“Triết học phải được nghiên cứu, không phải
vì lợi ích của câu trả lời xác định nào dành cho các câu hỏi của nó, bởi theo
nguyên tắc không có câu trả lời xác định nào có thể được coi là đúng, mà phải
vì lợi ích của chính các câu hỏi; bởi những câu hỏi này mở rộng quan niệm của
chúng ta về những điều có thể, làm phong phú thêm trí tưởng tượng của chúng ta,
làm suy giảm sự chắc chắn mang tính giáo điều vốn khép kín tâm trí trước khả
năng suy đoán; nhưng trên hết là bởi thông qua sự vĩ đại của vũ trụ mà triết học
chiêm nghiệm, tâm trí cũng trở nên lớn lao và trở nên có khả năng kết hợp với
vũ trụ để tạo ra những đóng góp tốt đẹp nhất của nó.”
(Các Vấn Đề Của Triết Học – Bertrand Russell)
Các Vấn Đề Của Triết Học là một trong những cuốn sách quan trọng nhất của Russell, đã truyền cảm hứng cho rất nhiều thế hệ các nhà tư tưởng và triết gia của mọi thời đại. Trong tác phẩm lần này, Russell trình bày một số vấn đề cơ bản, cung cấp những khái niệm làm nền tảng cho nhiều vấn đề được quan tâm nhất của triết học đương đại.
Một trong những nội dung trọng tâm của cuốn sách liên quan đến nhận thức luận (niềm tin triết học về tri thức). Một câu hỏi phổ biến được đặt ra ở đây đó là liệu có điều gì có thật hay không; hay nói cách khác, chúng ta có thể tin bất cứ điều gì mà chúng ta trải nghiệm là đang thực sự xảy ra hay không. Nhiều người có thể hoài nghi về vấn đề này, nhưng đối với Russell, các phân tích của ông giúp cho vấn đề trở nên rõ ràng hơn. Với triết gia, đó không còn là một tình huống giả định nữa mà nó được mở rộng hơn theo hướng đi tìm lời giải thích chân thực về thế giới mà chúng ta đã hoặc đang trải nghiệm.
Đầu tiên, Russell trình bày cách phân loại kiến thức của con người. Ông chia thành kiến thức đến từ kinh nghiệm trực tiếp của chúng ta và kiến thức qua mô tả, nghĩa là những kiến thức mà chúng ta không trực tiếp trải nghiệm. Đó là sự phân biệt những loại kiến thức về “sự vật” này với kiến thức logic hay trực quan hơn về “sự thật”. Trong quá trình khám phá “sự thật”, Russell chỉ ra rằng nguyên tắc quy nạp khiến cho những phát hiện của khoa học bị nghi ngờ theo một cách đơn giản nhưng hiệu quả không thể phủ nhận. Sau đó, ông lại đặt ra câu hỏi về chân lý toán học và làm thế nào mà toán học thuần túy có thể tồn tại. Thông qua nan đề này, Russell dẫn dắt người đọc đến sự thật về khả năng kết hợp giữa triết học và toán học. Theo đó, nền tảng toán học của Russell có nghĩa là quan điểm của ông về chân lý toán học là có cơ sở vững chắc và có thể được nhìn nhận dưới góc nhìn của triết học.
Với Các Vấn Đề Của Triết Học, Russell đã thành công trong việc trình bày những ý tưởng của mình một cách rõ ràng, ngắn gọn và logic, nhưng đồng thời vẫn tạo được sức hấp dẫn và lôi cuốn người đọc trong hành trình khám phá sự thật của chân lý. Đặc biệt, tác giả cũng làm nổi bật một chủ đề chưa được thảo luận sâu trước đó, chính là sự chồng chéo của triết học với toán học và khoa học. “Vấn đề phát sinh từ thực tế đó là kiến thức thì tổng quát, trong khi tất cả kinh nghiệm lại cá biệt. Có vẻ kỳ lạ là dường như chúng ta có thể biết trước một số sự thật về những điều cụ thể mà chúng ta chưa có kinh nghiệm; nhưng không thể dễ dàng nghi ngờ rằng logic và số học sẽ áp dụng cho những thứ như vậy.” Russell chỉ ra rằng bằng cách gán logic và số học cho người quan sát, vấn đề làm thế nào toán học có thể tồn tại không được giải đáp. Điều này có nguyên nhân từ bản chất con người có thể thay đổi, trong khi logic và toán học dường như không thay đổi. Nếu bản chất của chúng ta là nguồn gốc của toán học, và bản chất của chúng ta thay đổi, thì ngày mai có thể “2+2=5”. Vậy thì, nếu ngày mai chúng ta có thể bác bỏ một định đề hay định lý nào đó, liệu chúng ta có phải chứng minh lại toàn bộ “sự thật” hiển nhiên mà chúng ta đã biết trước đó? Và đó cũng là một vấn đề trọng tâm mà Russell muốn chúng ta bàn luận sâu thêm trong các nghiên cứu tiếp theo.
Chương tiếp của cuốn sách là những thảo luận ngắn về giới hạn và mục đích của triết học. Ở đây, triết gia đã gợi ý cho chúng ta rằng các vấn đề và sự không chắc chắn chính là mục đích nghiên cứu của triết học. Nó cho phép chúng ta phê bình và tranh luận, cũng như cung cấp cái nhìn thấu đáo về thế giới mà chúng ta đang sống. Nghĩa là chúng ta cần phải hiểu rằng, khoa học không chỉ giới hạn trong sự tồn tại vật chất. Sau khi đã thiết lập, ít nhất ở một mức độ chắc chắn nào đó, rằng vật chất tồn tại, chúng ta có thể biết gì về bản chất của nó?
Khi tìm kiếm sự chắc chắn, chúng ta lại phát hiện ra sự mơ hồ và nhẫm lẫn trong nhiều ý tưởng thông thường. Một lĩnh vực dường như mang lại cho chúng ta sự chắc chắn chính là kinh nghiệm tức thời. Ở đây, Russell mô tả điều này như những cảm giác mà chúng ta có được khi trải nghiệm một điều gì đó. Ví dụ, đó là trải nghiệm khi triết gia ngồi trong phòng làm việc của mình với một chiếc bàn trước mặt. Những trải nghiệm thực tế này cho phép ông mô tả được hình dáng bên ngoài của chiếc bàn nơi ông ngồi, chẳng hạn nó có màu trắng do ánh sáng phản chiếu. Khi ông di chuyển thì đồng thời màu trắng biểu kiến của nó cũng di chuyển. Điều này đưa đến cho Russell một kết luận rằng con người phải học cách nhìn và khắc họa mọi thứ khi chúng xuất hiện và triết học cũng vậy. Nói cách khác, đối với Russell, mục đích của triết học chính là hướng dẫn chúng ta kiểm tra chặt chẽ những gì chúng ta trải nghiệm. Ông kết thúc chương này bằng cách chỉ ra rằng triết học đưa chúng ta từ chỗ bình thường đến điều tuyệt vời một cách nhanh chóng. Sự tìm hiểu của chúng ta về tính chắc chắn được cung cấp bởi kinh nghiệm trực tiếp có thể khiến chúng ta nhận định về vật chất không giống như thực tế của nó.
Russell đã phân chia kiến thức làm hai loại, như chúng ta đã biết trước đó, đó là kiến thức về sự thật và kiến thức về sự vật. Tri thức về sự vật được chia thành tri thức do quen biết và tri thức do mô tả. Kiến thức do quen biết là loại kiến thức đơn giản nhất. Nó không liên quan đến bất kỳ sự thật nào và được tiếp cận bằng kinh nghiệm trực tiếp. Russell đã khẳng định rằng “Tất cả kiến thức của chúng ta, cả kiến thức về sự vật và kiến thức về sự thật, đều dựa trên sự quen biết làm nền tảng.” Vì vậy, ông cho rằng, bất cứ điều gì được gọi là “tương tự” đều là một mô tả mơ hồ và ông tập trung hơn vào những mô tả xác định. Một mô tả xác định là một tập hợp các thuộc tính chỉ định một đối tượng cụ thể. Trên thực tế, trong quá trình phân tích các mệnh đề được tạo thành từ các mô tả, mỗi mệnh đề có thể hiểu được phải bao gồm toàn bộ các thành phần mà chúng ta đã quen thuộc. Nếu không có trường hợp đó, chúng ta không thể đưa ra bất kỳ đánh giá nào một cách chắc chắn. Kiến thức bằng cách mô tả cho phép chúng ta vượt qua lĩnh vực kinh nghiệm cá nhân và có được kiến thức về những điều chúng ta chưa từng trải qua.
Từ những khái niệm về sự mô tả, Russell dẫn dắt người đọc đến những gì chúng ta có thể suy luận. Cơ sở nào để chúng ta tin một điều gì đó là sự thật? Liệu nó có phụ thuộc vào những gì xảy ra trong quá khứ? Câu trả lời là chúng ta không thể biết điều gì là "sự thật" và chỉ có cảm tưởng về “sự chắc chắn”. Bởi vì một loại sự kiện A xảy ra cùng với một loại sự kiện B và chúng không bao giờ xảy ra riêng rẽ, nên trong lần xuất hiện tiếp theo sẽ làm tăng khả năng các sự kiện này có liên quan đến nhau. Xác xuất này tiệm cận với sự “chắc chắn” và mở ra vô tận không có giới hạn các khả năng.
Có thể thấy, Các Vấn Đề Của Triết Học đã diễn giải những câu hỏi của triết học theo cách dễ tiếp cận đối với tất cả mọi người. Cuốn sách khuyến khích chúng ta dành thời gian để suy nghĩ về những vấn đề cơ bản của cuộc sống. Tác phẩm cũng rất phù hợp với mọi người trong thế giới ngày nay khi mà tác giả đã đưa ra những câu hỏi, đồng thời giúp độc giả đi sâu vào hoạt động bên trong tâm trí và đưa đến những nỗ lực khách quan nhằm tìm ra câu trả lời cho những khía cạnh của cuộc sống.
Bertrand Arthur William Russell (1872 – 1970) là một triết gia, nhà logic học, nhà tiểu luận và nhà phê bình xã hội người Anh nổi tiếng với công trình nghiên cứu logic toán học và triết học phân tích. Russell đã được tặng thưởng Order of Merit vào năm 1949 và giải Nobel Văn học vào năm 1950. Những đóng góp có ảnh hưởng nhất của ông bao gồm việc ủng hộ chủ nghĩa logic và thuyết nhất nguyên trung tính. Các tác phẩm tiêu biểu như Những Nguyên Lý Của Toán Học (1903), Các Vấn Đề Của Triết Học (1912), Nghiên cứu Nghĩa và Chân Lý (1940), Nhận Thức Của Con Người: Lĩnh Vực Và Giới Hạn Của Nó (1948)…
Review chi tiết bởi:
Quỳnh Ly – Bookademy
Hình ảnh: Quỳnh Ly
--------------------------------------------------
Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin
thú vị về sách tại link: Bookademy
(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ "Tên tác giả - Bookademy." Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.
Bertrand Russell (1872 – 1970) viết tác phẩm nhập môn triết học lừng danh này năm 1911, từ đó, trong cũng như ngoài các trường Đại học, nhiều thế hệ sinh viên triết đã đọc quyển “Các vấn đề của Triết học” này. Quyển này thuộc về một trong những giai đoạn sáng tác triết học sung mãn nhất của Russell.
Mặc dù quyển sách này viết để giới thiệu cho giới bạn đọc phổ thông – Russell gọi nó là “tác phẩm gây sửng sốt đáng vài xu” – nhưng nó trưng ra nhiều lập trường xác định và giới thiệu nhiều ý tưởng hoàn toàn mới, chẳng hạn về chân lý. Nó làm được như thế một cách sinh động, không giáo điều, không rối rắm, cùng một tính rõ ràng sáng tỏ. Chắc chắn cuốn sách này xứng đáng được hoan nghênh liên tục.
Ngoài tính lợi ích trong việc chỉ ra được những triển vọng không ngờ tới, triết học còn có một giá trị − có lẽ là giá trị chính của nó − nhờ độ lớn lao của những đối tượng mà nó chiêm nghiệm, và sự tự do thoát khỏi những mục tiêu cá nhân và hạn hẹp nhờ sự chiêm nghiệm này. Cuộc đời của con người bản năng bị nhốt trong vòng những mối quan tâm riêng tư, có thể bao gồm gia đình và bạn bè, nhưng ngoại giới không được suy xét tới trừ phi nó thúc đẩy hay cản trở những gì đến trong vòng tròn ước muốn bản năng. Trong một cuộc đời như thế có cái gì đó bồn chồn và hạn hẹp mà so với nó cuộc đời triết lý thì bình lặng và tự do. Thế giới riêng tư của những quan tâm bản năng là một thế giới nhỏ nhoi, bị nhấn vào một thế giới uy lực và lớn lao mà sớm hay muộn cũng làm thế giới riêng tư của chúng ta hoang tàn. Nếu không mở rộng được những mối quan tâm của chúng ta ra cả thế giới bên ngoài, chúng ta vẫn cứ là một tên lính trong pháo đài bị vây, biết rằng kẻ thù chặn đường thoát và chẳng chóng thì chầy cũng phải đầu hàng. Trong một cuộc đời như thế chẳng có bình an mà chỉ có xung đột liên tục giữa dục vọng không ngừng và ý chí bất lực. Theo cách này hay cách khác, nếu muốn cuộc đời chúng ta to lớn và tự do, chúng ta phải thoát khỏi ngục tù và xung đột này.