Với những người đã từng đọc tiểu thuyết "Lolita" của văn hào người Nga Vladimir Nabokov thì chắc chắn không thể quên được sự tuyệt diệu trong ngôn từ mà nhà văn sử dụng. "Lolita" là tác phẩm gây tiếng vang lớn nhất của ông. Nhưng để hiểu hơn về tác giả, chúng ta nên đọc các truyện ngắn của ông. Những truyện ngắn mang phong vị của "bậc thầy ngôn từ" từng khiến ta say mê trong "Lolita", nhưng bình yên hơn để ta cảm nhận tác phẩm như là chính nó. "Thanh âm" là tên tập truyện ngắn thứ ba của Nabokov được chuyển ngữ, sau hai cuốn "Mỹ nhân Nga" và "Mây, hồ, tháp". Đồng thời, nó cũng là tên một truyện ngắn tiêu biểu của ông, một chuyện tình nhẹ nhàng, xào xạc như lá với đầy đủ những quan sát tinh tế nhất, nắm trọn những rung cảm thần kỳ nhất của tình yêu. Nabokov không đem đến một cốt truyện gay cấn hay một chuyện tình lấy nước mắt, ông chỉ đơn giản đem đến cho người đọc một tình yêu. Phải, một tình yêu như tất cả loài người vẫn có. Phần trích đoạn dưới đây là nửa đầu của truyện ngắn, một nửa tấu khúc lãng mạn mà nhà văn đã cảm nhận và thể hiện qua ngôn từ.

1.

Phải đóng cửa sổ thôi: mưa, đập vào bậu, bắn lên ván sàn, lên ghế. Trong vườn, qua cỏ cây, trên cát da cam, với tiếng gầm gào tươi mới và trơn tuột, những bóng ma bạc khổng lồ lướt đi. Các ống thoát sặc nước ùng ục. Em đang chơi Bach. Cây đại dương cầm nhấc chiếc cánh bóng loáng; dưới cánh, nằm sóng soải, một chiếc đàn lia; những cây búa nhỏ liên tục vỗ lên các dây đàn. Từ đuôi đại dương cầm, tấm thảm gấm tuột những nếp gấp thô kệch, làm rơi lên ván sàn một tập nhạc mở tung. Thảng hoặc, xuyên qua nỗi xao xuyến của tấu khúc, chiếc nhẫn lại leng keng trên phím đàn, và cơn mưa rào tháng Bảy tạt liên miên và diệu huyền vào mặt kính. Còn em, không ngừng chơi và hơi nghiêng đầu, reo lên theo nhịp – du dương miễn cưỡng:

-        Mưa, mưa… Em sắp át tiếng nó.

Nhưng em không thể át được tiếng nó.

Dứt khỏi các cuốn an-bom nằm như những quan tài nhung trên bàn, anh nhìn em, lắng nghe tấu khúc, lắng nghe mưa,  - và trong anh trào dâng cảm giác tươi mới, như mùi hương cẩm chướng ẩm ướt đương tuôn xuống khắp nơi: từ xích-đông, từ cánh đại dương cầm, từ những hạt kim cương thuôn dài trên chúc đài treo. Ấy là cảm giác cân bằng phấn khích nào đó: anh cảm thấy mối liên hệ nhạc tính giữa bóng ma bạc của cơn mưa với bờ vai xuôi của em, đôi vai rùng nhẹ khi em ấn ngón tay lên nước bóng rung rinh. Và khi anh rút vào sâu trong mình, cả thế giới với anh có vẻ thế này – vẹn nguyên, đồng thuận kết liên bằng luật hài hòa. Anh, em, cơn mưa rào, những đóa cẩm chướng – trong khoảnh khắc ấy là các hợp âm thẳng đứng trên khuông nhạc. Anh hiểu rằng mọi vật trên trần gian là trò chơi của các phân tử đồng nhất, hợp thành những hòa âm khác biệt: cây, nước, em… Duy nhaatj, tương đương, thần thánh. Ưm đứng dậy. Mưa còn cắt nắng. Các vũng nước, như những hố thẳm trên cát thẫm, chiếu vào nhwungx bầu trời nào đó khác đang trôi dưới đất. Trên ghế băng, lấp lánh như đồ sứ Đan Mạch, nằm lại một cây vợt bỏ quên: dây nâu vì đi mưa, khung cong hình số tám.

Khi chúng mình vào đường cây – đầu ngất ngây vì sự loang lổ của bóng râm, vì mùi nấm mục. Anh nhớ em ở giữa luồng sáng nào đó. Em có đôi khuỷu nhọn và cặp mắt nhạt nhòa, y như được phủ phấn hoa. Khi em nói – em cắt không khí bằng cạnh lòng bàn tay, bằng ánh lấp lánh của chiếc vòng trên cổ tay gầy. Tóc em lẫn vào, tan ra trong bầu không khí ngập nắng rung rinh quanh nó. Em hút nhiều và vội. Em thả khói qua hai lỗ mũi, em quều quào gảy tàn. Điền trang xám lam của em nằm cách điền trang nahf anh chừng năm véc-xta. Bên trong điền trang của em âm vang, xa hoa và lạnh lẽo. Ảnh nó từng xuất hiện trong tờ tạp chí bóng loáng của thủ đô. Gần như mỗi buổi sáng, anh lại phóc lên cái nêm da xe đạp và lách cách, lách cách theo lối mòn, xuyên rừng rồi, theo đường cái, qua làng và lại theo lối mòn – để đến với em. Em tính là chồng em đến tháng Chín vẫn chưa về. Và chúng mình chẳng sợ gì, cả những lời xì xào từ đám gia nhân của em, cả những hoài nghi của gia đình anh. CHúng mình cả đôi, mỗi người một kiểu, tin vào số phận.

2.

Tình em cũng hơi lãnh đạm, y hệt giọng em. Em yêu như thể vẫn dè chừng, và chẳng nói về tình yêu – chẳng bao giờ. Em là một trong số các phụ nữ thường im lặng và ta lập tức quen với sự im lặng của họ. Nhưng đôi lúc có gì đó vỡ ra trong em. Những lúc ấy cây Bechstein khổng lồ của em sẽ rền vang – còn không thì, nhìn mơ hồ trước mặt mình, em sẽ kể cho anh những giai thoại rất buồn cười nghe được từ chồng, từ các chiến hữu cùng trung đoàn của y. Anh nhớ tay em – dài, tái, nổi gân xanh.

3.

Và cái ngày hạnh phúc ấy, khi mưa tạt và em chơi hay đến bất ngờ, đã giải quyết được sự không rõ ràng vẫn âm thầm nổi lên giữa chúng mình sau những tuần yêu đầu tiên. Anh hiểu là em chẳng có quyền gì với anh, rằng không chỉ mình em, mà cả địa cầu này – nhân tình của anh. Lòng anh như thể thả ra vô số xúc tu thính nhạy, và anh sống trong vạn vật, đồng thời cảm nhận được, đâu đó sau cửa sổ, gầm gào tiếng thác Niagra và  - đấy – trên đường cây, xào xạc và rơi lộp độp, những giọt vàng dài. Anh ngắm lớp vỏ bạch dương óng ánh và chợt cảm thấy: không phải tay anh, mà những cành cong trong vòm lá ẩm li ti, và không phải chân, mà hàng ngàn rễ mảnh vặn mình uống đất. Anh những muốn trút mình như vậy vào cả thiên nhiên, muốn nếm trải xem thế nào là được làm cây nấm thông già với mặt dưới vàng lỗ chỗ, hoặc chú chuồn chuồn, hoặc vành nhật hoa, Anh hạnh phúc đến nỗi bỗng dưng bật cười, hôn em lên xương quai xanh, lên gáy. Thậm chí anh còn đọc thơ cho em nghe, nhưng em không thể chịu nổi thơ.

Em mỉm cười và nói:

-        Mưa xong thích quá. – Sau đó em nghĩ và nói thêm: - Anh biết không, em chợt nhớ ra: cái người hôm nay mời em đến nhà mình uống trà ấy, tên gì nhỉ, à, Pal Palych. Hắn chán ngất, nhưng, anh hiểu không, em vẫn phải đi.

Ai chứ Pal Palych thì anh quen biết đã lâu: bọn anh từng có dịp đi câu cá cùng nhau, và y bỗng dưng hát “Tiếng chuông chiều” bằng giọng tê-no nhức nhối. Anh rất thích y. Giọt lửa rơi thẳng từ lá lên môi anh. Anh ngỏ ý muốn đi cùng em.

Em nhún vai ớn lạnh:

-        Chúng mình sẽ chết vì buồn ở đó mất thôi. Kinh lắm.

Em ngắm cổ tay, thở dài..

-        Đến giờ rồi. Em phải đi thay giày.

Trong phòng ngủ lờ mờ của em, chiếu xuyên qua tấm mành buông, nắng nằm hai thang vàng. Em lúng búng nói gì đó. Sau cửa sổ, cây rỏ giọt, thở xạc xào hạnh phúc. Và, cười vào tiếng xạc xào ấy, anh ôm em, nhẹ nhàng, không khao khát.

4.

Cảnh thế này: trên một bờ sông – trang viên của em, đồng cỏ của em, trên bờ kia – làng. Nhiều chỗ trên đường cái là những hố sâu; bùn ngả sắc tím màu mỡ, nước sủi bọt cà phê sữa đọng trong các vết bánh xe. Chiếc bóng xiên của căn nhà gỗ xẻ đen ngòm vươn dài một cách đặc biệt rõ nét.

Chúng mình đi dưới bóng râm trên lối mòn giẫm chặt, dọc theo một tiệm tạp hóa, một quán trọ với tấm biển ngọc lục bảo, dọc theo những cái sân ngập nắng, tỏa mùi phân chuồng, hương cỏ khô mát lành.

Trường còn mới, xây đá, chung quanh trồng thích. Trên ngưỡng ngay trước cái cửa há hốc, một chị nông dân, lấp lóa bắp chân trắng ngần, đang vắt giẻ vào xô.

Em hỏi:

-        Sao, Pal Palych có nhà không?

Chị nông dân (tàn nhang, tóc tết) nheo mắt vì nắng.

-        Nhất định rồi, ở nhà, - chị đẩy gót vào cái xô xủng xoảng. – Mời vào, thưa bà chủ. Họ sẽ ở trong xưởng.

Chúng mình cót két theo hành lang tối mò, sau đó – qua phòng học rộng, anh tiện thể nhìn vào tấm bản đồ xanh da trời; thầm nghĩ: đấy, cả nước Nga như vậy – nắng lóa, ổ gà… Trong góc sáng lên một mẩu phấn bẹp. Còn xa hơn, trong xưởng nhỏ, phảng phất mùi thơm dễ chịu từ keo dán, mạt gỗ thông. Không áo vét, múp míp và nhễ nhại mồ hôi, Pal Palych đang bào, đưa chân trái lên trước, vờn cái bào ngon lành theo tấm ván trắng rên rỉ. Trong luồng sáng bụi bặm, mảng hói ẩm ướt của y lắc tới lắc lui. Trên sàn, dưới bàn thợ, phoi gỗ xoăn lại như những búp tóc quăn nhẹ bỗng.

Anh nói lớn:

-        Pal Palych, ông có khách!

Y giật mình, lập tức luống cuống, rối rít hôn chùn chụt lên bàn tay mà em nhấc lên với một cử chỉ mới yếu ớt làm sao, mới quen thuộc làm sao, rồi, trong khoảnh khắc, chọc những ngón tay ẩm vào bàn tay anh, lắc nhẹ. Y có bộ mặt dường như được nặn từ đất bơ, ria mềm, với những nếp nhăn bất ngờ.

-        Xin thứ lỗi, anh chị thấy đấy, tôi không bận đồ, - y cười ngượng ngùng.

Y chộp lấy từ bậu cửa sổ hai hình trụ đứng cạnh nhau – các cổ tay áo, rồi vội đeo vào.

-        Ông đang làm gì đấy? – em hỏi, lấp lánh vòng tay.

Pay Palych vùng vẫy mặc áo vét.

-        À, vớ vẩn ấy mà, - y nói lè nhè, hơi ngắc ngứ tại các phụ âm môi. – Cái ngăn nhỏ thôi. Chưa xong. Sau đó mài nhẵn, quét sơn. Mà xem cái này hay hơn – nó được gọi là “Ruồi”…

Bằng cú xoa hai bàn tay chập lại, y vặn cái máy bay trực thăng nhỏ bằng gỗ, nó kêu vo vo, bay lên, đụng trần, rớt xuống.

Bóng nụ cười nhã nhặn lướt ngang mặt y.

-        Thôi xong, tại tôi đấy! – Pal Palych lại bắt đầu đưa đi. – Ta hãy lên trên nào, quý vị. Cửa chỗ này hơi kêu. Thứ lỗi. Cho phép tôi đi trước. Tôi e là chỗ tôi chưa được dọn…

-        Hình như ông ta quên là đã mời em đến, - em nói bằng tiếng Anh, khi chúng tôi lep lên cái cầu thang cọt kẹt không sơn…

Anh nhìn lưng em, nhìn những ô lụa nhỏ trên săng-đay em. Đâu đó bên dưới, chắc là trong sân, vang lên giọng đàn bà lanh lảnh: “Gerosim! Ê, Gerosom!” – và bỗng anh thấy thật rõ ràng rằng hàng thể kỷ nay thế giới nở hoa, héo úa, xoay tròn, đổi thay chỉ để bây giờ, vào khoảnh khắc này có thể kết liên, hòa quyện vào một hợp âm thẳng đứng cả giọng nói đang vang lên dưới kia, chuyển động bả vai lụa là của em, mùi ván thông.

5.

Phòng Pal Palych nắng tràn và hơi chật. Trên đầu giường đóng đinh một tấm thảm nhỏ đỏ tươi với con sư tử vàng thêu chính giữa. Trên bức tường khác, treo trong khung một chương từ tiểu thuyết “Anna Karenhina”, được lựa chọn sao cho trò chơi tối sáng của các chữ cái khác nhau và bố cục khéo léo của các dòng chữ tạo thành gương mặt Tolstoy. Chủ nhà, tất tả xoa tay, mời em ngồi, gạt vạt áo vét làm cuốn tập rơi khỏi bàn, xin lỗi, đặt nó lại chỗ cũ. Trà, sữa chua, bánh quy xuất hiện. Pal Palych lấy từ ngăn tủ com-mốt ra một hộp kẹo ca-ra-men Landrin màu mè. Khi y cúi người, nếp da đầy mụn phồng lên sau cổ áo. Trên bậu cửa sổ, trong tơ nhện, vàng vàng một con ong nghệ đã chết.

-        Saraevo ở đâu nhỉ? – bỗng dưng em hỏi, sột soạt trang báo mà em uể oải lấy từ trên ghế.

Pal Palych, đang bận rót trà, trả lời:

-        Ở Serbia.

Rồi, với bàn tay run rẩy, y thận trọng đưa em cái cốc bốc khói trong đế bạc.

-        Của cô đây. Chẳng hay tôi có thể mời cô thêm ít bánh quy được không? Mà sao họ ném bom vậy? – y giật vai, quay qua anh.

Anh nhìn – lần thứ một trăm – cái chặn giấy thủy tinh to dày: bên trong thủy tinh – màu lam hồng và thánh đường Isaac lấm chấm những hạt cát vàng. Em bật cười và đọc thành tiếng:

-        Hôm qua, trong nhà hàng “Quisisana” đã bắt giữ Yeroshin vin cớ…

Em lại cười:

-        Thôi, sau đó hơi bất lịch sự.

Pal Palych mất bình tĩnh, mặt tím lại, đánh rơi thìa. Lá thích bóng lên ngay dưới cửa sổ. Xe ngựa kêu lọc cọc. Đâu đó xa xa, rầu rĩ và dịu dàng vọng lại: kem ơ!...

6.

Y lên tiếng nói về trường học, về tệ nghiện rượu, về chuyện trên sông xuất hiện cá hồi. Anh bắt đầu chăm chú nhìn y, và anh tưởng như lần đầu tiên anh thật sự thấy y – dẫu đã biết y từ lâu. Ngay từ lần đầu gặp gỡ, có lẽ anh đã nhìn y – và cái diện mạo ban đầu ấy đã ăn sâu vào óc anh, không thay đổi, như thứ gì đó đã được tiếp nhận, đã quen thân. Khi anh thoáng nghĩ về Pal Palych, không hiểu sao anh cứ có cảm giác là không chỉ ria y màu vàng sẫm, mà cả chòm râu cũng thế. Một chòm râu ảo – đặc tính của nhiều bộ mặt Nga. Giờ đây, ngắm y bằng tâm nhãn, theo một cách thức khá đặc biệt, anh nhìn thấy là trên thực tế thì cằm y tròn, không râu, hơi chẻ làm đôi. Mũi nung núc thịtcòn bên mí trái, anh để ý thấy một mụn cơm mà anh những muốn xẻo đi, nhưng xẻo đi có nghĩa là giết. Trong cái hột nhỏ ấy là toàn bộ y, chỉ mình y.

Và khi anh hiểu ra mọi điều này, đã quan sát toàn bộ y, anh thực hiện một chuyển động nhẹ, rất nhẹ, nhưu thể thả hồn trượt dốc, và anh nhập vào Pal Palych, chiếm chỗ trong y, cảm thấy sao đó từ bên trong y cả mụn cơm trên mí mắt nhăn, cả ve áo hồ bột, cả con ruồi bò trên đỉnh đầu. Anh biến thành y. Anh nhìn mọi thứ bằng cặp mắt sáng láo liên của y. Anh thấy con sư tử vàng trên đầu giường có vẻ quen thuộc từ lâu, chính xác là từ thời thơ ấu nó đã được treo trên tường phòng anh. Tấm bưu thiếp màu ngập trong kính lồi trở nên tươi đẹp lạ thường. Ngồi trước mặt anh không phải em, mà người bảo trợ trường học, một quý bà trầm lặng ít quen biết trên chiếc ghế rơm thấp mà lưng anh đã quen. Và lập tức, cũng với cái chuyển động nhẹ nhàng ấy, anh nhập vào em, cảm thấy dải nịt trên đầu gối, còn cao hơn nữa – cảm giác buồn buồn từ phim nõn, nghĩ thay em, là buồn, là nóng, là muốn hút thuốc. Vào đúng khoảnh khắc ấy, em rút cái tráp vàng ra khỏi túi, đặt điếu thuốc vào bót. Và anh ở trong tất cả: trong em, trong điếu thuốc, trong Pal Palych đang vụng về quẹt diêm, trong cả cái chặn giấy thủy tinh, trong cả con ong nghệ đã chết trên bậu của sổ.

7.

Nhiều năm trôi qua từ dạo ấy, và anh không biết giờ này y ở nơi nao – gã Pal Palyc rụt rè, nhệu nhạo ấy. Chỉ thỉnh thoảng, khi anh ít nghĩ về y hơn cả thì anh lại thấy y trong mơ, trong bối cnahr cuộc đời hiện thời của anh. Y bước vào phòng với dáng điệu tươi cười, tất tả của mình, với chiếc mũ pa-na-ma bạc màu trên tay, vừa đi vừa cúi chào, lau chỗ hói và cái cổ bằng chiếc khăn mùi soa khổng lồ. Và khi anh mơ thấy y, thế nào em cũng đi ngang qua giấc mơ anh, uể oải, mặc săng đay lụa với thắt lưng thấp.

8.

Anh ít nói trong cái ngày hạnh phúc tột cùng ấy: nuốt những bông sữa chua trơn tuột, lắng nghe mọi thanh âm. Khi Pal Palych im lặng, có thể nghe rõ bụng y sôi: lục bục nhẹ, rồi hơi ọc ọc. Lúc đó y thành thục đằng hắng và vội vàng bắt đầu kể gì đó, ngắc ngứ, không tìm được những lời cần thiết, nhăn mặt, gõ những đệm đầu ngón lên bàn. Ngả người ra sau ghế thấp, em bình thản im lặng, quay nghiêng đầu và nhấc khuỷu tay nhọn, sửa lại cây trâm đằng sau, nhìn anh từ dưới hàng mi. Em nghĩ anh lúng túng trước Pal Palych, lúng túng vì mình đến cùng nhau, lúng túng vì có thể y đoán ra mối quan hệ giữa chúng ta. Còn anh thấy buồn cười vì em nghĩ như vậy, buồn cười vì thấy Pal Palych rầu rĩ và đờ đẫn đỏ mặt lên khi em cố tình kể về chồng, về công việc của anh ta.

9.

Trước trường, dưới tán thích, nắng rải đất son nóng rát. Từ ngưỡng cửa, Pal Palych tiễn chúng mình, cúi chào, cảm ơn vì đã ghé qua, cúi chào lần nữa. Ngay cửa, trên tường ngoài cái nhiệt kế ánh lên sắc trắng thủy tinh.

Sau khi ra khỏi làng và đi qua cầu, lúc chúng mình bắt đầu leo lên  lối mòn về hướng điền trang của em, anh nắm lấy bên dưới khuỷu tay em và em quay người nhìn anh với nụ cười mủm mỉm đặc biệt ấy, nhờ nó mà anh biết là em đang hạnh phúc. Anh bỗng dưng muốn kể em nghe về những nếp nhăn của Pal Palych, về thánh đường Isaac trong ánh lấp lánh, nhưng anh vừa mới bắt đầu thì đã cảm thấy những lời nói ra thật vô vị, không như ý, và khi em âu yếm bảo: “đồ hư hỏng!”, thì anh chuyển qua chuyện khác. Anh biết: em cần những cảm giác giản đơn, những lời nói giản đơn. Sự im lặng của em cũng thảnh thơi và yên gió như của mây trời cùng cây cỏ. Mọi sự im lặng đều giả định một bí mật. Em hình như bí ẩn rất nhiều.

--------------------------------------------------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link:  Bookademy

Bạn đam mê viết lách, yêu thích đọc sách và muốn lan tỏa văn hóa đọc tới cộng đồng của YBOX.VN? Đăng ký để trở thành CTV Bookademy tại link: http://bit.ly/bookademy_ctv

(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ "Tên tác giả - Bookademy." Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.


Xem thêm

Nabokov ở truyện ngắn là Nabokov đặc biệt, với những câu chuyện luôn gợi mở nhiều tầng nghĩa, được chắt lọc từ một hệ thống ngôn từ tuyệt đẹp, thấm đẫm chất thi vị, luyến ái. Tập truyện ngắn Thanh âm của Nabokov là tập thứ 3 sau Mỹ nhân Nga, và Mây, hồ, tháp được dịch ở Việt Nam. Thanh âm gồm 17 truyện ngắn được sáng tác trong khoảng thời gian từ 1923 đến 1953. Việc sắp xếp theo thứ tự sáng tác cũng khiến đọc giả có khả năng nhận thấy sự biến chuyển về phong cách sáng tác của Nabokov theo thời gian. Nabokov yêu trước hết là ngôn ngữ. Ông chơi trong thế giới của ngôn ngữ, để ngôn ngữ trở thành nhân vật chính trong những sáng tác của mình. Ông dùng ngôn ngữ tạo nên những kiệt tác, vừa sâu sắc bí ẩn, và đẫm chất thi vị như chính quan niệm của ông trong sáng tác: “Trong một tác phẩm nghệ thuật, luôn có sự hòa trộn giữa hai thứ, giữa tính chính xác của thơ ca và sự phấn khích của khoa học thuần túy". Truyện ngắn Thanh âm là một tuyệt tác đẹp quá đỗi về những rung động của tình yêu. Ngôn ngữ như suối nhạc, vọng lên một nỗi nhớ mơ hồ nhưng thăm thẳm. Những khung ảnh hiện ra, sực nức màu sắc, giữa những đoạn đối thoại rời rạc, những nghĩ ngợi đứt quãng, vừa cất tiếng vừa thinh lặng, của em và anh, đều gợi nghĩ về mối tình chông chênh. Nabokov có khả năng khai phá tâm tư bí ẩn của con người, trong tưởng tượng đầy sống động, và dùng ngôn ngữ để biện giải. Ở Thanh âm, ông viết: “Anh biết: Em cần những cảm giác giản đơn, nhưng lời nói giản đơn. Sự im lặng của em cũng thảnh thơi và yên gió như của mây trời cùng cây cỏ. Mọi sự im lặng đều giả định một bí mật. Em hình như bí ẩn rất nhiều”. Bí ẩn ấy cũng là niềm đam mê khai phá suốt đời sáng tác của Nabokov. Pilgram lại nhói lên những ám ảnh về sự si mê, và cái chết. Nabokov luôn hứng thú với việc tạo dựng những cõi mê đắm. Cõi mê đắm ấy khiến con người hưng phấn, đeo đuổi, và rồi tận cùng của cõi đắm ấy lại thường là cái chết. Cái chết là tận cùng, của bi kịch, hay thực ra nó chỉ là một bi kịch trong mắt những kẻ ngoài lề, chưa từng được trải qua những trạng huống của si mê, chưa từng có một cõi đắm chìm của riêng mình. Humbert đã chết trong cõi si mê của Lolita (Lolita); Albinus đã chết bởi tình yêu mùa quáng với một cô gái trẻ (Tiếng cười trong bóng tối), và Pilgram, ông đã chết trong cơn đắm chìm vào giấc mộng về loài bướm… Đây là những cái kết bi thương nhưng nó lại là sự hoàn hảo trong mỹ cảm văn chương Nabokov. Điều này được thể hiệu bằng rất nhiều những câu chuyện xung quanh cuộc đời ông, trong đó có một giai thoại khá thú vị: Mùa hè những năm 40, Nabokov tới sống với gia đình nhà thơ James Laughlin tại Utah, nơi ông dành nhiều thời gian để săn bướm. Một hôm, vào lúc chạng vạng, Nabokov trở về nhà và kể rằng trong lúc mải mê chạy theo con bướm ở Khe Gấu, ông nghe thấy có tiếng người rên rỉ đau đớn ở phía bờ suối. “Anh có dừng lại kiểm tra không?” Laughlin hỏi. “Không”, Nabokov đáp, “Tôi phải bắt con bướm kia đã”. Nabokov viết nhiều truyện ngắn, với nhiều những chủ đề khác nhau, nhưng nỗi hoài cảm về nước Nga vẫn là cái da diết lặp đi lặp lại trong tâm trí của ông. Ở truyện ngắn Vòng, tâm cảm ấy được bộc lộ sắc nét. Nước Nga gắn liền với tuổi thơ ngây, với trong xanh mây trời và những mối tình trong sáng. Trong truyện ngắn Vòng, Ilya Ilyich luôn mang trong mình “nỗi buồn nhớ điên dại về nước Nga”, cũng như “mọi thứ gắn liền với nó – những giận dữ, vụng dại, nồng nàn”. Ở mảnh đất ấy, mùa hè, Ilya Ilyich đã gặp gỡ và trải qua cảm xúc yêu đương ngắn ngủi với nàng Tanya xinh đẹp. Lần gần gũi duy nhất với nàng, là một cơn chấn động theo hắn suốt đời. Cho đến ngày hội ngộ, hai mươi năm sau, Nabokov miêu tả buổi gặp gỡ sượng sùng, ơ hờ ấy bằng một thứ ngôn ngữ cuốn hút, tinh tế, đã biểu cảm được đủ đầy cái nhói đau của nhân vật. “Tanya hóa ra vẫn quyến rũ như thế”, suốt khoảng thời gian rộng dài, đầy những thăng trầm bi ai, Tanya dường như đã tan biến, nhưng dường như cũng ở lại mãi trong tận cùng tâm tư của hắn, khi gặp lại, vén bức rèm che lên, hình ảnh ngày xưa vẫn vẹn nguyên, khiến hắn run rẩy, bất an. Tanya ấy là cô gái của ngày xưa, là giấc mộng của ngày xưa, hay chính nàng là hiện hữu của nước Nga đã biến mất. Nabokov gói ghém ở đó tất thảy những xúc cảm bằng ngôn ngữ mong manh vừa đẹp đẽ, vừa thấm đẫm u buồn. Nói về sự mong manh của ký ức, hay sự hoang tưởng của ký ức, truyện ngắn Là ở Aleppo, ngày đó… đã khai thác rất sâu chủ đề này. Tên tác phẩm Là ở Aleppo, ngày đó… , được trích từ vở bi kịch Othello nổi tiếng của văn hào Shakespeare, tạo nên một liên văn bản đầy suy nghiệm. Đây là truyện ngắn được xem là cực kì khó đọc của Nabokov, là truyện ngắn quyến rũ sự dẫn giải, nghiên cứu của nhiều nhà phê bình trên thế giới. Câu truyện có cốt truyện khá đơn giản, kể về hành trình của một cặp vợ chồng, sau đó anh chồng lạc vợ trên một chuyến tàu. Và hai ngày sau, anh gặp lại cô ở điểm đến hai vợ chồng đã hẹn. Chuyện gì đã xảy ra trong khoảng thời gian ấy. Qua lời kể của của người vợ, những sự kiện mơ hồ hiện ra, những địa điểm, con người, hay những cuộc gặp gỡ… đều bị xáo trộn. Rốt cuộc, không ai có thể biết, câu chuyện thực sự đã xảy ra như thế nào? Phụ nữ luôn là giống loài có trí tưởng tượng phong phú, hay chính tâm trí con người cũng là thứ dễ bị xóa nhòa, đổi thay. Đó cũng chính là cách Nabokov tạo nên sự hấp dẫn cho truyện ngắn của mình. Nabokov ở truyện ngắn là một Nabokov đẹp đẽ, thuần khiết trong bể xúc cảm đa chiều của con người. Cũng giống như ở Mỹ nhân Nga, và Mây, hồ, tháp, 17 truyện ngắn ở Thanh âm cần đọc chậm, đọc đi đọc lại, để có thể chạm vào thế giới đầy bí ẩn và đẹp đẽ của văn chương Nabokov.

Trong Thanh Âm, mọi thử va đập với nhau, vỡ tung và hội tụ trong khoảnh khắc, lúc bạn là tất cả và tất cả bên trong bạn, tình yêu của bạn rộng lớn và bao la thì nó không còn chịu nằm lại bên trong một cá thể nào nữa. Nabokov đã thử thách người đọc và trao cho người đọc những món quà chỉ có thể cảm nhưng không cách nào chia sẻ như cái cách mà nhân vật trong "Thanh âm" bối rối, thiết tha nhưng không thể nào trưng ra cho người tình chông chênh của mình được. Rồi khoảnh khắc nào đó, mọi thứ đẹp nhất, trần trụi nhất, cũng là tuyệt vời nhất, đau lòng nhất, hạnh phúc nhất hòa trộn trong sự lặng im như tất cả mà cũng không là gì. "- Anh biết em đã quyết định gì không? Này nhé. Em không thế sống thiếu anh. Em sẽ nói với anh ấy như vậy. Anh ấy sẽ cho em li dị ngay. Và khi ấy chúng mình có thể, xem nào, vào mùa thu...Anh ngắt lời em bằng sự im lặng của mình. Vết nắng trượt từ váy em xuống cát: do em hơi dịch người đi.Anh có thể nói với em? Tự do? Ngục tù? Không đủ yêu em? Không phải thế.Một khoảnh khắc trôi qua; trong khoảnh khắc ấy, trên trần gian xảy ra nhiều chuyện: đâu đó có con tàu khổng lồ chìm xuống đáy, người ta tuyên chiến, một thiên tài được sinh ra. Khoảnh khắc ấy đã trôi qua."