Thật khó để định nghĩa được “nghệ thuật” bởi lẽ đây là là một khái niệm quá đỗi rộng lớn và đôi khi nghệ thuật là những điều diệu kỳ và như thể ma thuật chúng ta không thể nắm bắt được. Nghệ thuật đã gắn bó cùng con người từ thời kỳ đầu của nền văn minh nhân loại; dù trải qua vô vàn thay đổi khi các trường phái thịnh hành rồi lại suy yếu và bị thay thế bởi một ý tưởng khác, các tác phẩm nghệ thuật không bao giờ “chết" mà vẫn còn có giá trị lớn lao đối với con người ở bất kỳ thời điểm nào. 100 ý tưởng thay đổi nghệ thuật là một đầu sách để những ai yêu thích nghệ thuật có thể lội ngược dòng thời gian trở về những thời kỳ hoàng kim của các trường phái và tư tưởng nghệ thuật - để thấy được khả năng của con người trong việc tạo ra những đỉnh cao nghệ thuật của nhân loại. 

Chiếc hộp ảo thuật 

Ý tưởng 44 - Buồng tối 

Buồng tối là thiết bị cho phép hình ảnh được chiếu lên mặt phẳng trong buồng kín không có ánh sáng ảnh và sau đó hình ảnh này có thể được đổi lại đồ lại đạt. Đạt đến thời hoàng kim vào thế kỷ XVII và vẫn còn còn được các nghệ sĩ ngày nay sử dụng, buồng tối đã dẫn tới sự phát triển của ngành nhiếp ảnh vào thế kỷ 19. 

Nguyên tắc của buồng tối (camera obscura - tiếng Latinh được ghi nhận lại bởi Aristotle, người đã quan sát hình ảnh của mặt trời khi chiếu qua đồ đan lát ở dạng đơn giản nhất gồm tối gồm một chiếc hộp mà ánh sáng được phản chiếu thu từ các vật thể bên ngoài có thể đi vào trong qua một lỗ nhỏ trên hộp, tạo thành một hình ảnh bị đảo ngược trên bề mặt đối diện với lỗ đó. Trong những phiên bản thức tạp hơn sau này của buồng tối, thấu kính lồi và gương phẳng được sử dụng để hình chiếu có thể được lật lại đúng chiều và chiếu lên một tờ giấy để có thể đồ lại.

Một buồng tối cơ bản đã được các nhà thiên văn học thời Trung Cổ tử dụng để quan sát nhật thực. Trong vai trò như một công cụ kết nối thực tại bên ngoài với việc thể hiện nó một cách thuyết phục vào nghệ thuật, vai trò của buồng tối đã được công nhận vào thế kỷ 16, khi những vấn đề như vậy là mối quan tâm cấp thiết đối với các họa sĩ. Leonardo da Vinci đã phát hiện ra rằng đôi mắt hoạt động theo cách thức giống như một buồng tối, thu nhận các hình ảnh đảo ngược trên võng mạc. Vào năm 1558, chuyên luận của thầy thuốc xứ Naples là Giambattista della Porta  đã đưa ra lời khuyên thiết thực cho các nghệ sĩ trong việc sử dụng buồng tối để tạo nên những bức vẽ, và vào đầu thế kỷ 17, buồng tối đã được sử dụng rộng rãi cho mục đích này. 

Với độ sâu trường ảnh thấp (độ sâu trường ảnh là khoảng cách giữa các đối tượng gần nhất và xa nhất có thể được thể hiện một cách rõ nét), buồng tối không thích hợp cho việc theo đuổi phong cách tranh ảo giác dựa vào phối cảnh của thời kỳ Phục hưng - với một nhóm đối tượng được sắp xếp trong một không gian tranh sâu về phía sau. Tuy nhiên, buồng tối lại là một thiết bị hoàn hảo để thể hiện những cảnh tĩnh vật liệu ở tiêu cự gần và những cảnh trong nhà đã trở nên phổ biến ở Bắc Âu vào thế kỷ 17. Những bức tranh tĩnh vật sống động một cách kỳ lạ của họa sĩ người Hà Lan Johannes Torrentius, gần như chắc chắn đã được vẽ với sự trợ giúp của buồng tối, được vua Charles I hết sức ngưỡng mộ đến mức vị hoàng đế nước Anh đã gây áp lực để chính phủ Hà Lan thả người họa sĩ bị kết tội dùng yêu thật phù thủy này ra khỏi tù . Johannes Vermeer cũng bị cuốn hút bởi khả năng của buồng tối trong việc bóp méo những hình dạng mà khi mới nhìn thoáng qua ra chúng dường như được mô phỏng lại rất chân thực. Trong phối cảnh bị bẻ cong và quầng sáng mờ ảo của tác phẩm Viên sĩ quan và cô gái đang cười (đối diện), ta có thể cảm nhận được người nghệ sĩ ở đằng sau ống kính của buồng tối, đang ghi lại sự khác biệt giữa hình chiếu và thực tế.

Tuy nhiên sau đó đó, sự phấn khích này của các nghệ sĩ đối với “thực tế dưới góc nhìn khác” khi sử dụng buồng tối đã không còn hăng hái như trước. Canaletto có thể đã sử dụng buồng tối để tạo nên những bức phác thảo, nhưng không dùng nó cho những bức tranh cảnh vật Venice hoàn chỉnh của ông, trong đó ông đã thay đổi những đặc điểm địa hình thực tế để làm tăng sự ảo giác và khiến cho bức tranh có vẻ rõ nét giống thật. Trong thực tế, buồng tối không còn là chiếc hộp ma thuật để nắm bắt thế giới mà chỉ là những thiết bị dùng để sao chép cùng dấu hiệu ứng đã quen thuộc với mọi người.  Tuy nhiên và đầu thế kỷ 19, đây không còn là thiết bị thông thường, khi loại hình nghệ thuật mới đã ra đời, đó là nhiếp ảnh - có nghĩa đen là viết bằng ánh sáng”. Vào năm 1827, bằng cách đặt một tấm phủ nhất chạy sáng bitumen của vùng Judaea bên trong một buồng tối, nhà khoa học người Pháp Nicéphore Niépce đã chụp được cảnh vật nhìn từ cửa sổ phòng ông. Hình ảnh mang hình dạng như những mái nhà và tường nhà có nhiều hạt li ti này được xem là bức ảnh chụp đầu tiên được biết đến. 


Những ấn tượng thoáng qua

Ý tưởng 59: Nắm bắt khoảnh khắc

Vào năm 1874, nhà phê bình Earnest Chesneau đã ca ngợi một bức tranh của Claude Monet bởi cảm giác chưa từng có mà nó đã mang lại về về “sự chuyển động thoáng qua, chỉ trong khoảnh khắc và không thể nắm bắt được”. Ý tưởng cho rằng những tính chất này cần phải trở thành một chủ đề cơ bản của hội hoạ là một sự phát triển mới mẻ, và ý tưởng này đã nhanh chóng được đặt tên là trường phái Ấn tượng - dựa vào tiêu đề một tác phẩm khác của Monet. 

Những người họa sĩ được cho là làm việc dựa vào các khuôn mẫu có sẵn - có nghĩa là vẽ lại những thứ thực sự tồn tại trước mắt họ - trên thực tế đều có nhận thức rõ ràng về sự phù du. Ngay cả một cảnh tĩnh vật cũng thay đổi liên tục khi bị ảnh khi ánh sáng bị dịch chuyển trong ngày. Các họa sĩ biết (trong khi người xem đôi khi không muốn) rằng những khoảnh khắc ngắn ngủi được nắm bắt trong một bức tranh, chẳng hạn như hình ảnh bong bóng xà phòng mà một cậu con trai đang thổi sắp sửa bay đi trong tranh của Chardin đã được vẽ trong rất nhiều giờ đồng hồ

Khoảng trước năm 1800 quan niệm cho rằng nghệ thuật, với sự quan sát và khéo léo nhẫn nại, cần phải bắt kịp những gì xảy ra trong thời điểm hiện tại có vẻ như là một điều vô lý. Tuy nhiên, trường phái Lãng mạn luôn đòi hỏi phải có sự tiến triển và biến đổi; những rung cảm ban đầu thường có thể thú vị hơn, những bức tranh kí họa nhanh ở ngoài trời có vẻ chân thực hơn khi so sánh với những bức tranh được vẽ chỉn chu, cẩn thận trong các họa xưởng.

Nửa thế kỷ sau, khi sự sùng bái của phong cách Lãng mạn đối với xúc cảm cá nhân đã được thay thế bởi một tinh thần mang tính hiện thực hơn, Chesneau quan sát và đưa ra nhận xét như đã được đề cập ở trên với tác phẩm Boulevard des Capucines của Monet, là một hình ảnh cho thấy một đường phố hiện đại được quan sát từ một cửa sổ ở trên cao - có thể là trong phòng tranh của ông ở Paris, nơi Triển lãm Ấn tượng đầu tiên được tổ chức. Ở đây, Monet không cố thể hiện một cách chi tiết về khung cảnh thành phố, theo cách mà ông đã từng mô tả một cách về khinh miệt về cách vẽ của các họa sĩ người Anh thời Victoria là “vẽ tỉ mỉ đến từng viên gạch một" . Thay vào đó, hình dáng những hàng cây trên đại lộ được vẽ sơ lược trông có vẻ như đang “đung đưa trong ánh sáng và bụi mờ”.  Dựa vào bức tranh về cảnh cảng biển trong tác phẩm Ấn tượng mặt trời mọc (1872), nhà phê bình Jules - Antoine Castagnary đã gọi phong cách hội hoạ mới này là “trường phái Ấn tượng”. Mục đích của trường phái hội họa này không phải để khắc hoạ lại những chi tiết tỉ mỉ chính xác của phong cảnh mà để đợi nên sức cả mà để gợi nên “xúc cảm mà cảnh vật mang lại”. 

--------------------------------------------------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy

Bạn đam mê viết lách, yêu thích đọc sách và muốn lan tỏa văn hóa đọc tới cộng đồng của YBOX.VN? Đăng ký để trở thành CTV Bookademy tại link: http://bit.ly/bookademy_ctv 

(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ “Tên tác giả – Bookademy”. Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.

Xem thêm

Nếu bạn cảm thấy hoài nghi về ý tưởng đọc một cuốn sách gồm 100 ý tưởng đã thay đổi nghệ thuật, hãy loại bỏ mọi nghi ngờ còn sót lại mà bạn có thể có. Đây không phải là mánh lới quảng cáo và nó không làm mọi thứ trở nên phức tạp. Trên thực tế, Michael Bird đã đạt được điều mà một trình tự thời gian nghệ thuật buồn tẻ có lẽ không thể đơn giản hơn, đó là giáo dục người đọc về các phong trào nghệ thuật, thuật ngữ nghệ thuật và các nhân vật nổi tiếng ở định dạng hấp dẫn và dễ tiếp thu. Là một người đã tham gia một số khóa học Lịch sử Nghệ thuật ở trường đại học, đây là cuốn sách vỡ lòng Lịch sử Nghệ thuật 101 xuất sắc. Bird đã có thể khiến một ý tưởng về Toán học trở nên thú vị và bạn không muốn phải đắn đo về Tỷ lệ, Sự hài hòa hay Vô cực... Những ý tưởng này được hiện thực hóa qua những bài luận tuyệt vời của Bird. Mỗi bài luận thảo luận về sự phát triển và mức độ phổ biến của một ý tưởng cụ thể, rút ra một số trích dẫn có liên quan đáng nhớ từ các nhân vật nghệ thuật quan trọng và tóm tắt tất cả bằng cách thảo luận về cách có thể nhìn nhận ý tưởng đó - hoặc không - trong thực tiễn nghệ thuật ngày nay. Các ý tưởng tuân theo trình tự thời gian và tập trung vào sự phát triển của nghệ thuật phương Tây, mặc dù những ý tưởng tồn tại ở phương Đông cũng được đề cập. Điều tuyệt vời là phần lớn các ý tưởng không được đặt tên theo phong trào hay thuật ngữ nghệ thuật. Một số trong số đó là những từ như "Độ trắng" hoặc "Gương" trong khi những từ khác là cụm từ "Nắm bắt tức thì". Tôi thích định dạng này vì Bird đã tạo ra những kết nối có ý nghĩa hơn nhiều với những phong trào lớn này - ngay cả khi Bird đang nói về việc đúc sáp, hàn hoặc ánh sáng nhân tạo - tất cả đều là những điều tốt đẹp. Tôi đặc biệt thích những bài tiểu luận ngắn của Bird về các phong trào nghệ thuật như Nghệ thuật trừu tượng, Nghệ thuật đại chúng và Nghệ thuật ý niệm. Thật dễ dàng để làm theo với những lập luận bắt nguồn từ những chiếc đinh đồng: Pop: Roy Lichtenstein's Blam (1962) đã đảo ngược những mối bận tâm của nửa thế kỷ trước về nghệ thuật tiên phong của phương Tây, trong đó sự trừu tượng đã được nâng cao hết lần này đến lần khác như một phương tiện cho những chân lý phổ quát. Nếu đây là lý do căn bản đằng sau nhạc pop, thì tại sao hầu hết mọi người bên ngoài một số ít nghệ sĩ và trí thức lại thấy nghệ thuật trừu tượng là không thể hiểu được? Hơn nữa, nếu nghệ thuật nhằm phản ánh hiện thực, chẳng phải nó nên phản ánh những lý tưởng đương đại về truyện tranh, ô tô, thần tượng trên màn ảnh… Nghệ thuật ý niệm: Theo truyền thống lãng mạn, nghệ thuật mang tính tự nghiệm - nó dẫn bạn tới một khám phá hơn là bắt đầu bằng một ý tưởng . Như Mark Rothko và Adolph Gottlied đã viết vào năm 1943, “Nghệ thuật là một cuộc phiêu lưu vào một thế giới chưa được biết tới”. Tuy nhiên, việc mô tả nghệ thuật như một “cuộc phiêu lưu” chứ không phải là một sản phẩm văn hóa đắt tiền có vẻ không thành thật. Nó trung thực hơn, chắc chắn là để phân biệt giữa đối tượng hàng hóa và ý nghĩa gắn liền với nó. Sự khác biệt này là cơ sở cho sự tập trung khái niệm trái ngược với đối tượng đặc trưng của nhiều nghệ thuật kể từ những năm 1960. Điều duy nhất mà 100 Ý Tưởng Thay Đổi Nghệ Thuật còn thiếu, ngoài bìa đẹp hơn, là tác phẩm nghệ thuật thực tế. NHIỀU hình ảnh hơn sẽ rất tuyệt, đặc biệt vì Bird thường tham khảo những tác phẩm nghệ thuật không có hình. Đọc tuyệt vời mà bạn có thể tìm thấy ở thư viện địa phương.

Tôi đoán, điều khó chịu nhất mà tôi nhận thấy ở cuốn sách này là việc liên tục nhắc đến những ví dụ không được minh họa. Dường như chúng tôi có khoảng ba hình ảnh trên mỗi trang nhưng văn bản thường đề cập đến khoảng năm tác phẩm khác không được minh họa. Một số trong đó tôi biết nhưng nhiều trong số đó chỉ là tài liệu tham khảo để tôi tra cứu. (Và tất nhiên là tôi đã không làm vậy). Tôi không chắc chắn rằng "các hình thức điêu khắc phù điêu Aztec được cuộn dày đặc, lồng vào nhau, thực vật và cơ thể phản ánh các hiệu ứng hình ảnh gây ảo giác được mô tả bởi những người sử dụng mescaline" (trang 181)...như Bird tuyên bố hoặc rằng chúng chỉ là những bức vẽ khá cách điệu mà phát triển thành những khuôn mẫu đó. Và một tỷ lệ khá lớn các hình thức phù điêu thực chất là chữ viết và biểu tượng tượng hình. Nhưng đó là điều đáng tranh cãi, tôi đoán vậy. Nói chung, tôi thấy những mô tả và suy luận của anh ấy có căn cứ và hợp lý. Nó có làm tôi suy nghĩ không? Có lẽ một vài lần như trong "Nghệ thuật không tái tạo cái có thể nhìn thấy...đúng hơn là nó làm cho cái nhìn thấy được...Paul Klee 1920. (trang 169). Ngoài ra, tôi cũng chưa nghĩ đến việc phát triển ảnh ghép của Picasso và Braque để kết hợp các vật thể thực tế . Tôi cũng chưa từng nghĩ về "khung" như một ý tưởng mang tính biến đổi ...nhưng tôi đoán là như vậy. Vì vậy, vâng. Nó khiến tôi phải suy nghĩ. Nhìn chung, một cuốn sách khá hay mặc dù được gói gọn thành 100 ý tưởng (không hơn không kém) ....và mỗi trang 2 trang...bao gồm cả hình ảnh minh họa. Tôi cho nó 4 sao.

Tôi đoán, lẽ ra bây giờ, lẽ ra tôi đã học được bài học về những cuốn sách hứa hẹn sẽ đề cập đến toàn bộ nghệ thuật, văn học, hoặc lịch sử trong 100 bài luận ngắn, ngắn gọn, 2 trang. Khi tôi ngồi đây, tôi có thể nhìn thấy trước mặt mình "1001 ý tưởng đã thay đổi cách chúng ta suy nghĩ" và "1001 cuốn sách bạn phải đọc trước khi chết"...và phía bên trái là "bí mật của vũ trụ trong 100 các biểu tượng". Tất cả đều là những con số tròn trịa....thật tuyệt khi kiến thức được dán nhãn và đóng gói rõ ràng. Thực ra tôi hơi khắt khe một chút. Đây thực sự là một cuốn sách khá hay và nó thực sự tập trung vào các ý tưởng hơn là các công cụ....mặc dù các công cụ cũng bị cuốn vào 100 ý tưởng...ví dụ. Hàn và các vật liệu mới như nhựa. Tôi thực sự không có quá nhiều tranh cãi với việc Michael Bird lựa chọn 100 ý tưởng.....mặc dù bất kỳ lựa chọn nào như vậy sẽ mang tính cá nhân hóa cao và ai đó khác có thể đã nhấn mạnh điều gì đó khác. Ví dụ: nấu ăn có phải là một hình thức nghệ thuật không? Thế còn việc "mạ" đồ ăn hiện đang trở thành một hoạt động mang tính cạnh tranh trong các cuộc thi truyền hình thực tế thì sao? Và tôi luôn thắc mắc về những câu nói như "Đó là một nghệ thuật hơn là một khoa học". Tôi đã nghe điều này nói về một điều gì đó mang tính khoa học như nhân giống cây trồng, trong đó các nghệ sĩ-nhà lai tạo cây trồng chân chính thực hiện việc lựa chọn của họ dựa trên bản năng ruột thịt hơn là dựa trên các thông số đo lường. (Mặc dù có thể điều này đang thay đổi vì ngay cả việc nhân giống cây trồng cũng trở nên khoa học hơn với việc lập bản đồ gen, v.v.).

Cuốn sách được tổ chức thành các phần dễ hiểu, mỗi phần dành cho một ý tưởng duy nhất. Từ 'Chủ nghĩa Biểu hiện' và 'Chủ nghĩa Tối giản' đến 'Ảnh ghép' và 'Nghệ thuật Trình diễn', Bird thể hiện một loạt các khái niệm nghệ thuật đa dạng đã vượt qua các ranh giới và thách thức các chuẩn mực truyền thống. Bài viết của anh ấy rõ ràng và hấp dẫn, giúp những khái niệm nghệ thuật phức tạp có thể tiếp cận được với cả những người đam mê nghệ thuật dày dạn và những người mới bắt đầu.


Điều làm nên sự khác biệt của cuốn sách này là tác động trực quan của nó. Mỗi ý tưởng đều đi kèm với hình ảnh chất lượng cao mang lại bối cảnh trực quan, cho phép người đọc kết nối lời giải thích bằng văn bản với tác phẩm nghệ thuật thực tế. Sự kết hợp giữa phân tích kích thích tư duy và hình ảnh tuyệt đẹp tạo ra trải nghiệm đọc năng động, thực sự khiến người đọc đắm chìm trong thế giới nghệ thuật.


Mặc dù ''100 ý tưởng đã thay đổi nghệ thuật'' không phải là một tài liệu lịch sử đầy đủ, nhưng nó đã thành công trong việc chắt lọc các lý thuyết và phong trào nghệ thuật phức tạp thành những thành phần thiết yếu của chúng. Cho dù bạn là sinh viên nghệ thuật, một chuyên gia sáng tạo hay đơn giản là người quan tâm đến sự phát triển của nghệ thuật, cuốn sách này sẽ cung cấp một nguồn tài nguyên quý giá để hiểu những ý tưởng then chốt đã xác định lại ranh giới của sự thể hiện nghệ thuật.