Trong Đáy Mắt Trời Xanh Là Vĩnh Viễn
Xem thêm

Là một người yêu thơ thì sao có thể không nghe đến cái tên Xuân Quỳnh. Người ta nói về Xuân Quỳnh: “Đề tài, đối với Xuân Quỳnh, không phải là quan trọng. Điều chị quan tâm là chủ đề. Thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng có tứ, chị dùng tứ để bộc lộ chủ đề. Đây là một đóng góp đáng quý của Xuân Quỳnh vì giai đoạn ấy thơ chúng ta rất lỏng về tứ. Xuân Quỳnh có năng khiếu quan sát. Chị quan sát bằng tất cả giác quan và phong phú trong liên tưởng. Chi tiết vốn quen thuộc bỗng trở nên mới lạ, tạo ý vị cho câu thơ.”

Mỗi câu thơ Xuân Quỳnh là nét tả thực trần trụi về cuộc sống. Cuộc sống không màu hồng. Cuộc sống ấy cũng có đau thương, có bom đạn chiến tranh, có nghèo đói, lam lũ, có nỗi lo cơm áo gạo tiền. Người ta bảo: “Xuân Quỳnh không làm ra thơ, không chế tạo câu chữ mà chị viết như kể lại những gì chị đã sống, đã trải. Nét riêng của Xuân Quỳnh so với thế hệ nhà thơ hiện đại cùng thời chính là ở khía cạnh nội tâm đó. Thơ chị là thơ mang tâm trạng. Thời ấy nhiều bài thơ thiên về phản ánh sự kiện, cốt để được việc cho đời, còn tâm trạng tác giả thường là tâm trạng chung của xã hội, vui buồn tác giả hoà trong vui buồn chung của công dân. Tâm trạng thơ Xuân Quỳnh là tâm trạng nảy sinh từ đời sống của chính chị, từ hoàn cảnh của riêng chị.”

“Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn” là tập di cảo quý giá của Xuân Quỳnh, nơi chất chứa những câu thơ mộc mạc, giản dị và “cái tình” của nữ thi sĩ. Mỗi câu chữ chan chứa những tâm tình. Xuân Quỳnh bộc lộ tình cảm của mình bộc trực lắm: “Em không còn nhìn thấy gì trên đất ta hoài anh và con … Nhưng không sao nhắm mắt được. Em nhớ thương con, nhớ thương anh quá.”, “Tối hôm trước, chắc Mí khó ngủ, có sờ tai của Béo và bố không?”. Những trang viết thấm đẫm tình yêu và nỗi nhớ: “trông trẻ con mà nhớ thương con quá”, “em nghĩ mà thương anh lắm”, “đừng giận em, em dù có những nhược điểm như vậy … em bao giờ cũng thương anh lắm”. Xuân Quỳnh không viết đao to búa lớn, đôi khi là những điều nhỏ nhặt, tầm thường: “Người ta nhiều khi tưởng mình đã vượt qua những điều tầm thường rồi, thế mà đôi khi, vẫn quay lại, sự quay lại còn mạnh mẽ hơn lúc ban đầu.”

Người ta bảo Xuân Quỳnh đa sầu đa cảm, trong câu chữ lúc nào dạt dào một tình cảm nồng nàn, thắm thiết. Xuân Quỳnh lúc nào cũng hướng về tình yêu, tin vào tình yêu, tình gia đình giản dị, nồng thắm. Phải chăng vì thế mà “Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn - Tình yêu nào cũng tha thiết như nhau…”

Phần thứ ba của bức thư, là cuộc đối thoại giữa Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ, cũng có tình cảm với cô út Lưu Quỳnh Thơ (tức Mị). Những trang đầu tiên đầy ắp những cuộc đối thoại đầy cảm xúc, sự đồng điệu đã làm nên tình yêu giữa hai người. Thi thoảng, hai người kể cho nhau nghe về cuộc sống ở xa (Xuân Quỳnh lúc đó đang ở Liên Xô), tâm sự về người thân, các mối quan hệ, nghề nghiệp của nhau. Cũng nhiều lần chị bày tỏ sự bất an với chồng, chị lo sợ nhiều thứ, cũng sợ tình cảm dần phai nhạt. Xuân Quỳnh hơn Lưu Quang Vũ sáu tuổi, khoảng cách tuổi tác khi ấy vẫn còn nhiều định kiến, cô đã có chồng và con lớn khiến mẹ chồng có thành kiến.

Những dòng gửi em út rất thân thương. Bà kể cho con nghe về cuộc sống ở Liên Xô, những câu chuyện nhỏ ngày thường hay những câu triết lý mà bà đã học được. Qua đó, cô gửi gắm những tâm tư, tình cảm, những điều muốn nói với con, làm vơi đi nỗi nhớ quê hương.

“Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn” in sâu trong lòng người đọc, bởi cái tôi của Xuân Quỳnh giản dị và dạt dào cảm xúc. Tình yêu đôi lứa và tình mẫu tử thiêng liêng làm nổi bật lên chữ “tình” trong thơ bà, thứ tình bao trùm lên tình yêu đôi lứa, tình yêu gia đình, tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu giữa con người với nhau. Một nhà thơ viết nên những vần thơ thấm đẫm tình người và đạo lý ở đời. Những năm Xuân Quỳnh viết và mang đến những tác phẩm nghệ thuật đích thực, chúng ta mới hiểu thế nào là yêu nghệ thuật và hết mình vì nghệ thuật.

Xuân Quỳnh được mệnh danh là “Bà hoàng thơ tình”. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng vọng của một tâm hồn rộng mở, yêu đời được thể hiện cả trong đời sống và trong thơ ca một cách rõ nét. Bà thường viết về tình yêu nên khi đọc đến phần đầu của “Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn” ta mới hiểu được tấm lòng bao la của người mẹ. Từ khi biết mình mang thai đứa con đầu lòng, rồi những lúc chồng phải đi công tác, ở nhà không hòa thuận với mẹ chồng, cô phải mạnh mẽ vượt qua. Cô bày tỏ cảm xúc của mình qua những câu nói “Mẹ nhớ con nhiều lắm”, “Nếu không có Tuấn Anh thì mẹ sẽ cô đơn biết bao”. Nhiều khi ít sữa, con quấy khóc, mẹ chồng mắng, phải ôm con chạy trốn bầu bí, không có chồng bên cạnh. Chị đã ghi lại những cảm xúc, niềm hạnh phúc khi chào đón một sinh linh mới, cho đến những lo toan trong cuộc sống thường ngày, niềm vui nỗi buồn đan xen. Cuối cùng, bà kết thúc cuộc hôn nhân đầu tiên với Lưu Tuấn – một nghệ sĩ vĩ cầm và đã kết hôn với nhà thơ Lưu Quang Vũ.

Phần hai kể về chuyến đi Vĩnh Linh, Quảng Trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ những năm 1967 – 1973, đất nước ta chìm trong bão táp chiến tranh. Bà đã ghi lại những gian khổ của nhân dân, tuy gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng, tạo nên trang sử chói lọi cho thế hệ sau noi theo. Ra tiền tuyến ai cũng biết là nguy hiểm, nhưng ai cũng muốn đi, cũng muốn tham gia chiến đấu. Những người ở phía sau đã cố gắng hết sức để giúp đỡ. Một lão chăn bò chuyên chở cho hợp tác xã bị chém trọng thương, giao sổ rồi chết. Hai người con của ông, một trong quân đội và một trong kinh doanh, đều đã chết. Và còn vô số cảnh đau thương khác trong chiến tranh, đọc mà nghẹn lòng. Người Việt Nam chúng ta luôn dũng cảm như vậy!