Thủy Hử
Xem thêm

Bên cạnh những điểm chính thống, trong quan niệm về người anh hùng được Thi Nại Am thể hiện trong “Thủy hử truyện” còn có những điểm phi chính thống. Những điểm này được thể hiện ở màu sắc dân gian trong hành động của những người anh hùng; thể hiện ở tính chất bản năng nhiều khi đến tàn bạo của họ. Tính phi chính thống trong quan niệm anh hùng của Thi Nại Am đã gây ra nhiều thái độ, nhiều tranh cãi xoay quanh vấn đề hình tượng người hảo hán Lương Sơn, về “giá trị tình thần của Thủy hử”. Tuy nhiên, không phải ngẫu nhiên mà một người trí thức Nho học như Thi Nại Am lại thể hiện những điểm phi chính thống, những điểm khác với tư tưởng Nho gia trong tác phẩm của mình. Có lẽ, quan niệm đó ảnh hưởng và hình thành từ chính những năm tháng “Thủy hử truyện” phát triển trong dân gian, từ chính hiện thực xã hội phong kiến rối ren, tăm tối mà Thi Nại Am sống.

108 vị anh hùng trước khi lên Lương Sơn tụ nghĩa mỗi người đều có một hoàn cảnh, một cuộc sống khác nhau: có người làm quan, có người làm nghề dạy học, có người là đạo sĩ lang bạt, có người lại là ngư dân sống cuộc sống gắn liền với sông nước. Nhưng ở họ đều có chung một tinh thần nghĩa hiệp giang hồ. Bởi vì là giang hồ nên họ sống thoải mái, phóng khoáng và cởi mở với nhau; đối đãi với nhau như huynh đệ ruột thịt bằng sự thật tâm, thật dạ, bằng tấm lòng nghĩa hiệp trong sáng, không vụ lợi.

Họ nhận nhau ở tiếng thơm, ở đức tính trọng nghĩa kinh tài của nhau. Không như trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Lưu Bị quy tụ được anh hào xung quanh ngoài tấm lòng “tuyệt nhân” còn bởi cái danh ông là con cháu nhà Hán; trong “Thủy hử truyện”, 107 vị hảo hán khác sẵn sàng quy thuận Tống Giang chỉ bởi lòng yêu mến, ái mộ đối với một người vẫn được mang danh là “Cập thời vũ”. Đến những bậc hảo hãn lẫy lừng như Võ Tòng cũng khâm phục ông mà dành cho ông những lời khen ngợi chân thành nhất.

Vì mang màu sắc dân dã giang hồ nên biểu hiện của chữ nghĩa trong “Thủy hử” cũng có hơi hướng giang hồ như vậy. Trước hết là chữ nghĩa mà những người hảo hán dành cho nhau. Người đọc không thấy được cảnh kết bái vườn đào đẹp một cách lãng mạn như trong “Tam Quốc diễn nghĩa” mà ta chỉ thấy hình ảnh những người anh hùng hảo hán vì mến tài nhau, vì cùng chung chí hướng mà cắt máu ăn thề, hòa chung giọt máu vào bát rượu kết bái huynh đệ.

Đạo Khổng vốn rất đề cao đẳng cấp, thứ bậc trong xã hội. Nho giáo duy trì trật tự xã hội bằng chữ nhân và bằng việc việc phân chia rạch ròi thứ bậc cùng với đó là lễ tiết giữa những giai tầng trong xã hội với nhau. Tuy nhiên, 108 người anh hùng mỗi người một xuất thân nhưng khi họ đã tụ nghĩa với nhau, cùng cắt máu ăn thề trước Trung Nghĩa Đường, thì tất cả đều là anh em một nhà, không còn phân biệt xuất thân, không phân biệt hoàn cảnh. Cái tấm lòng dân dã, cái nghĩa khí giang hồ mà những người anh hùng dành cho nhau là ở chỗ đó. Nó xóa nhòa đi ranh giới đẳng cấp trong xã hội, đưa những người anh hùng tiến lại gần nhau hơn.

Đến hành động nghĩa khí của những hảo hán Lương Sơn cũng mang đậm màu sắc hiệp nghĩa dân gian. Người nghĩa sĩ giang hồ vì huynh đệ quên thân, người nghĩa sĩ giang hồ thấy bất bình dẹp loạn. Họ có những hành động “cướp của người giàu chia cho người nghèo” đúng như phong cách của người anh hùng dân gian “thế thiên hành đạo”. Nhờ vậy, tư tưởng trung nghĩa trong “Thủy hử truyện” không còn là tư tưởng một chiều, tuyệt đối hóa như trong “Tam Quốc diễn nghĩa” mà đã hòa quyện với tư tưởng dân gian để làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm và làm cho hình ảnh người anh hùng trở nên gần gũi, có hồn hơn.

Mà chính vì màu sắc dân gian trong quan niệm về người anh hùng của Thi Nại Am đã dấn đến việc quan niệm đó còn khác biệt với quan điểm chính thống ở sự bản năng; hành động của những người anh hùng hảo hán nhiều khi mang tính cực đoan, thậm chí là có phần phi nhân tính. Đúng như Lỗ Tấn đã nhận xét rằng họ trả thù quan lại, địa chủ, cường hào nhưng cũng thường xuyên quấy nhiễu nhân dân. Bởi bản chất của nghĩa quân Lương Sơn vốn dĩ là lạc thảo, là cướp bóc.

Trong truyện, không ít lần ta bắt gặp cảnh lữ khách vào nghỉ ngơi tại khách điếm do những người hảo hán mở ra bị đánh thuốc mê, bị cướp bóc, bị giết hại xẻ thịt làm đồ ăn, đồ nhắm. Từ hàng rượu cạnh đầm nước Lương Sơn do Chu Quý làm đầu lĩnh đến hàng rượu của Cố đại tẩu cũng chuyên giết người lấy của, lấy thịt. Không biết đã có bao nhiêu bậc hảo hán suýt mất mạng, những người lữ hành hiền lành tử tế bị chết oan trong những khách điếm, quán rượu này. Cá biệt, trong nghĩa quân Lương Sơn có một vị tướng mà giết người với anh ta dường như là một bản năng, một thú vui, đó chính là Lý Quỳ.

Trong số những con người bị hảo hán Lương Sơn giết hại, biết bao con người đã chết oan, đã bỏ mạng một cách không đáng có. Anh hùng hảo hán Lương Sơn dùng sức mạnh trấn áp cường quyền, bảo vệ kẻ yếu nhưng quả thực cũng không ít lần, họ dùng cái dũng của mình  để lạm sát kẻ yếu chỉ bởi những con người đó sống tại nơi của kẻ thù họ.

Anh hùng hảo hán Lương Sơn nhân nghĩa, trọng nghĩa khinh tài nhưng lòng nhân nghĩa đó chỉ dành cho kẻ yếu, cho những người hảo hán với nhau. Còn với kẻ thù của họ, họ sẵn sàng lạm sát, đào tận gốc, trốc tận rễ gia đình kẻ thù. Không chỉ vậy, vì muốn kêu gọi hảo hán đến tụ nghĩa, không ít lần những con người đứng đầu thủy bạc Lương Sơn đã sử dụng mưu mẹo hại họ, khiến họ không còn đường lui mà Mã quân hổ tướng Tích lịch hỏa Tần Minh là một trong những ví dụ điển hình.

Nhưng thiết nghĩ, xét trong hoàn cảnh xã hội của câu chuyện, bối cảnh lịch sử đầy biến động vào cuối thời Nguyên, đầu thời Minh mà Thi Nại Am sống, quan niệm anh hùng phi chính thống, “không chú trọng cái nghĩa của chuẩn tắc đạo đức” của những hảo hán Lương Sơn lại mang tính chất phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đồng thời có ý nghĩa riêng. Những hành động đó của người hảo hán vừa là hành động tự bảo vệ mình trước hiện thực xã hội rối ren đầy biến động, vừa là sự phản kháng của họ trước thực tế lại vừa là ước mơ, hi vọng của những con người thấp cổ bé họng. Hay đó cũng chính là khát vọng của tác giả, một con người vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho gia, cũng vừa khát cầu các điểm phi chính thống về những con người như “Cập thời vũ” – cơn mưa kịp thời, tưới mát những cán đồng khô cằn, tưới mát tâm hồn những con người dưới đáy sâu xã hội.

Trong Suốt Hơn 600 Năm Qua, Thủy Hử Không Chỉ Là Một Tác Phẩm Văn Học Nổi Tiếng Của Trung Quốc Mà Còn Là Một Biểu Tượng Của Những Giá Trị Nhân Sinh Quan Sâu Sắc. Tác Phẩm Không Chỉ Gây Ấn Tượng Bởi Cốt Truyện Hấp Dẫn, Nhân Vật Sống Động, Mà Còn Bởi Những Thông Điệp Đầy Ý Nghĩa Về Công Lý, Đạo Nghĩa Và Vòng Luân Hồi Của Quyền Lực.

1. Một Tác Phẩm Phản Ánh Xã Hội Đầy Chân Thực

Dù Là Một Câu Chuyện Hư Cấu, Nhưng Thủy Hử Phản Ánh Một Giai Đoạn Đầy Biến Động Của Xã Hội Trung Quốc Dưới Triều Bắc Tống. Đây Là Thời Kỳ Mà Quan Lại Tha Hóa, Triều Đình Yếu Kém, Khiến Người Dân Lâm Vào Cảnh Cùng Đường. Trong Hoàn Cảnh Đó, Những Người Như Lâm Xung, Võ Tòng, Tống Giang Bị Ép Phải Chạy Trốn Và Cuối Cùng Tập Hợp Thành Lực Lượng Lương Sơn Bạc. Sự Nổi Dậy Của Những Anh Hùng Hảo Hán Không Chỉ Là Hành Động Chống Lại Áp Bức, Mà Còn Là Tiếng Nói Của Những Kẻ Bị Xã Hội Ruồng Bỏ.

2. Nhân Vật Được Xây Dựng Đầy Sâu Sắc

Không Giống Như Những Tiểu Thuyết Kiếm Hiệp Sau Này, Thủy Hử Không Chỉ Khắc Họa Những Nhân Vật Anh Hùng Một Chiều, Mà Còn Tạo Ra Những Con Người Thật Sự Có Đủ Hỉ, Nộ, Ái, Ố.