Trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 đã có không ít những nhà văn đi theo chủ nghĩa hiện thực. Thông qua trang văn, họ vẽ ra bức tranh có đặc điểm chung là gam màu tăm tối, nhân vật đa phần đều rơi vào cảnh màn trời chiếu đất hoặc cảnh túng thiếu tận cùng. Để rồi, họ phải xoay sở, chật vật để tìm ra hướng giải thoát cho kiếp sống nghèo khổ. Rất hiếm ai chọn con đường của Vũ Trọng Phụng, dùng giọng văn trào phúng phóng đại và tiếng cười sâu cay để vạch trần bản chất mục ruỗng của xã hội đương thời. Trong số những tác phẩm của ông, nổi tiếng nhất phải kể đến “Số Đỏ”.

Trước khi đi sâu hơn vào nội dung tác phẩm, người đọc cần chuẩn bị một tâm lý vững vàng trước lối hành văn nửa phóng túng kiêu kỳ, nửa bình dân gần gũi của Vũ Trọng Phụng. Có thể nói trong Số Đỏ, nhà văn đã dùng ngòi bút lia qua hết toàn bộ mặt cắt của xã hội bấy giờ, nhất là đời sống của tầng lớp tư sản và tiểu tư sản. Ông bắt đầu từ chuyện gối chăn kín đáo mà người thường chỉ dám thì thầm với nhau, đến những vấn đề lớn lao của thời đại mà người Việt Nam yêu nước thuở ấy luôn trăn trở như canh tân đất nước, tiếp cận văn minh, phong trào Âu hóa. Vũ Trọng Phụng lấy chất liệu sự thật rồi phóng đại nó lên, cài cắm thêm thắt ẩn ý vào từng chi tiết để tạo nên tiếng cười cho Số Đỏ - một tiếng cười không phải thoải mái, vui vẻ mà đầy chất cay độc, mỉa mai đến quặn thắt cõi lòng.



Hãy bắt đầu từ cách ông giới thiệu nhân vật với những bối cảnh nghe qua thật đáng thương, xót xa và đầy đứng đắn. Từng người một hiện lên, Xuân Tóc Đỏ, vợ chồng Văn Minh, bà Phó Đoan… ai nấy cũng đều có vẻ ngay thẳng, thật thà, hay ít nhất Vũ Trọng Phụng đã thành công “đánh lừa” người đọc. Chỉ khi ta đã lầm tưởng về những con người ấy, thông qua các trang văn bản chất bên trong bộc lộ ra mới đủ thấm thía trong ngỡ ngàng, sửng sốt.


Lúc mới 9 tuổi, nó đã phải đi ở nhờ nhà một người bác họ, họ thúc bá. Bác nó nuôi nó thay đầy tớ và được cả họ khen là nuôi cháu bồ côi. Nhưng một hôm nó bị đánh một trận và bị đuổi đi. Bác gái nó tắm, nó đã khoét một chỗ phên nứa để nhìn! Từ đấy, thằng Xuân lấy đầu hè xó cửa làm nhà, lấy sấu ở các phố, cá hồ Hoàn Kiếm làm cơm. Nó đã bán phá xa, bán nhật trình, làm chạy hiệu rạp hát, bán cao đan hoàn tán trên xe lửa, và vài ba nghề tiểu xảo khác nữa. Ánh nắng mặt trời làm cho tóc nó đỏ như tóc Tây. Cảnh ngộ đó tạo nó nên một đứa hoàn toàn vô giáo dục, tuy nó tinh quái lắm, thạo đời lắm. Nó mới xin được chân nhặt bóng trong sân quần độ trong vòng một năm nay thôi. Nhưng nó đánh quần chóng hay lắm nên được hội viên Pháp và Nam có lòng yêu, được trọng đãi một chút. Mộng tưởng của nó là sẽ có ngày được oai như Chim, Giao nếu hạnh phúc dắt đến cho nó một ông bầu. Bây giờ thì nó cam tâm yên phận là một thằng nhặt bóng. Tuy nhiên nó cũng mừng đã tìm được nghề ấy, cái nghề tuy hèn nhưng còn có thể hy vọng được chút danh thơm. Bán lạc, trèo sấu, câu cá, làm lính chạy cờ hiệu, những nghiệp ấy chỉ dắt đến một chỗ tắc tị. Phong trào thể thao, phong trào bình dân khiến nó lắm lúc tự kiêu tự đắc lạ lùng.



Từ độ được nhiều người gọi là Văn Minh, ông ta thấy cần phải chủ trương cuộc Âu hoá thì cái tên mới khỏi vô nghĩa. Một cái linh hồn khoẻ trong một xác thịt khoè! Phát minh được chân lý ấy rồi, đi đâu ông cũng hăng hái cổ động cho thể thao. Vợ ông trước nhất, rồi đến người khác. Ông không thể thao, thể dục cũng không, vì không có thì giờ! Cái chương trình Âu hoá của ông ta làm cho ông ta lúc nào cũng phải trầm tư mặc tưởng.

...

Còn lai lịch bà Phó Đoan, thì kể nghe cũng hay hay. Hồi đương xuân, bà bị một người lính Tây hiếp, lúc bà mới ở nhà quê ra tỉnh xem hội Đình Chiến. Sau cuộc hiếp tráp phép đến ngay cuộc hiếp đúng luật, nghĩa là cuộc làm phép cưới. Người lính ấy sau thành một ông Phó Đoan. Ăn ở với nhau độ 10 năm, ông Phó Đoan chết, chết trung thành với nhà nước, chết chung tình với vợ, chết như những người yêu vợ quá sức. Rồi bà lấy một ông phán trẻ được hai năm thì ông chồng nội hoá cũng lăn cổ ra chết. Vì lẽ chưa ai thấy bà có nhân tình, nên những ngọn lưỡi rắn độc phao rằng những ngọn lửa tình do những kẻ chim bà không được đã khêu lên, bà bắt ông phán phải rập tất cả. Bà chính chuyên đến nỗi chồng bà kiệt sức, cạn sức, phải trốn xuống suối vàng.


Số Đỏ được đặt vào trong một xã hội “văn minh!”, “Âu hóa”. Thế nhưng chính bản thân những người đi đầu trong cái sự nghiệp vĩ đại ấy lại mang theo tư tưởng cổ hủ, khắt khe hơn cả tầng lớp phong kiến cũ. Vũ Trọng Phụng tạo ra mâu thuẫn ấy khiến người ta không khỏi tự hỏi, rằng rốt cuộc những con người đó có thực đang muốn góp phần cải cách xã hội không hay chỉ chạy đua nửa vời, học đòi cái mới?

Xuân Tóc Đỏ nhìn qua cái áo giản dị, cổ áo không thuộc mốt lá sen cũng như không thuộc mốt bánh bẻ, cái quần trắng giản dị kín đáo, đôi giầy nhung đen không cầu kỳ mấy, thì chỉ thấy nó có vẻ đứng đắn thôi. Vì trong óc nó có sẵn thành kiến là cái gì nhố nhăng thì mới là tân thời, nó bèn đáp:

- Bẩm, trông bà chỉ có vẻ lương thiện, đứng đắn thôi chứ không tân thời mấy ạ.

- Có phải thế không, hở ông?

Xuân gật đầu lia lịa:

- Vâng ạ! Vâng ạ! Thế thì cổ lắm, chưa được Âu hoá mấy! Bà là vợ ông Típ Phờ Nờ mà ăn vận thế, e còn là hủ lậu đấy... Thế bà chưa biết rằng ông nhà đã chế ra nhiều kiểu rất tân tiến hay sao? Nào là Ngây thơ, Chinh phục, Lưỡng lự, Chờ một phút, Ỡm ờ, Ngừng tay, nhiều kiểu lịch sự lắm, bà ạ.

...

- Là vì tôi cũng như bác giai. Phụ nữ nghĩa là vợ con chị em người khác chứ không phải vợ con chị em của tôi. Gia đình tôi thì cứ phải theo cổ, không được có hạng đàn bà ăn mặc tân thời nay khiêu vũ, mai chợ phiên, rồi về nhà chửi lại mẹ chồng bằng những lý thuyết bình quyền với giải phóng!

Ông nhà báo nói một cách quả quyết như những nhà văn sĩ cấp tiến làm cho nhà mỹ thuật cũng hăng hái nói tiếp:

- Đối với tôi ấy à?... Đàn bà cứ nhốt trong buồng, mợ đã hiểu ra chưa?

Cái châm biếm lên cao nhất khi Vũ Trọng Phụng miêu tả một đám tang. Đi trái với lẽ thường của nỗi niềm đau buồn vì mất người thân, những nhân vật trong Số Đỏ lại hành xử như thể họ đang gặp phải sự hạnh phúc nào đó lớn lao lắm!


Ông Typn đã được mời ngay đến để nghĩ cách chế tạo một vài kiểu quần áo tang tối tân. Ông nhà báo đã được sự chủ khẩn khoản yêu cầu viết bài cáo phó, bài tường thuật, và sửa soạn chụp ảnh đăng báo.

Văn Minh vợ mơ màng một cách sung sướng rằng chỉ nay mai là sẽ được ăn vận toàn trắng, một điều mà bà vẫn ao ước bấy lâu nay. Văn Minh chồng ngồi hút thuốc lá Ăng-lê, cũng mơ màng đến phần tài sản mà ông ta sẽ được hưởng, nếu ông nội ông ta chết.

Đã hơn một năm nay, ông cụ già cay nghiệt đã đến tìm một ông chưởng lý văn khế để giao hẹn với pháp luật rằng mình có chết thì phần lợi tức của mấy chục nóc nhà mới được đem ra cho con cháu chia nhau... Ông cụ già không biết rằng nếu cái chết của mình lại có lợi cho con cháu đến như thế thì con cháu không khi nào lại muốn cụ cứ sống như thế mãi, dù là một ngày, dù là một giờ. Xưa kia, cụ đã trắng tay làm nên giàu, âu cũng là sinh ư nghệ, tử ư nghệ, hoặc là một cách chết vì nghĩa vụ.

Cậu Tân, mà ai cũng gọi là Tú Tân, không phải vì đã đỗ Tú Tài, nhưng mà vì đã ba lần thi trượt cái phần thứ nhất của bằng Tú Tài, lúc ấy loay hoay hai ba cái máy ảnh, cân nhắc xem hôm đi đám nên dùng đến cái nào thì hơn.

Bà Phó Đoan ngồi ẵm cậu con cầu tự của bà như một hiền mẫu.

Ông Joseph Thiết - một bạn thân của Văn Minh - thì ngồi trầm tư mặc tưởng với cái ý định mở một tờ báo bảo hoàng, không phải làm việc cho triều đình Huế, nhưng cho dòng họ Orléans bên Pháp, và cho ông Léon Daudet.

...

Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Ông phán mọc sừng đã được cụ Hồng nói nhỏ và tai rằng sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng. Chính ta cũng không ngờ rằng giá trị đôi sừng hưu vô tình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế. Ông cho rằng Xuân có tài quảng cáo lắm, nó một lời là có vài nghìn bạc, nên sau khi được lời hứa quý hoá của ông bố vợ, ông trù tính ngay với Xuân một công cuộc doanh thương... “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!” Ông Xuân chỉ nói có thế mà làm cho ông thêm được vài ba nghìn bạc thì khi ông Xuân nói đại khái: “Thưa ngài, thứ hàng này tốt nhất, buôn ở Tây phương” chắc phải có giá trị hơn nữa. Ông muốn gặp ngay Xuân để trả nốt năm đồng, trước khi buôn bán cũng phải giữ chữ tín làm đầu.

Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mấu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ:

- Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!” Cụ chắc cả mười rằng ai cũng phải ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế...

Ðiều băn khoăn của con cụ, ông Văn Minh, chỉ là mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi. Thế là từ nay mà đi cái chúc thư kia sẽ vào thời kỳ thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Ông chỉ phiền một nỗi không biết xử trí với Xuân Tóc Ðỏ ra sao cho phải... Xuân tuy phạm tội quyến rũ một em gái ông, tố cái cái tội trạng hoạng dâm của một em gái khác nữa của ông, nhưng tình cờ đã gây ra cái chết của ông cụ già đáng chết. Hai cái tội nhỏ, một cái ơn to... Làm thế nào? Ông phân vân, vò đầu rứt tóc, lúc nào cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối.

Vũ Trọng Phụng thỏa sức tô vẽ bức tranh hiện thực theo cách riêng của mình. Rằng không chỉ lời nói, hành động mà ngay cả trang phục cũng bộc lộ sự lố lăng phù phiếm, lệch hẳn đi so với thuần phong mỹ tục, những giá trị truyền thống tốt đẹp Việt Nam vốn có. Một bộ y phục mang tên Ngây thơ, song lại phô trương thân thể người mặc đến mức kệch cỡm, thậm chí có đôi phần gợi dục.

Hôm nay Tuyết mặc bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan mỏng, trong có coóc-sê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen, và đội một cái mũ mấn xinh xinh. Thấy rằng thiên hạ đồn mình hư hỏng nhiều quá, Tuyết bèn mặc bộ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất chữ trinh. Với cái tráp trầu cau và thuốc lá, Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám. Những ông bạn thân của cụ cố Hồng, ngực đầy những huy chương như: Bắc đẩu bội linh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn tượng bội tinh, v.v... trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn, những ông tai to mặt lớn thì sát ngay với linh cửu, khi trông thấy một làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn xuân nữ ai oán, não nùng.

Trong Số Đỏ gần như không tồn tại giá trị đạo đức nào cả, hoặc giả là có, thì hẳn nó sẽ là thứ người ta thi đua nhau vượt qua, bỏ mặc. Người ta nói về Xuân Tóc Đỏ, nói về cô Tuyết, cụ Hồng, vợ chồng Văn Minh, nhưng có lẽ dấu ấn sâu đậm nhất phải kể đến bà Phó Đoan, một người luôn cố gắng giữ gìn cái sự chính chuyên giả tạo để che đậy nhu cầu sinh lý, đến mức không chịu nổi nữa mà tòm tem với trai trẻ.

Bất đắc dĩ Xuân phải ngồi xuống ghế, khoan thai đọc cả hai cái bài mà người ta bảo là nói xấu nó. Nhưng cảm tưởng của nói lại chẳng giống của bà Phó Ðoan:

- Nghĩa là mình cũng phải có thế nào mới được người ta nói xấu chứ? Mợ chớ lo, ở đời này, càng những người danh giá càng hay bị báo nói xấu, và chỉ những kẻ không ai thèm biết đến tên tuổi là được ở yên thân trong xó tối mà thôi.

Nghe thấy lời lẽ có lý, bà Phó Ðoan cũng nguôi, thưởng cho Xuân Tóc Ðỏ mấy cái hôn mà rằng:

- Cậu nói chí lý lắm! Cậu ngoan lắm!

Ðã đến lúc nhọc mệt vì sự mơn trớn nạ dòng ấy, Xuân Tóc Ðỏ đẩy cái mặt bự phấn ấy ra nhăn nhó kêu lên:

- Gớm nữa!

Thái độ ấy làm cho vị quả phụ thủ tiết ấy tức khắc nổi trận lôi đình! Thật thế! Ai mà lại không phải tức, khi lòng tự ái bị thương! Bà Phó Ðoan làm một hồi trầm trập:

- À! Ðồ khốn nạn! Ðồ sở Khanh! Ðồ bạc tình lang! Làm hại cả một đời người rồi thì bây giờ giở mặt phỏng? Này, con này chẳng phải tay vừa đâu! Liệu thần xác!

...

Bác sĩ Trực Ngôn bèn đứng lên, đọc ở một tập giấy:

- Thưa quý thính giả, buổi tối hôm nay, tôi muốn đem chút ít sở học để nối đến “mùa thu ái tình”, nghĩa là những mối dục vọng, khao khát thiên nhiên của hạng người về già, mà người đời vẫn cho là không đáng có nữa. Xã hội ta xưa nay vẫn sống với những thành kiến hẹp hòi, ấy là vì khoa học chưa dẫn ánh sáng đến điều ấy. Thí dụ ta thấy một ông lão năm mươi tuổi còn mua hầu non, cưới vợ lẽ, ta chế giễu ngay là “già chơi trống bỏi” ta khó coi. (vỗ tay). Nếu là một người đàn bà mà dây dưa đến ái tình thì lại càng nhục nhã. Thôi thì thiên hạ chẳng còn ngại ngùng đem những lời độc ác mà chửi rủa, chê bai... Sự thực, công kích như thế là chính đáng không? Phải chăng về già, hay sắp về già, người đời hết giấy phép thoả mãn tình dục? Không! Không! Vì điều ấy thuộc quyền tạo vật, chứ không còn thuộc cái ý chí của bọn phàm trần chúng ta! (vỗ tay).

Trong một đời, người ta có hai thời kỳ khủng hoảng về tình dục, ấy là tuổi dậy thì và lúc sắp về già. Tạo hoá đã an bài ra thế, chứ loài người ít ai cưỡng được! cái tuổi dậy thì nó gây ra sự khủng hoảng tinh thần cho thiếu niên bao nhiêu thì cái mùa thu của ái tình cũng gây cho lũ “lão giả an chí” sự bối rối bấy nhiêu. Các ông già thì cưới vợ lẽ, (vỗ tay) rồi bị thiên hạ chê cười. Các bà già rồi thì cũng lặn lưng vào vòng hoa nguyệt (vỗ tay). Hôm nay, diễn giả không cốt phô bầy ra đây những cái xấu ấy, nhưng mà là cắt nghĩa tại sao có những cái xấu ấy...

Bàn về sự khủng hoảng tình dục của đám phụ nữ nạ dòng,(bà Phó Ðoan hắt hơi) Bác sĩ Vachet đã có những kinh nghiệm rất đúng thật. Tôi xin đơn cử ra đây vài đoạn để tỏ ra rằng những danh từ hoặc nông nổi hoặc vô nghĩa nhu phong hoá, suy đồi, ngứa nghề, lẳng lơ, già chơi trống bỏi, gái năm con chưa hết lòng chồng, vân vân... đều có thể đem cắt nghĩa bằng khoa học được lắm. Bác sĩ Vachet đã nói: Sự khủng hoảng tình dục ở người đàn bà, thường khi bày ra những triệu chứng bất ngờ, quái gở. Do cái ảnh hưởng của sự rối loạn vê kinh nguyệt, và tính khí, người đàn bà phải chịu một cuộc tai biến về sinh lý và tinh thần có ngụ cái ý khao khát tình dục rất rầy rà, lôi thôi. Có điều đáng buồn cho hạng phụ nữ bất kỳ động cỡn ấy, là sự ấy chỉ nảy ra vào lúc người chồng cũng già rồi, nghĩa là đã liệt dương, vậy thì còn biết làm thế nào? Muốn có một cậu nhân tình yêu mình cho tha thiết thì không còn được nữa, vì cái mã đã răn reo(vỗ tay). Vả lại không phải bỗng chốc người đàn bà nào cũng cả gan bỏ thái độ cũ, mặc kệ hết thảy, bất cần dư luận; đem vứt đi một đời danh tiết... Khốn thay, dục tình vẫn ám ảnh vẫn làm cho đỏ mặt và độp rộn lên cái trái tim...

Bởi thế cho nên, than ôi! Có rất nhiều bà tuy đã hết sức kiềm chế mình mà vẫn không biết rằng tính nết mình thay đổi nhiều lắm: hay giận dữ, nóng nảy, hay gắt, chán đời hay ghen ghét đức ông chồng về một chuyện từ ngày xửa ngày xưa, hay là bỗng trở nên thần bí về một lý tưởng tôn giáo, hoặc đồng cốt quàng xiên, mê tín...

Nếu người chồng còn tráng kiện, thì vợ như thế là béo bở cho mình lắm. Than ôi, nhiều khi đức ông lại không đủ sức lực nữa, vả lại ông còn bận rộn lắm công kia việc nọ để lo sự no ấm cho gia đình(vỗ tay). Nhiều khi người chồng đã chết mất rồi, cho nên phần nhiều các bà bị cái khủng hoảng kia là những đàn bà goá (vỗ tay). Khi người ấy không tái giá, hay không nghĩ đến sự bước đi nữa, đã đành là các bà phải có tình nhân (vỗ tay). Kể ra thì có nhiều sự đáng tức cười, song lo chỉ tại một nguyên cớ sinh lý, vì riêng cái thời kỳ khủng hoảng kia, than ôi, không mấy ai tránh khỏi, và may sao nó chỉ có hạn. Ta nên nhớ kỹ rằng đó là vì trong cơ quan sinh dục, những noãn sào thiếu máu, tử cung kết kinh, gây ra một cuộc hỗn loạn sinh lý vào cái lúc mà phụ nữ Việt Nam gọi là “hết trội” rồi về sau, qua một thời kỳ, những bộ phận khác sẽ tiết cho buồng trứng những thứ nước cần thiết, người đàn bà hết bị khủng hoảng, lại có cái linh hồn lành mạnh như xưa!...”

Mọi người lại vỗ tay kêu ran.

Riêng về bà Phó Ðoan, thì khi thấy ông đốc tờ đã ngồi xuống, bà mới được hoàn hồn. Không những sự cứu chữa mà Xuân đe doạ kia chẳng những không hại đến địa vị quả phụ của bà, mà dẫu rằng xưa kia đã có tai vách mạch rừng chi nữa thì cũng không sao, vì bà đã lẳng lơ theo đúng nghĩa lý sách vở của thánh hiền, nghĩa là bà được mừng thầm rằng mình đã trót hư hỏng một cách có tính chất khoa học.


Sở dĩ Số Đỏ có thể tạo ra tiếng vang lớn trên văn đàn bởi suy cho cùng, đằng sau tất cả mỉa mai châm biếm là một hiện thực phũ phàng về xã hội Việt Nam đầy biến động trong giai đoạn lịch sử ấy. Vũ Trọng Phụng viết ra những trang chẳng nể nang gì ai, giống như dùng một con dao bén thọc sâu vào lòng xã hội khoét hết mục ruỗng thừa thãi. Nhưng hiển nhiên, nhà văn làm thế không chỉ để người ta mải mê chỉ trích nhân vật, cười cợt nhân vật. Ẩn dưới hàng loạt câu chữ gai góc và chua chát là sự cổ động người trẻ thức tỉnh bản thân từ cõi mê, nhìn nhận thực tế mà tìm ra con đường bước tiếp. Thông điệp ấy cho tới ngày nay vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị của nó, rất cần thiết và đúng đắn.

--------------------------------------------------------------------------------------------

Tác giả: Quỳnh Giao - Bookademy

------------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn

Đăng ký để trở thành CTV Bookademy tại link:  http://bit.ly/bookademy_ctv


Xem thêm

“Số đỏ” không chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học châm biếm, mà còn là một “tư liệu xã hội học” phản ánh chân thực xã hội Việt Nam trong bối cảnh giao thời Đông – Tây. Sự du nhập của văn hóa mới tạo ra nhiều biến đổi, nhưng sự tiếp nhận lệch lạc khiến xã hội rơi vào trạng thái hỗn tạp.

Điểm đặc sắc nằm ở cách tác giả phân tích các hiện tượng xã hội thông qua tiếng cười. Các phong trào thể thao, giải phóng phụ nữ, vệ sinh hợp lý… vốn bắt nguồn từ tinh thần hiện đại nhưng được áp dụng một cách hời hợt, bị biến dạng thành phương tiện để khoe mẽ hoặc trục lợi. Từ đó, tác phẩm nêu bật khoảng cách giữa “văn minh thật” và “văn minh giả”.

Những thay đổi xã hội nhanh chóng khiến con người dễ mất phương hướng. Tầng lớp tư sản thị dân không có nền tảng tri thức vững chắc nhưng lại muốn khẳng định đẳng cấp bằng các biểu tượng văn minh vay mượn. Họ tiếp nhận cái mới theo cách lệch lạc, biến sự tiến bộ thành trò cười.

Chính trong môi trường ấy, Xuân Tóc Đỏ – dù đại diện cho sự vô học – lại trở thành hình mẫu của thời đại. Sự thăng tiến của hắn là kết quả tất yếu khi xã hội đánh giá sai giá trị. Đó không chỉ là sự mỉa mai cá nhân mà còn là sự phê phán hệ thống.

Tác phẩm vì vậy đặt ra nhiều câu hỏi mang tính thời sự: Xã hội hiện đại có đang đánh giá con người dựa trên bề ngoài? Những xu hướng “hiện đại” có thật sự được hiểu rõ hay chỉ là cách để khoe mẽ? Cách tiếp nhận văn hóa mới có đang khiến con người quên đi giá trị bản sắc?

Dù đã ra đời gần một thế kỷ, tác phẩm vẫn phản chiếu nhiều hiện tượng quen thuộc trong đời sống hiện đại: sính ngoại, chạy theo hình thức, chạy theo trào lưu, đánh mất sự chân thật. Tính xuyên thời gian giúp “Số đỏ” trở thành tác phẩm không bao giờ cũ.

Một trong những chủ đề nổi bật nhất của “Số đỏ” là sự đả kích thói sính Tây một cách mù quáng của tầng lớp tư sản thành thị. Qua hàng loạt tình huống oái oăm, tác phẩm cho thấy sự lệ thuộc vào hình thức, sự chạy theo “văn minh rởm” và tâm lý học đòi đang lan rộng.

Trong mắt những người sính văn minh, một bộ quần áo đúng mốt, một câu nói pha tiếng Pháp hay một “tư tưởng tiến bộ” là đủ để được xem là hiện đại. Chính sự nông cạn này khiến họ trở thành nạn nhân của chính bản thân, và tạo điều kiện cho những kẻ như Xuân Tóc Đỏ trục lợi.

Tác phẩm phê phán không phải văn hóa phương Tây, mà là cách giới thị dân học theo một cách vô ý thức. Tính nửa mùa, nửa Tây nửa ta trở thành đặc điểm của thời đại. Người ta sẵn sàng vứt bỏ giá trị truyền thống nhưng cũng không hiểu được bản chất của thứ mình theo đuổi.

Những cảnh tượng như lớp dạy thể thao, tiệm may âu phục, hay cách các nhân vật xử sự khi có “tai tiếng” đều cho thấy sự rập khuôn máy móc. Cuộc sống bị biến thành một sân khấu thời trang khổng lồ, nơi mọi người chỉ quan tâm đến việc “trông như thế nào” thay vì “là con người thế nào”.

Tiếng cười ở đây vừa vui nhộn vừa chua cay. Nó đánh mạnh vào thói chạy theo bề ngoài mà quên đi giá trị cốt lõi. Điều đáng nói là thói sính Tây này không hề mất đi trong đời sống hiện đại, khiến tác phẩm luôn giữ được tính thời sự.

Trong tác phẩm “Số đỏ”, Vũ Trọng Phụng thể hiện tài năng vượt trội trong việc tạo nên hệ thống nhân vật trào phúng đa dạng, sắc nét và giàu tính biểu tượng. Không nhân vật nào thừa, không chi tiết nào bị bỏ phí. Mỗi người đều mang một nét riêng biệt, vừa hài hước vừa phản ánh sâu sắc bản chất của xã hội thời đó.

Xuân Tóc Đỏ là trung tâm của toàn bộ câu chuyện. Ở nhân vật này, sự láu cá, ngu dốt và vô tình lại trở thành “tài năng” trước mắt những kẻ thượng lưu rởm. Hắn là biểu tượng của kiểu người vô ý thức nhưng lại được xã hội nâng đỡ, tung hô. Điều đáng chú ý là nhân vật không tự thay đổi; chính môi trường xung quanh đã đẩy hắn lên vị trí cao hơn mức đáng có.

Bên cạnh Xuân là hàng loạt nhân vật phụ xuất sắc. Bà Phó Đoan, ông Phán, cụ cố Hồng, cô Tuyết… mỗi người đều được khắc họa bằng một nét vẽ vừa cường điệu vừa tinh tế. Họ không chỉ đại diện cho thói đời mà còn cho những mặt trái của tư tưởng sính Tây, sính hiện đại nhưng không hiểu bản chất của văn minh.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả thể hiện rõ nhất ở cách sử dụng sự đối lập và tương phản. Một đám người được xem là “tinh hoa” của xã hội nhưng lại hành xử thiển cận, phù phiếm. Những nhân vật tưởng như đạo mạo, trí thức nhưng lại nông nổi không ngờ. Những sự đối lập này tạo nên một kết cấu trào phúng cực kỳ hiệu quả.

Đặc biệt, lời thoại trong tác phẩm vô cùng sắc sảo. Mỗi câu nói đều có giá trị gợi cười nhưng đồng thời làm nổi bật tính cách của nhân vật. Nhờ đó, họ trở nên sống động, gần như bước thẳng ra đời thật. Khi các nhân vật thể hiện sự ngây ngô, giả tạo hay mù quáng, tiếng cười bật lên nhưng kèm theo cảm giác chua chát.

Hệ thống nhân vật phong phú khiến “Số đỏ” trở thành tác phẩm vừa hấp dẫn vừa sâu sắc. Không chỉ tạo nên tiếng cười, họ còn phơi bày bộ mặt của cả một thời đại. Đó là lý do tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị dù trải qua nhiều thế hệ độc giả.

“Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng từ lâu đã được xem như một trong những tác phẩm trào phúng xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Qua hành trình thăng tiến lố bịch của Xuân Tóc Đỏ, tác phẩm phơi bày bản chất thối nát của tầng lớp thượng lưu giả danh Tây hóa ở xã hội đô thị những năm 1930. Mỗi chi tiết đều chứa đựng sự sắc bén, nhằm phơi bày một xã hội mà giá trị bị đảo lộn, nơi đạo đức có thể bị mua bán, và danh vọng có thể đến chỉ nhờ sự ngộ nhận.

Ấn tượng lớn nhất đến từ giọng văn mỉa mai đặc trưng của Vũ Trọng Phụng. Không có lời chỉ trích trực diện; thay vào đó, tác giả để sự vô lý tự phơi bày qua hành động của nhân vật. Việc Xuân Tóc Đỏ – một kẻ vô học, láu táu – lại có thể “phất” lên nhờ những tình huống tréo ngoe phản ánh độ nông cạn của tầng lớp thượng lưu. Họ thiếu cả khả năng phân biệt đúng sai lẫn lòng tự trọng, chỉ chạy theo vẻ bề ngoài và xu hướng Tây hóa mù quáng.

Thành công của Số đỏ còn nằm ở việc xây dựng hệ thống nhân vật phong phú. Mỗi người đều đại diện cho một kiểu người trong xã hội: những kẻ sính Tây đến mức lố bịch; những người làm nghề vì lợi nhuận mà sẵn sàng đánh đổi đạo đức; những cá nhân cố bấu víu vào danh vọng để che giấu sự rỗng tuếch bên trong. Mỗi nhân vật xuất hiện như một mảnh ghép, khi ghép lại tạo thành một bức tranh bi hài về xã hội thuộc địa nửa mùa.

Ngôn ngữ trong tác phẩm sắc sảo, tiết tấu nhanh và đầy kịch tính. Nhiều đoạn văn, cảnh huống được đẩy đến mức đỉnh điểm của sự phi lý, khiến tiếng cười bật ra nhưng đồng thời gợi nên sự chua chát. Cảnh đám ma ông cố Hồng hay buổi diễn tuồng trở thành ví dụ hoàn hảo cho nghệ thuật trào phúng bậc thầy của tác giả: cười để phê phán, cười để thấy sự giả dối lan tràn.

Đằng sau tiếng cười ấy là nỗi lòng trước hiện thực xã hội suy đồi. Những giá trị đạo đức, phẩm hạnh bị hạ thấp; những điều vô nghĩa được nâng lên thành chuẩn mực. Một xã hội mà mọi thứ đều có thể bị diễn kịch, từ lòng hiếu thảo cho đến nỗi buồn khi có tang. Điều đó khiến tiếng cười trong Số đỏ không chỉ để giải trí mà còn để thức tỉnh.

Mặc dù tác phẩm xoay quanh sự ngẫu nhiên và chuỗi tình huống mang tính phi lý, đó lại chính là cách phản ánh hiện thực. Sự phi lý trong trang sách là sự phóng đại của đời sống thực, nơi nhiều kẻ bất tài vẫn có thể thăng tiến nhờ sự giả dối hoặc may mắn tình cờ. Xuân Tóc Đỏ trở thành biểu tượng của kiểu người thời đó – và đôi khi vẫn còn tồn tại đâu đó trong xã hội hiện đại.

“Số đỏ” vì thế không chỉ là một tác phẩm văn học giải trí, mà còn là lời phê phán sâu sắc, mạnh mẽ về xã hội tư sản nửa mùa. Giá trị của nó vượt thời gian bởi tiếng cười trong tác phẩm vẫn còn nguyên tính thời sự, nhắc người đọc nhận ra những biểu hiện của sự giả tạo, lố bịch trong đời sống ngày nay.

“Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng là một trong những tác phẩm đặc biệt nhất của văn học Việt Nam, nổi bật giữa số lượng lớn tác phẩm viết về tình nghĩa, vẻ đẹp con người hay phê phán xã hội phong kiến. Tác phẩm lạ lùng này tập trung phê phán thói “trưởng giả học làm sang”, sự lố lăng của tầng lớp tiểu tư sản và những giá trị đạo đức đảo lộn đến mức “sống còn tệ hơn chết”. Không chỉ quen thuộc trong chương trình học, Số đỏ còn hấp dẫn bởi chất trào phúng đặc sắc khó lẫn.

 

Cái cười trong “Số đỏ” đa dạng và đầy tầng nghĩa: cười vì văn phong hài hước, cười vì sự nhố nhăng trong nhà cụ cố Hồng, và cũng là cười mỉa vào xã hội chạy theo danh vọng, đồng tiền. Đằng sau tiếng cười là vị đắng về số phận con người, đặc biệt là cụ cố Hồng – nạn nhân của chính gia đình mình. Vũ Trọng Phụng khéo léo lồng ghép trong những tình huống bi hài thông điệp phê phán sâu cay về sự thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến.

 

Đối tượng phê phán chủ yếu của tác phẩm là tầng lớp tiểu tư sản hữu danh vô thực. Tác giả không chỉ trích trực diện mà thông qua nhân vật Xuân Tóc Đỏ – kẻ lưu manh nhưng “số đỏ”, nhờ sự lươn lẹo mà được tung hô, trọng dụng. Hắn trải qua đủ thứ nghề: trèo me, quảng cáo thuốc lậu, nhặt banh… rồi bằng những trò mèo lại được xem như người tài giỏi. Bên cạnh đó là dàn nhân vật phụ như bà Phó Đoan, cô Tuyết, cô Hoàng Hôn – những mẫu người suy đồi đạo đức, chạy theo lối sống Âu hóa nửa mùa. Những ông bạn đầy huân chương của cụ cố Hồng hay những cậu ấm – cô chiêu đua đòi đều góp phần tô đậm bức tranh xã hội giả dối, ô trọc.

 

Nhiều chi tiết trào phúng gây thương cảm lẫn khinh bỉ, như ông Phán mọc sừng xem việc vợ ngoại tình là cơ hội trục lợi; hay cảnh những người thuộc thượng lưu tha hóa tranh giành, ghen tị, “diễn trò”. Ngòi bút của Vũ Trọng Phụng sắc bén, không chừa một góc tối nào của cái xã hội tưởng như văn minh đó.

 

Hai mươi chương của “Số đỏ” tạo thành bức tranh tố cáo xã hội đang Âu hóa nửa chừng, nơi đồng tiền bẻ cong đạo đức. Từ lúc bị bắt vì xem trộm, Xuân được bà Phó Đoan bảo lãnh, rồi vào làm ở tiệm may Âu hóa, quen biết giới thượng lưu và trở thành “đốc tờ Xuân”. Nhờ vận đỏ và thủ đoạn, hắn gây ra cái chết của cụ cố tổ nhưng lại được mang ơn, kết hôn với cô Tuyết, thậm chí nhận được Bắc Đẩu bội tinh. Đây chính là đỉnh điểm của sự phi lý – một kẻ vô học bỗng được tung hô như anh hùng.

 

Số đỏ tràn ngập những tình huống kỳ dị, phi lý nhưng phản ánh chân thật sự đảo lộn giá trị: bà Phó Đoan tự hào vì “hư hỏng một cách khoa học”, lang Tỳ – lang Phế tranh cãi lố bịch, cụ cố Hồng ham được đấm vào mặt… Mỗi chi tiết đều nhằm phơi bày sự suy đồi của tầng lớp “thượng lưu” chạy theo văn minh rởm. Những tiêu đề chương truyện cũng cho thấy dụng ý trào phúng xuyên suốt, tạo nên bố cục chặt chẽ.

 

Ngôn ngữ trào phúng trong tác phẩm phong phú, từ lời lẽ vỉa hè của Xuân đến ngôn ngữ Âu hóa nửa mùa, tất cả hòa thành bức tranh hỗn tạp đúng như xã hội thời ấy. Nhiều đoạn thoại chứa đầy sự lố bịch, vô học, phơi bày bản chất lưu manh của nhân vật nhưng cũng là bản chất của thời đại mà hắn sống.

 

“Số đỏ” không chỉ dừng lại ở tiếng cười phê phán. Tác phẩm khiến người đọc hôm nay vẫn tìm thấy bóng dáng của những chuyện bi hài trong chính xã hội hiện đại – những điều khiến ta thở dài vì sự thật ngoài đời không khác bao nhiêu. Qua đó, tác phẩm nhắc nhở người đọc phải sống đúng đạo lý, không đánh đổi nhân cách chỉ để chạy theo danh vọng phù phiếm.

 

“Số đỏ” tố cáo mạnh mẽ xã hội tư sản bịp bợm, phong trào Âu hóa nửa mùa, những giá trị đạo đức bị đảo lộn. Nhân vật được xây dựng với chiều sâu tâm lý, mang tính điển hình đến mức ngày nay vẫn còn thấy thấp thoáng đâu đó trong đời sống. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từng nhận định rằng Số đỏ là minh chứng cho trí tưởng tượng dữ dội và tài năng của Vũ Trọng Phụng – một người viết trẻ nhưng sắc sảo đến mức “bịa đặt mà như thật”.

 

Tiếng cười của “Số đỏ” là tiếng cười mang tính cách tân quan trọng của tiểu thuyết Việt Nam: nó phơi bày sự không tương xứng, những dị dạng trong một xã hội tư sản hóa cuối mùa. Và đến hôm nay, mỗi khi đọc lại, người ta vẫn cười – nhưng là nụ cười đắng, hiểu rằng bi hài kịch ấy chưa bao giờ thực sự chấm dứt.