vị thần mà đáng ra khi có kiến thức họ chẳng việc gì phải sợ. Họ sẽ biết bệnh đậu mùa là do virut chứ không phải tâm linh. Khi nghĩ đến người chủ trọ ông Học, ông ta có cuộc sống "yên thân" sáng làm đậu hủ, trưa ngủ một giấc, chăm cho đàn gia súc, mỗi ngày đều làm những công việc lặp đi lặp lại nhưng vẫn ấm no, đủ ăn đủ mặc. "yên thân nhưng yên thân như vậy để làm gì? Làm để có ăn, ăn để sống, sống để đợi chết... cả cuộc đời chỉ thu gọn bằng những việc ấy thôi ư? Và có gì sung sướng gì, cái kẻ suốt ngày chỉ biết cởi trần trùng trục, chúi mũi vào cái cối xay bột, chẳng bao giờ nhìn xa hơn một chút, thu hẹp cuộc sống và hiểu biết của mình vào trong cái phạm vu nhỏ hẹp của mảnh đất cỏn con của mình...” Nam Cao đã đưa suy nghĩ của mình vào Thứ, ông chán ghét sự nhàm chán khi sống mà chờ để chết. Sống không có ước mơ, hoài bão. Các bạn trẻ ngày này có thật sự đang sống hay chỉ thở? Nam Cao cho người đọc thấy sự khác biệt trong nhận thức của ông. Tôi tin rằng ông là người biết sống thế nào cho cuộc đời đầy thú vị, mỗi sáng thức dậy tràn đầy năng lượng, luôn có mục tiêu để phấn đấu. Tôi ngưỡng mộ lối suy nghĩ của ông. Dù khó khăn, vất vả nhưng ông yêu sự khó khăn, yêu những cái mệt nhọc, yêu bản thân khi cống hiến hết mình. Tuổi trẻ sống hết mình để khi nhìn lại không thấy hối hận. Học mang lại hạnh phúc hay đau khổ? Tôi nghĩ đây là vấn đề mà mỗi người sẽ tự cho mình câu trả lời, có khi sẽ trả lời cả hai. Đối với Nam Cao học chưa chắc mang lại hạnh phúc nhưng học cũng chẳng mang lại đau khổ mà vì khi ta học, ta thấm dần những đạo lý, triết lý sâu sa ta mới nhìn ra được cái khổ là gì, ở đời ai chẳng có cái khổ, quan trọng bạn có nhìn thấy và đối mặt với nó thế nào? Sống với nó hay tìm cách biến nó thành cái tốt? Hay sẽ tránh xa? Làm cho nó biến mất... Đó là lựa chọn của mỗi người.
Thứ xa vợ, mà xa mặt thì cách lòng. Đôi lúc tôi thấy anh nghĩ ngợi về tình yêu, nghĩ về vợ, nghĩ về những người phụ nữ xung quanh, nghĩ về những cặp vợ chồng âu yếm nhau mỗi ngày còn mình phải đi làm xa để nuôi gia đình. Anh vẫn luôn cố gắng giữ sự thủy chung nhưng con người ai chẳng có cảm xúc, cám dỗ thì đầy, chỉ cần sơ suất chạm tay vào cám dỗ, chẳng nói được thêm điều gì. Đôi lần anh đã nghĩ đến việc "ngoại tình" nhưng anh sợ, sợ mất mặt, mất thanh danh, sợ sẽ trở thành kẻ tồi, và một phần nhỏ do vẻ ngoài nghiêm túc, ít nói, chững chạc. Một vài lần anh cố tình đi vào con đường tối, lạnh lẽo để mong chờ có cô gái nào đó đi ngang qua, tình yêu xuất hiện. Suy nghĩ của những người đôi khi thiếu tình quá lâu, hay anh mém ngoại tình với Tư, cô gái anh hay thấy đứng chờ xe bus. Nhưng điều đó đã không xảy ra, anh không cho phép mình điều trái với đạo đức. Khi thấy cám dỗ anh đã trách được. Ta có thể thấy đó là điều xấu, điều không nên làm nhưng người ta vẫn làm vì cái lợi, cái sướng trước mắt. Người ta biết hậu quả nhưng vẫn làm, đó là vì họ không có đủ kiên định, kỉ luật.
Có những chuyện tôi chẳng thể hiểu vì sao người ta thích bịa chuyện nói xấu nhau, người nghe cũng chỉ nghe một phía liền soi mói đánh giá. Thứ chỉ nghe mẹ nói vợ mình đi đánh bạc, đi trai gái liền điên lên, vừa thấy Liên đã nhảy vào tát một phát khiến cô đứng hình. Khi thấy mọi chuyện ngoài tầm kiểm soát mẹ chồng mới hoảng sợ nhảy vào can, bà biết mình đã lỡ lời, chính bà đã làm nên tội lỗi, con người thật kì lạ, họ nửa muốn hãm hại nửa muốn yêu thương "kẻ ngoài" như con dâu, con rể. Nữa người thân nữa người lạ, cái tát ấy cũng vì Thứ không tin tưởng vợ mình, cái ghen ngầm cuối cùng cũng lộ ra sau bao nghi ngờ về cái không thật, cuối cùng anh vẫn xem là thật vì mẹ mình, người mình tin tưởng lên tiếng. Không sợ người ngoài hãm hại chỉ sợ người thân không đoàn kết. Ta thường không đề phòng những người ta thương yêu bên cạnh vì vậy khi bị đâm sau lưng chúng ta như điên lên, niềm tin không còn, tình yêu thương trao nhầm chỗ, đó mới là tuyệt vọng. Sau cái tát ấy Liên hét lên, Thứ cũng hoảng loạn một phần vì lần đầu tiên thấy Liên hung dữ như vậy, từ khi yêu nhau anh chỉ thấy vợ mình là người hiền lành, e dè, nói chuyện nhỏ nhẹ. Cũng đúng thôi, sống trong xã hội chanh chua, đắng nghẹn. Hiền lành chính là tự tìm chỗ chết. Tôi cũng biết ngày ấy mẹ chồng nàng dâu, bây giờ con dâu có tiếng nói hơn một chút nhưng trong mọi thời đại đều có những câu chuyện đẫm nước mắt, cay đắng về mẹ chồng nàng dâu. Khi đọc truyện, Nam Cao không nhắc đến nhưng tôi có thể cảm nhận bà và mẹ đều không có thiện cảm về Liên, họ vẫn ngầm soi mói, họ thấy Liên đi nhiều nên đã đặt điều đủ chuyện. Khi thấy Thứ viết thư cho Liên, họ ghen tị như cả ba lấy chung một chồng. Sau ngày hôm ấy có lẽ họ sẽ hạ dạ nhưng cũng khó nhìn mặt Liên. Liên và Thứ sau khi giải thích, mọi chuyện yên ổn nhưng trong trái tim mỗi người điều có cái gì đó đã chết. Họ không tin người đối diện có những "bản tính" như vậy. Sự tôn trọng, tin tưởng, thương yêu đương nhiên vẫn còn, chỉ là họ không biết vì sao lòng mình đã nguội lạnh. Ngày Thứ đi ra Hà Nội vẫn như mọi lần, Liên vẫn ân cần chuẩn bị, căn dạy đủ điều, nhưng Thứ thấy có gì đó lạ lắm, không còn thân thuộc. Tôi không biết cũng không dám chắc mình hiểu cái nguội lạnh ấy vì tôi chưa yêu sâu đậm, chưa cưới. Tôi vẫn là một cô gái vẫn sẽ yêu có thể một cũng có thể khóc lóc chia tay vài mối tình. Tôi cũng mong tìm được ai như Thứ, thật sự là vậy, đối với tôi Thứ là người chồng, người thầy tốt.
Nói thế nào nhỉ? Người thân hay người ngoài mới là kẻ khiến ta nhức đầu? Thứ đã từng nhắc tới việc anh muốn tăng lương, anh thấy bất công vì anh dạy ở trường đã lâu, mà đồng lương vẫn bèo bọt. Anh có thể hưởng số lương tốt hơn ở trường khác vậy sao anh không làm đơn xin tăng lương? Vì người hiệu trưởng là anh họ anh. Đích và Thứ sống cùng nhau từ nhỏ, học chung với nhau sau đấy Đích mở trường nhờ Thứ giúp đỡ, chính vì là người thân nên chuyện tiền nong thật khó nói. Người thân dễ dàng giúp nhau, vì vậy mới có chuyện con ông cháu cha, hai người cùng tài giỏi như nhau nhưng một người có người quen nên được nhận vào công ty, đấy là cái lợi. Mà nhiều khi được nhận chẳng có tài năng đặc biệt hay chăm chỉ gì, chỉ cần là con cháu nhà cấp cao thế là vào. Cái gì chẳng có âm dương, tốt xấu. Quay lại với chuyện tiền nong, Thứ bao lần đã muốn nói nhưng lại nhẫn nhịn, Thứ biết mình có quyền được tăng lương nhưng cái tâm lại không cho phép, tôi cũng chẳng trách anh, anh ngại, anh sợ thì anh thiệt thòi. Câu chuyện sẽ chẳng có gì nếu anh không lấy hết quyết tâm để bản thân nhận được điều tốt đẹp hơn. Nhưng đôi khi chữ muộn sẽ đến sớm. Chiến tranh ập đến, Thứ đã từng mừng vì chiến trang thế giới đổ ra vì anh tin sẽ có gì đó thay đổi khi chiến tranh kết thúc, thế giới sẽ tốt đẹp hơn ? Trước khi kết thúc, anh sẽ được nhìn thấy những điều kinh khủng của chiến tranh, người chết, nước mất nhà tan, người người đói khổ, than khóc, nhìn thấy con cháu, người người nằm xuống trên con đường giải phóng đất nước. Họ hy sinh anh dũng còn anh chỉ mong nhận kết quả tốt đẹp, có lẽ anh cũng thấy mình đã sai, giờ đây anh phải quay về vùng quê hay đi đâu đó khỏi ngôi trường, khỏi Hà Nội thân yêu, vì tiếng bom tiếng súng đâu đâu cũng có. Đích cũng bệnh, anh ta sắp chết vì ho lao, anh muốn sống, anh còn hoài bão lớn lao, anh còn muốn cống hiến cho đất nước, anh còn muốn cưới người anh yêu. Nhưng ông trời bắt anh rời bỏ thế gian này, bắt anh sống trong cái đau cái khổ trước khi chết. Tôi không dám bàn nhiều vì sao người ta chết. Câu chuyện cũng đến hồi kết, Thứ lên tàu nhìn Hà Nội xa dần, chiến tranh cứ thế ập đến, chấm trên giấy nhưng Nam Cao đã chuẩn bị lên đường. Những câu chuyện trước cách mạng của ông khá đa dạng và nhiều nhưng sau cách mạng chỉ là một vài trang giấy, vì ông hy sinh trên trường...
Sau cách mạng trong "tuyển tập truyện ngắn của Nam Cao" có một là truyện, một là nhật ký. Thế là hết.
Câu chuyện "đôi mắt" đôi mắt để nhìn, để nhận xét, đánh giá mọi sự vật trên đời. Đôi khi ta chỉ cần nhìn một người cũng có thể đoán tính cách, lối sống. Đôi mắt sau cách mạng của những người có học thức cao sẽ đi tìm đường cứu nước? Đôi mắt ta khi thấy bom, đạn, thấy cảnh người chết đói nằm rải rác khắp nơi, đâu đâu cũng thấy những khuôn mặt hốc hác vô hồn, người ta sẽ sợ hãi chạy trốn hay sẽ tiến lên chống giặc? Hoàng nhân vật được kể qua đôi mắt của người chiến sỹ. Ông ta là nhà văn có tiếng ở Hà Nội, chạy về vùng quê trốn bom đạn. Ông ta có học thức nhưng nhìn đời bằng ánh mắt chán ghét và chán ghét luôn những người miền quê, ông ta khinh bỉ những người nông dân dơ "dơ dáy, không có học thức" nhưng lại hết mình trong kháng chiến, sẵn sàng học thuộc năm trang giấy để đi tuyên truyền, ông ta cảm thấy họ thấp kém không xứng đáng tiếp chuyện với người có tri thức cao như gã. Thay vì đi bồ đội hay lấy tri thức của mình để giúp người làng quê biết đọc, biết viết, ông ta đem giấu cái tài của mình. Đây chính là ví dụ cho những kẻ có tài mà không có đức, tưởng mình thanh cao nhưng hóa ra là kẻ hèn mọn. Ông ta đúng là kẻ hèn nhát, không xứng đáng với cách mạng.
Cuối cùng trong cuốn sách là Ở RỪNG (nhật ký): Đây là chuyến đi lên vùng cao của các chiến sỹ, cho tôi thấy tình yêu thương của những người dân vùng cao, họ là người Man, không biết nói tiếng Kinh hay Thố, nhưng tình yêu nước, yêu cách mạng nhiều vô kể. Họ sẵn sàng nhịn ăn để có thức ăn cho các chiến sỹ, họ yêu thương “người lạ” như chính những đứa con ruột thịt. Khi được nghe kể trên tivi về cuộc sống, con người ở miền Núi, nơi hẻo lánh, khó đi, lời kể luôn mang sự yêu thương. Họ là những người hiền lành, chất phác. Có thể họ nghèo, không đủ ăn đủ mặc nhưng họ có cuộc sống bình yên, họ yêu thương đoàn kết hơn xã hội tấp nập ở đây nhiều. Ở đâu cũng có điểm tốt-xấu, quan trọng bạn sẽ nhìn và sống như thể nào ở nơi đó. Vui vẻ tận hưởng hay oán trách chán ghét ?
"Ngày nào cũng ngắn vì mình muốn làm nhiều việc quá” tôi chỉ mỉm cười khi đọc được câu “than” này. Ông đã sống cuộc đời ý nghĩa, làm việc mỗi ngày, tất cả các công việc ông đều muốn được có sức mình trong đấy. Ông muốn dành cả đời để cống hiến cho Cách Mạng cho Việt Nam thân yêu. Ấy vậy mà ông nỡ nằm xuống khi còn quá trẻ...Lối viết theo nhật kí này, tôi không biết Ở Rừng có phải chính ông đã đi và sống cùng người Man không vì nó quá chân thật. Có thể nhật kí vẫn còn rất nhiều trang giấy ở đằng sau, tôi chỉ được đọc một chút... Cũng có thể đây là câu chuyện theo dạng nhật kí, sao cũng được. Vì tôi đã được đọc về những người miền Núi thật thà, họ sống rất hạnh phúc dù đang trong thời chiến tranh, ai nói chiến tranh thì không được vui vẻ nói cười? Họ vẫn đang chống giặc mỗi ngày, họ đi theo Bác Hồ, tin tưởng vào Cách Mạng bằng cả con tim.
Tháng 6/2021
Giá trị của tác phẩm văn học chân chính là được tạo nên từ cảm hứng nhân văn cùng chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Văn học Việt Nam từ thời trung đại tới nay luôn coi trọng điều này và xem đó như một nguyên tắc vàng trong sáng tác.
Vượt qua thử thách khắc nghiệt của thời gian, các truyện ngắn của Nam Cao vẫn luôn ngời sáng bởi ý nghĩa hiện thực sắc sảo cũng như tư tưởng nhân đạo mới mẻ mà ông truyền tải qua những đứa con tinh thần quý giá.
Dẫu vậy, từ những chuyện vụn vặt đó lại đặt ra các vấn đề sâu sắc đáng suy ngẫm. Bi kịch đời thường thể hiện qua ngòi bút Nam Cao đã trở thành bi kịch điển hình và bất hủ trong tâm trí độc giả.