Bản chất con người vốn hay suy nghĩ. Chính khả năng suy nghĩ đó khiến chúng ta khác biệt với cách giống loài khác. Nhưng với cuộc sống hiện nay, đầy rẫy những khó khăn thử thách, những áp lực công việc, áp lực học tập luôn xuất hiện xung quanh chúng ta. Tâm trí ta vướng vào nó, tự suy diễn ra những ý nghĩ tiêu cực, những suy nghĩ tự hủy hoại bản thân. Quyển sách này sẽ là một công cụ hữu ích giúp bản thân ta vượt qua những suy nghĩ độc hại đang bám lấy ta mỗi ngày, giúp ta nhận thức được nguồn gốc gây ra nỗi sợ hãi và cách tốt nhất để khắc phục chúng.   




  1. Bộ não bịp bợm


Cảm xúc và lý trí luôn song hành cùng nhau trong mỗi chúng ta. Chính bản thân chúng ta đều luôn nghĩ bản thân đưa ra quyết định hay hành động theo lý trí nhưng thực tế lại không hề dễ như vậy. Chúng ta dễ dàng hành động theo cảm xúc hơn là lý trí đó cũng là lý do tại sao mà chúng ta cần phải học cách quản lý cảm xúc của mình. Lấy một ví dụ đơn giản, khi tôi được cả nhóm bình chọn trở thành người thuyết của nhóm thì ngay tức khắc những suy nghĩ việc mình làm thuyết trình bị sai sót liên tục xuất hiện trong đầu tôi và tôi dần sợ hãi việc mình sắp sửa phải nhận và rồi ngay lập tức tôi từ chối, tìm kiếm lý do để không phải thuyết trình. Có thể nói chính cái cảm xúc tiêu cực và đầy sợ hãi của tôi đã khiến tôi từ chối việc thuyết trình ấy, lúc đó tôi cũng chẳng có lấy một suy nghĩ tích cực nào, tâm lý tôi lúc đó thì chỉ đơn giản là không muốn làm. Đây chính là một hành động theo cảm xúc, nếu lúc đó tôi suy nghĩ theo lý trí, tìm cách để tự tin khi thuyết trình, học cách để nói lưu loát khi thuyết trình thì mọi chuyện đã khác rồi. Cuộc sống của chính chúng ta luôn bị cảm xúc chi phối và rồi dẫn đến những hành động mà sau này khi nhìn lại có thể bản thân sẽ thấy hối hận vì mình đã làm như vậy. Đây cũng là một trong những lý do mà bản thân ta dính vào sự trì hoãn và lười biếng.


Như đã đề cập ở trên vì việc bản thân chúng ta hành động theo cảm xúc nhiều hơn là lý trí. Chúng ta thường dễ dàng đưa ra một quyết định một cách nhanh chóng mà thiếu đi sự suy nghĩ, ta càng dễ dàng đưa ra quyết định nhanh hơn nếu như đó là một người thân thiết với ta hoặc crush. Có thể nói là cảm xúc lúc nào cũng nhanh hơn lý trí cả, và để bỏ thói quen đó thì chẳng dễ dàng một tí nào. Cảm xúc của chúng ta cũng giống như những phản ứng hóa học vậy chỉ cần một chút chất xúc tác thôi thì cũng đã đủ để tạo ra chất mới, hành động một cách thiết quyết đoán. 


Dù việc hành động theo cảm xúc là điều không xấu và ta nên cần hạn chế nó nhưng thực sự mà nói cảm xúc vẫn rất quan trọng trong mỗi chúng ta. Nó được các nhà tâm lý học gọi là trí tuệ cảm xúc. Trí tuệ cảm xúc của chúng ta rất giỏi trong việc liên kết. Chẳng hạn khi còn là một đứa trẻ, lúc ta tự ngã và bị thương, cơn đau sẽ kết hợp với độ cao khắc sâu và trong trí nhớ của chúng ta. Ở lần tiếp theo khi đến chỗ mình đã từng bị ngã thì ta sẽ cảm thấy khó chịu và nhớ lại lúc mình bị ngã. Phản ứng đó xuất hiện là do ký ức giúp ta tránh xa nguy hiểm và bảo vệ ta. Ở vấn đề như thế này, trí tuệ cảm xúc giống như một anh hùng bảo vệ chúng ta. Trí tuệ cảm xúc sẽ góp phần giúp ta trong nhiều mối quan hệ nếu ta biết cách sử dụng chúng, cảm xúc là con đường giúp ta dễ dàng thấu hiểu nhau hơn, thông cảm cho nhau hơn. Trong cuộc sống của chúng ta, vẫn luôn tồn tại những lúc mà ta cần phải dùng trí tuệ cảm xúc thì mới giải quyết được nó. Trí nhớ cảm xúc cũng có thể ghi nhớ những trải nghiệm tâm lý, ví dụ như nếu ta đã từng bị lừa dối trong quá khứ thì sau này ta sẽ không dễ dàng tin tưởng người khác như lúc trước nữa. 

 


2. Bất ổn tâm lý và rối loạn tâm thần 


Cụm từ “bất ổn tâm lý” có lẽ không còn quá xa lạ gì đối với chúng ta, với thế hệ ngày nay cụm từ này dường như rất phổ biến và được sử dụng khá nhiều trong ngôn ngữ hằng ngày, nó mang ý nghĩa tiêu cực. Trong tâm lý học thì được miêu tả là tình trạng một người trải ra nhiều  sự lo âu, hoạt động chức năng kém và có khuynh hướng trầm cảm xoay quanh mối liên hệ giữa bản thân họ với thực tại. Bất ổn tâm lý khác với rối loạn tâm thần - bệnh nhân hoàn toàn tách biệt với cuộc sống thực tại. Người bất ổn tâm lý thì hiếm khi gây ra nguy hiểm cho xã hội. Có hai dạng bất ổn tâm lý, một là do đặc điểm tính cách và hai là do biến đổi tính cách không phù hợp với môi trường. Có thể thấy bất ổn tâm lý là một trong các đặc trưng tính cách đại diện cho sự nhạy cảm trước hệ thống các tác động tiêu cực. Mỗi đặc trưng tính cách có hai thái cực:

  •  Sẵn sàng trải nghiệm: sáng tạo/hiếu kỳ hoặc kiên định/thận trọng

  •  Tận tâm: hiệu quả/có tổ chức hoặc dễ dãi/ bất cẩn 

  • Hướng ngoại: thoải mái/năng động hoặc khép kín/bảo thủ 

  • Dễ chịu: thân thiện/biết cảm thông hoặc cứng nhắc/tách biệt 

  • Bất ổn tâm lý: nhạy cảm/lo lắng hoặc vững chãi/tự tin 

Những người không thể xác định rõ ràng khuynh hướng của mình thiên về cặp tính cách nào trong mỗi loại trên được xem là dễ thích nghi và thấu hiểu. Tuy nhiên, họ cũng có thể bị đánh giá là tính toán chi li, không đáng tin cậy hay chỉ được vẻ bề ngoài.


Cách hiệu quả nhất để giảm bớt các biểu hiện bất ổn tâm lý này là nhận thức được, về nguồn gốc của chúng và chấp nhận sự thay đổi trong những suy nghĩ về chúng. Henriques đã cảnh báo về tầm quan trọng của việc thấu hiểu sâu sắc khi đề cập đến vấn đề bất ổn tâm lý trong thích nghi tính cách. Nếu không thật sự thấu hiểu, sẽ không có cách giải quyết đúng đắn. Ông nhận định rằng, những kiểu mẫu bất ổn tâm lý có thể xuất hiện trong năm phạm trù của sự thích ứng gồm:

  • Thói quen 

  • Mối quan hệ 

  • Cảm xúc

  • Sự phòng vệ 

  • Niềm tin

Người ta thực hiện những hành vi bất thường để làm giảm nỗi lo lắng. Nhưng như chúng ta đã thấy, kiểu cư xử này chỉ làm họ thêm căng thẳng. Khi đề cập đến chiến lược đối phó, tình trạng bất ổn cảm xúc có hai dạng: kiềm chế quá mức và không kiểm soát được. Dạng thứ nhất là cảm xúc bị đè nén áp chế trong khi dạng thứ hai lại bộc lộ quá mạnh mẽ. 


Phần lớn chúng ta dù ít hay nhiều đều nhiễm phải một vài kiểu bất ổn tâm lý. Nhưng đừng quá lo lắng và sợ hãi nó, đừng cho rằng thần kinh của bản thân có vấn đề. Mà hãy nghĩ về những điều làm bản thân ta cảm thấy lo lắng hoặc cảm thấy không an toàn và chấp nhận rằng mọi thứ bản thân làm không hề vớ vẩn hay bất bình thường. Nếu bí quá thì bản thân  ta cũng có thể chia sẻ với ai đó mà bản thân tin tưởng nhất, nếu bản thân ta cần đến lời khuyên thì tốt hơn ta nên đi đến các chuyên gia tâm lý để có được cái nhìn tốt nhất.


3. Khả biến thần kinh


Khả biến thần kinh (Neuroplasticity) là khả năng thích ứng của bộ não sau những trải nghiệm và biến cố. Đây là những thay đổi sinh lý trong não xảy ra khi ta tương tác với môi trường xung quanh. Lý do mà tác giả đề cập đến khả biến thần kinh vì điều này đóng vai quan trọng trong việc học tập và cải thiện trí nhớ của chúng ta. Để có thể phát huy hết được khả năng tiềm ẩn của bộ não thì Merznick đã trình bày 10 bước cơ bản mà một người nên làm theo để sắp xếp và thiết lập lại bộ não của mình: 

  1. Bộ não trì trệ

Bộ não thay đổi phụ thuộc vào tâm trạng của bản thân chúng ta. Hay đúng hơn, nó thay đổi tùy vào tâm trạng của não. Hoặc là cả hai. Nói cách khác, khi ta đang ở trong trạng thái tinh thần tập trung và có động lực, bộ não sẽ giải phóng các chất hóa học thần kinh cần thiết để thay đổi, nhưng nếu ta bị phát tán hay mất tính thần, sự thay đổi khả biến thần kinh sẽ chuyển sang chế độ chờ.

  1. Nhiều hơn nữa

Càng nỗ lực thay đổi bao nhiêu thì bộ não cũng sẽ được cải thiện bấy nhiêu.Đó là lý do tại sao có nhiều người nói rằng khi không hứng thú học hoặc  tập trung thì tốt nhất là đừng lãng phí thời gian vào việc cố gắng học tập. Nhưng cũng có những người lại cho rằng hãy học cho dù bản thân không thể thích thú, và nếu kiên trì với nó thì đến một lúc nào đó trong quá trình học học tập ta sẽ thích nó. Cả hai lý thuyết đó đều có thể mang lại hiệu quả nên là hãy thử và xem xét cách nào phù hợp với bản thân nhất. 

  1. Cuộc đua về số lượng

Luyện tập càng nhiều thì sẽ có càng nhiều liên kết thần kinh được kết nối mạnh mẽ. Những liên kết mạnh mẽ này chính là tác nhân đột phá trong sự thay đổi của não bộ.

  1. Đồng bộ hóa

 Để tăng mức độ tin cậy cho hoạt động khả biến thân kinh, ta phải đồng bộ hóa sự hợp tác từ tế bào này sang tế bào khác. Merzenich đã đưa ra một ví dụ minh họa để mô tả sự đồng lòng chung sức của các tế bào. Hãy tưởng tượng một sân vận động có hàng ngàn người vỗ tay một cách tùy tiện. Hoàn toàn hỗn độn. Tiếp đến, hãy hình dung cùng với số lượng người đó nhưng vỗ tay cùng một lúc. Việc lặp lại một lộ trình vận dụng thực tế sẽ tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng ấy.

  1. Dòng liên kết

  Nhờ có sự luyện tập và lặp đi lặp lại, không chỉ những hành động có quan hệ với nhau được củng cố chặt chẽ hơn mà cả liên kết  giữa các nơron chịu trách nhiệm cho những hoạt động riêng rẽ, nối tiếp cũng được gia cố vững chắc. 

  1. Vượt qua giai đoạn thử nghiệm của não

Bộ não của chúng ta chỉ thừa nhận sự biến đổi chứ không mặc nhiên chấp nhận chúng một cách nhanh chóng. Để bộ não chấp nhận một điều gì đó vĩnh viễn thì cần có ít nhất một kích thích như: hữu ích, mới mẻ, có động lực, an toàn để có thể thỏa mãn được bộ não.

  1. Tác động của trí nhớ

Bộ não sẽ có khả năng khả biến nếu tác nhân kích thích đến từ bên trong cũng nhiều như tác nhân bên ngoài. Nói cách khác, sự thể hiện cá nhân do trí nhớ gợi nhắc có tác động kích thích độ dẻo dai của việc học hiệu quả như bất kỳ thay đổi ngoại cảnh nào.

  1. Sức mạnh của bộ nhớ

Bất cứ điều gì ta học đều được lưu vào bộ nhớ. Trí nhớ chịu trách nhiệm giúp ta đưa ra những chủ đề hay mô hình học tập mới dựa vào những thành công hay thất bại trong việc học trước đây.

  1. Ở khía cạnh này này bạn là kẻ chiến thắng, ở khía cạnh khác bạn là kẻ thua cuộc

Khi ta tập trung thì bộ não sẽ cố gắng làm mọi cách để loại bỏ những hoạt động thần kinh quấy rầy hoặc không liên quan.

  1. Con dao hai lưỡi

Cái gì cũng có hai mặt của nó của, khả biến thần kinh cũng vậy. Nó có thể dễ dàng tạo ra những thay đổi tiêu cực nhanh chóng y như tạo ra điều tích cực vậy. Bộ não con người là một công cụ “không dùng thì mất”. Nếu không có sự rèn luyện về thể chất và nhận thức các tế bào bắt đầu teo đi và chết.


4. Thay đổi cách tư duy về mục tiêu

Muốn thành công thì ta cần phải có mục tiêu cụ thể rõ ràng. Nhưng mà có một điều mà ít ai nhận ra đó chính là mục tiêu chỉ là những thứ nhất thời còn thói quen mới là thứ ổn định lâu dài. Có lẽ chính bản thân chúng ta đã quá quen với việc đặt ra những mục tiêu ngắn hạn hay dài hạn mà quên mất đi là thói quan mới thực sự là cái cần nhất. Chúng ta mất 21 ngày để hình thành một thói quen mới có nhiều người thì mất tận 3 tháng chỉ để hình thành một thói quen mới nhưng ta chỉ mất một vài tiếng để tạo ra một mục tiêu. Nếu đã có mục tiêu rồi nhưng nếu ta không duy trì hoặc không thực hiện được thì cũng như không, chúng ta thương rất dễ sa vào cái bẫy cảm xúc và trì hoãn. Những ngày đầu thì ta vui vẻ làm hết mình vì mục tiêu nhưng rồi từ từ động lực ta dần mất đi và ta lại trì hoãn nó. Việc lập ra mục tiêu là một việc rất tốt nhưng bản thân ta lại quá dễ sa vào con quỷ trì hoãn và rồi mọi thứ đổ vỡ vì thế sao ta không thuer biến những mục tiêu ấy thành một thói quen, chia nhỏ mục tiêu ra và biến nó trở thành một thói quen mà ta phải thực hiện mỗi ngày. Nó sẽ rất là khó khăn ở những giai đoạn đầu nhưng một khi thói quen được hình thành thì đến khi bản thân ta có cso những mục tiêu khác đi chăng nữa thì ta cũng sẽ dễ dàng làm được bởi vì ta đã hình thành được một thói quen tốt từ mục tiêu trước rồi.


5. Thiền định


Thiền có thể giúp ta nhận thức những trạng thái tinh thần vô thức, chọn lọc thông tin quan trọng và có giá trị, đồng thời khiến cái tôi của bản thân ta phớt lờ phần còn lại. Thiền giúp cho cơ thể của ta khỏe mạnh hơn. Khi nhịp tim ổn định, ta sẽ ngủ ngon hơn, đồng thời huyết áp giảm xuống. Nó cũng giảm bớt lo âu và căng thẳng trong cuộc sống. Ngồi thiền xoa dịu thần kinh nếu ta biết thực hiện đúng cách. Phương pháp này còn giúp bản thân ta sáng suốt, minh mẫn, nhận thức bản thân tốt hơn, cải thiện trí nhớ ngắn hạn lẫn dài hạn. Thiền định là một thói quen tốt mang lại lợi ích cực kì nhanh chóng. Nó còn đem đến ích lợi khác cho cuộc sống của ta như kiên nhẫn và biết đồng cảm hơn với người khác. Chính bản thân ta sẽ cân bằng tốt hơn, không dễ nổi nóng và cảm xúc ổn định hơn. Thiền là một thẻ bài ma thuật trong kho vũ khí tinh thần có khả năng hỗ trợ tất cả mọi thứ. Nó giống như quân Joker trong bộ bài vậy


Điều này không có nghĩa là nếu học thiên thì mọi vấn đề của ta sẽ ngay lập tức được giải quyết. Bản thân chúng ta vẫn sẽ có những nỗi sợ hãi, những tổn thương trong quá khứ, các vấn đề tiền bạc mà bạn đặt tên cho chúng, tuy nhiên phản ứng và khả năng kiểm soát chúng sẽ được nâng cao. Tất cả những gì cần làm để thành thạo kỹ năng ngồi thiên quý giá là sự luyện tập ngắn đều đặn hàng ngày. Chỉ cần năm phút mỗi ngày và ta sẽ có một khởi đầu tốt. Nếu sợ không đủ kiên nhẫn, ta có thể  thử học nền tảng thiền cơ bản trong một nhóm thiền định. Một mặt, ta gặp được những người tốt bụng cùng chung tư tưởng. Mặt khác, bản thân ta sẽ có suy nghĩ “tôi làm tất cả để thực hiện được mục tiêu này” để giúp giữ cho tâm trí tập trung hơn.Thiền là một trong số những điều hiếm hoi thường xuyên được nhắc đến trong các sách truyền cảm hứng như một phương pháp thực sự hiệu quả nếu ta chịu luyện tập chuyên tâm và kiên trì. Ta sẽ không mất gì nếu thử tập thiền nhưng sẽ đạt được rất nhiều nếu theo đuổi phương pháp này.


Cảm nhận của bản thân

Đây là quyển sách giúp tôi thoát khỏi những suy nghĩ tiêu cực và giúp tôi bỏ được cái thói suy nghĩ nhiều của mình. Tôi rất thích cách mà tác giả truyền đạt mọi thứ nó đơn giản, dễ hiểu và sâu sắc. Quyển sách không quá tập trung vào các bước hay là đưa ra quá nhiều phương pháp mà nó chỉ đơn giản là những tình huống đời thường quen thuộc. Nhờ vậy mà bản thân ta dễ dàng hình dung và giúp bộ não của bản thân được giải phóng khỏi nỗi sợ hãi và tiêu cực. 







Tác giả : Lý Ngọc Xuân - Bookademy . 

Hình ảnh :Lý Ngọc Xuân .

-------------------------------------------------------------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy 

(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ "Tên tác giả - Bookademy." Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.

----------------------------


Xem thêm

Sự không chắc chắn là một phần của trải nghiệm trong mỗi chúng ta. Một số người thể hiện sự mạnh mẽ trong những thời điểm không chắc chắn; trong khi những người khác thậm chí trở nên tê liệt hoặc rối loạn cảm xúc, ám ảnh. Cách mọi người phản ứng với sự không chắc chắn có thể phụ thuộc vào mức độ sợ hãi của họ đối với điều chưa biết. Nếu một người sợ nhện hoặc rắn, điều đó có thể dựa trên những gì họ đã biết về hai loài này: Chúng có nọc độc và có thể giết chết họ theo đúng nghĩa đen. Nhưng không phải tất cả những lo sợ đều dựa trên những thông tin cụ thể như vậy. Có một số nỗi sợ hãi dựa trên những gì mà chúng ta hoàn toàn không biết.

Lấy ví dụ như Phố Wall. Giá cổ phiếu lao dốc khi các nhà đầu tư lo sợ rằng một sự kiện nào đó sẽ làm tổn hại đến nền kinh tế. Một ví dụ cá nhân hơn? Sợ nói trước đám đông. Một phần của nỗi kinh hoàng mà nhiều người cảm thấy trên sân khấu là không biết khán giả sẽ phản ứng như thế nào. Sợ hãi những điều chưa biết là một phần cơ bản của nhiều lo lắng, sợ hãi và ám ảnh khác. Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá các triệu chứng phổ biến, những ai có nguy cơ mắc bệnh và cách vượt qua nỗi sợ hãi này. Thuật ngữ tâm lý học để chỉ nỗi sợ hãi những điều chưa biết là "bài ngoại". Trong cách sử dụng hiện đại, từ này đã phát triển để có nghĩa là sợ người lạ hoặc người nước ngoài - nhưng nghĩa ban đầu của nó rộng hơn nhiều. Nó bao gồm bất kỳ thứ gì hoặc bất kỳ ai không quen thuộc hoặc không xác định. Các nhà nghiên cứu định nghĩa nỗi sợ hãi về những điều vô hình là xu hướng sợ hãi điều gì đó mà chúng ta không có bất kỳ thông tin nào về vấn đề đó. Đối với một số người, lo sợ về những điều chưa biết có thể khiến họ cảm thấy khó chịu, thậm chí suy sụp. Nếu một người cảm thấy vô cùng khó chịu và lo lắng khi gặp phải một tình huống không xác định hoặc không quen thuộc, họ có thể đã phát triển một trạng thái tâm trí được gọi là “không chịu đựng được sự không chắc chắn”. Điều này có nghĩa là những người đó cảm thấy không thể chịu đựng được những hoàn cảnh không chắc chắn.

Tăng cường tập thể dục thể thao để nâng cao sức khỏe và rèn luyện khả năng chịu đựng của cơ thể. Các nghiên cứu cho thấy, tập thể dục thường xuyên giúp tăng lòng dũng cảm và gan dạ, từ đó bản thân có thể dễ dàng chế ngự sự lo âu và sợ hãi quá mức.

Xây dựng chế độ dinh dưỡng phù hợp với nhiều rau xanh, trái cây, các loại đậu và hạt. Hạn chế dùng quá nhiều thức ăn chứa nhiều đường, chất béo bão hòa, đạm và các món ăn chứa nhiều gia vị.

Cân đối thời gian làm việc – nghỉ ngơi, đảm bảo ngủ đủ giấc và dành thời gian để chăm sóc bản thân. Tránh tình trạng học tập và làm việc với cường độ cao trong thời gian dài.

Trong thời gian rảnh rỗi, bạn nên học những kỹ năng cần thiết cho cuộc sống như cách từ chối khéo léo, cách dọn dẹp nhà cửa nhanh chóng – hợp lý, cách sắp xếp đồ đạc, quần áo, một số mẹo chế biến món ăn nhanh,… Những kỹ năng này giúp bạn quản lý tốt cuộc sống và hạn chế tối đa những tình huống căng thẳng. Khi đã làm chủ được cuộc sống – kể cả những khía cạnh nhỏ nhất, bạn sẽ gia tăng sự tự tin và giảm bớt nỗi sợ. Nếu có thời gian, nên khám phá những vùng đất mới để rèn luyện thể chất và gia tăng sự dũng cảm, gan dạ. Thông qua các chuyến đi, bạn sẽ có thêm những kỹ năng cần thiết để quản lý cuộc sống và dễ dàng ổn định tâm trạng của bản thân.

Thiếu khả năng dự đoán: Cảm thấy rằng mình không có đủ thông tin để đưa ra dự đoán chính xác có thể khiến sự lo lắng của chúng ta tăng lên. Một cách để chống lại việc thiếu khả năng dự đoán là tìm kiếm thêm thông tin. Ví dụ: nếu bạn đang cảm thấy sợ hãi về những điều chưa biết liên quan đến trường học hoặc khu vực sinh sống mới, bạn có thể cân nhắc khám phá các khu vực đó trước khi chuyển nhà. Bạn có thể thực hiện các chuyến tham quan trực tiếp hoặc trực tuyến để tìm hiểu thêm về cuộc sống mới của mình sẽ như thế nào.

Thiếu kiểm soát: Cảm thấy rằng mình không thể kiểm soát hoàn cảnh của mình chắc chắn sẽ khiến mức độ lo lắng của chúng ta tăng lên. Tuổi tác và khuyết tật đều có thể làm giảm ý thức tự chủ của mỗi người (niềm tin rằng chúng ta có thể tự lo cho cuộc sống của mình). Để lấy lại cảm giác tự chủ, chúng ta có thể bắt đầu bằng cách phân tích hoàn cảnh của mình và liệt kê những điều mình có thể và không thể kiểm soát. Bạn cũng có thể giảm sự không chắc chắn bằng cách lập một kế hoạch bao gồm các bước mình có thể thực hiện trong các lĩnh vực trong tầm kiểm soát.