Tác phẩm diễn Nôm Chinh phụ ngâm vốn được biết đến như một trong những đỉnh cao trên văn đàn Việt. Không chỉ đưa những “phát minh” về ngôn ngữ của người Việt (như chữ Nôm, thể thơ song thất lục bát, từ láy, từ thuần Việt...) lên một đỉnh cao chói lọi, tác phẩm còn là một khúc ca mang chứa những nỗi niềm tâm sự đậm chất Việt Nam. Đó là nỗi niềm dùng cả ngàn năm văn hiến để thành hình, để lớn lên. Nó sinh ra từ đất và nước của người Việt, được nuôi dưỡng bằng tấm lòng mộc mạc nghĩa tình đặc trưng của dân tộc và được truyền thừa từ đời này sang đời khác. Thứ tâm sự như dòng suối ngọt lành chảy không ngừng suốt cả ngàn năm, được người Việt nuôi dưỡng và cũng quay trở lại nuôi lớn những tâm hồn Việt ấy đã được thể hiện rất rõ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, cũng như bản dịch Chinh phụ ngâm diễn âm tân khúc của Phan Huy Ích.

Hoàn cảnh lịch sử

Thời đại Lê - Nguyễn là khái niệm kép dùng để chỉ giai đoạn lịch sử dài hơn 500 năm từ năm 1427 khi nghĩa quân Lam Sơn triển khai thành công chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang, đánh tan quân Minh, nước Đại Việt được khôi phục, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, đến giai đoạn Nam Bắc phân tranh (1528-1802), giai đoạn nhà Nguyễn Gia Long (1802-1945), kết thúc bằng sự kiện vua Bảo Đại thoái vị.

Lịch sử Việt Nam trong giai đoạn này có thể chia làm 3 giai đọan :

- Giai đoạn nhà Lê trị vì từ 1427 – 1527: Kéo dài 10 đời từ triều đại vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đến vua Lê Chiêu Thống.

- Giai đoạn Nam Bắc phân tranh từ 1528 -1802 (hoặc thời kỳ Vua Lê và chúa Trịnh phía Bắc – Chúa Nguyễn Hoàng ở phương Nam)

- Giai đoạn nhà Nguyễn Gia Long (1802-1945): Từ khi đánh thắng nhà Tây Sơn, vua Gia long thành lập triều đại kéo dài 143 năm và chấm dứt vào thời kỳ vua Bảo Đại.

Chinh phụ ngâm đã ra đời trong giai đoạn lịch sử vô cùng đặc biệt ấy của dân tộc (khoảng năm 1741). Khi đó, mảnh đất Đại Việt bị tranh chấp bởi rất nhiều tập đoàn phong kiến. Các phe phái gây chiến liên miên để tranh giành quyền cát cứ, đẩy đất nước vào thời kỳ nội chiến kéo dài. Cơn binh lửa nồi da nấu thịt này không bảo vệ nhân dân Việt Nam khỏi ngoại xâm, không giúp nhân dân ấm no thịnh vượng mà chỉ để lại những mất mát, đau thương. Nếu như trong những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, dân tộc ta luôn tỏ ra can trường và bất khuất, luôn sẵn sàng hy sinh máu xương để bảo vệ độc lập dân tộc thì lúc bấy giờ, khi đối diện với thảm cảnh “người Việt đánh người Việt”, dân tộc ta lại bày tỏ thái độ chán ghét cảnh chinh chiến sa trường đến cùng cực. Lịch sử Việt Nam thời bấy giờ đã đi qua rất nhiều cuộc chiến tranh hào hùng, đáng tự hào. Tuy nhiên, hầu hết đều là chiến tranh chống ngoại xâm (có cuộc nội chiến “loạn 12 sứ quân” nhưng diễn ra trong khoảng thời gian rất ngắn, từ năm 944 đến 968). Các tác phẩm văn học ca ngợi chiến tranh gần như không xuất hiện. Vào thời Lê - Nguyễn ta khó lòng bắt gặp cái khí thế hào hùng, bi tráng của Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu hay Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Không còn nữa cái hào khí Đông A mà Trần Quang Khải đã tạc vào đá, vào đồng:

Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.
(Tụng giá hoàn kinh sư)

Văn chương đương thời nhìn các cuộc chiến bằng những ánh mắt yếm thế, đong đầy tâm sự cá nhân. Chinh phụ ngâm được Đặng Trần Côn viết vào khoảng năm 1741, trong cảnh đất nước chứng kiến nội chiến giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn. Sau này, tác phẩm được Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích và một số dịch giả khác dịch ra chữ Nôm. Bản dịch của Phan Huy Ích được xem là bản dịch phổ thông nhất, được biết đến nhiều nhất được lưu hành cho đến hiện nay.

Tác giả

Trước hết, ta cần phải xem xét Phan Huy Ích như một tác giả có sáng tác văn chương của riêng mình chứ không chỉ là một dịch giả thông thường. Bởi lẽ tác phẩm dịch của ông có những phát kiến ngôn ngữ riêng biệt so với bản gốc. Trong khi tác phẩm gốc được viết bằng chữ Hán theo lối văn vần thì bản dịch được viết bằng chữ Nôm theo thể thơ song thất lục bát. Hơn nữa, bản dịch đã gây dựng được trong lòng độc giả một chỗ đứng độc lập, có phần nổi trội hơn so với bản gốc. Bản dịch hiện hành cũng được biết đến rộng rãi hơn trong lòng độc giả trong nước, thậm chí, số bản dịch ra tiếng nước ngoài của nó cũng nhiều hơn hẳn tác phẩm gốc. Với tác phẩm dịch xuất sắc và mang nhiều thành công riêng, dấu ấn riêng như vậy, Phan Huy Ích được xem là một tác giả hẳn hoi với sáng tác cá nhân của mình là tác phẩm Chinh phụ ngâm diễn âm tân khúc.

Tác phẩm

Chinh phụ ngâm (Lời than vãn của người phụ nữ có chồng đi đánh trận), còn có tên khác là Chinh phụ ngâm khúc là tác phẩm văn vần của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741.

Hiện nay, Chinh phụ ngâm có 7 bản dịch và phỏng dịch bằng các thể thơ lục bát (3 bản) hoặc song thất lục bát (4 bản) của các dịch giả Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích, Nguyễn Khản, Bạch Liên Am Nguyễn tiên sinh và hai tác giả khuyết danh.

Bản dịch thành công nhất và phổ biến nhất xưa nay, theo thể song thất lục bát 408 câu, có người cho là Đoàn Thị Điểm (1705–1748), có người cho là của Phan Huy Ích (1751–1822). Gần đây, nhiều công trình nghiên cứu có xu hướng cho rằng Phan Huy Ích là dịch giả đích thực của bản dịch hiện hành (như Chinh phụ ngâm bị khảo của Hoàng Xuân Hãn, Chinh phụ ngâm của Lại Ngọc Cang hay luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Dương). Bản của Phan Huy Ích (có tên là Chinh phụ ngâm diễn âm tân khúc) được viết sau bản của Đoàn Thị Điểm chừng 70 năm.

Chữ “thương” của người Việt


Có người đã từng nói với tôi: người ta nên vợ thành chồng có thể là do chữ “yêu”, nhưng ở được với nhau lâu dài thì phải là do họ đều ấp ủ, giữ gìn một chữ “thương” sâu nặng. Tiếng Việt có chữ “thương”, khác với “yêu”, “mến”, ”thích”, “quý”. Chữ “thương” của người Việt ta diễn tả thứ tình cảm khiến người ta gắn bó với nhau trong thời gian dài, khiến người ta cố gắng trở nên tốt đẹp hơn vì người khác, khiến người ta biết dẹp bỏ cái tôi của mình và tôn trọng những gì khác biệt của đối phương. Nếu chữ “yêu” ngắn như thời thanh xuân trẻ dại, chữ “thương” lại dài đến tận lúc bạc đầu. Thứ tình cảm mà người chinh phụ trao cho chồng mình chính là một chữ “thương” nghĩa tình, da diết như vậy.

Vào giờ phút chia ly, nàng ngậm ngùi tiễn đưa chồng ra trận. Lúc ấy, trong lòng nàng không ngăn nổi cảm giác xót xa, đau khổ. Người chồng chưa đi khuất dạng mà người vợ đã dậy lên nỗi nhớ nhung. Tháng ngày xa nhau dài đằng đẵng như hiện ra rành rành trước mắt, khiến cho người trong cuộc không khỏi bịn rịn, luyến lưu.

Xe trước đã gần ngoài doanh liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương thiếp biết đoạn trường này chăng.

Người chinh phụ ngóng theo dấu chồng đi đến tận khi những toán lính đã khuất xa. Người đọc như thấy được ánh mắt da diết của nàng cắt qua những rặng liễu xa xa, xuyên qua khoảng không rộng lớn để dõi theo chút thân ảnh cuối cùng của người chồng mà nàng hết mực yêu thương.

Xuyên suốt chiều dài hơn 400 câu thơ, chữ “thương” đậm chất Việt Nam ấy đã được lật đi lật lại không biết bao nhiêu lần để rồi bật lên thành một điểm sáng đầy nhân đạo, nhân văn của áng thơ văn bất hủ trên thi đàn dân tộc.

Tâm sự của ta về chiến tranh và hòa bình

Trong suốt quãng thời gian dài đằng đẵng mấy ngàn năm lịch sử, nước ta đã kinh qua không biết bao nhiêu cơn binh lửa tang thương. Từ những buổi đầu dựng nước và giữ nước, ta đã luôn phải đối mặt với nguy cơ xâm lược từ các triều đại phương bắc. Từ năm 111 TCN đến tận năm 938, dân tộc ta rơi vào ách đô hộ hơn một ngàn năm, nay gọi là thời kỳ “ngàn năm Bắc thuộc”. Trong thời kỳ đó, ta liên tục có những cuộc khởi nghĩa giành độc lập dân tộc như cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-42), Bà Triệu (248), Lí Bí (544-548)... Sau khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ lâu dài cho dân tộc, người Việt vẫn tiếp tục phải đối mặt với hàng loạt cuộc chiến tranh chống lại cả thù trong lẫn giặc ngoài. Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, nhà Tiền Lê và nhà Lý chống quân Tống, nhà Trần chống lại 3 lần quân Nguyên xâm lược, nhà Hậu Lê chống quân Minh, nội chiến Đàng Trong - Đàng Ngoài kéo dài 200 năm, dân ta hết đánh Pháp rồi đến đánh Mỹ... Đó là những cuộc chiến tiêu biểu, còn rất nhiều những cuộc xung đột quy mô nhỏ khác nhưng tôi không đủ hiểu biết để liệt kê chính xác ra ở đây nữa. Với lịch sử ngập tràn đau thương chiến loạn như vậy, người Việt có thái độ thế nào đối với chiến tranh, đối với hòa bình?

Xin trả lời rằng, dân tộc Việt là dân tộc căm thù chiến tranh đến tận xương tùy, cũng là dân tộc yêu chuộng hòa bình đến khôn cùng! Tinh thần ấy đã được Nguyễn Đình Thi ca ngợi trong bài thơ Việt Nam quê hương ta:

Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.

Tinh thần phản đối chiến tranh, yêu chuộng hòa bình ấy đã được thể hiện rất rõ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm, sang đến bản diễn Nôm của Phan Huy Ích thì tinh thần ấy lại càng được diễn tả rõ nét hơn, sâu sắc và truyền cảm hơn. Tuy vậy, nếu như tinh thần phản chiến trong Nguyễn Đình Thi thể hiện tấm lòng bao dung của người Việt sau khi chiến thắng cuộc chiến chính nghĩa để bảo vệ độc lập dân tộc, thì tinh thần của Chinh phụ ngâm lại là phản đối cuộc nội chiến phi lý kéo hàng hàng trăm năm, vì để đem lại lợi ích cho các tập đoàn phong kiến mà để cho dân chúng lâm vào cảnh lầm than, ly loạn.

Ngay từ đầu tác phẩm, mục đích cuộc chiến mà người chinh phu tham dự đã được nêu ra:

Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm quyết đã chẳng dong giặc trời.

Mục đích của việc ra trận là giết “giặc trời”, lập công danh với nhà vua, chứ không nhắc gì đến tội ác của “giặc trời” hay việc ra trận để bảo vệ dân lành, bảo vệ đất nước chi cả. Có thể thấy ngay từ đầu, thế lực phong kiến cầm quyền đương thời gọi những phe phái đối lập với mình là “giặc trời”, chiêu binh mãi mã để dẹp cuộc nội loạn trong nước chứ không nhằm mục đích bảo vệ đất nước khỏi ngoại xâm. Mục đích của cuộc chiến cũng chỉ gói gọn trong mấy dòng ngắn ngủi ở phần đầu bài thơ chứ không hề được đào sâu, làm rõ. Như thể người chinh phụ chỉ biết rằng chồng mình ra trận, thế là hết, còn ra trận vì cái gì thì nàng không biết được rõ ràng. Việc đưa ra mục đích chiến tranh mập mờ như vậy cũng chính là tiền đề để Chinh phụ ngâm nói lên khát khao phản đối chiến tranh phi nghĩa của mình.

Cuộc chiến mập mờ về mục đích, phi nghĩa về bản chất ấy khiến người chinh phụ không còn tự hào về việc chồng mình ra trận nữa mà ngược lại, nàng luôn ước mong chồng sớm ngày trở về, không phải ra nơi chiến trường chém chém giết giết nữa.

Nàng thương người chồng chinh chiến nơi sương gió trăm ngàn khổ cực:

Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong
Lên cao trông thức mây lồng
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương.

Nàng xót thương cho thân phận người chiến sĩ, không may tử trận nơi chiến trường, thi thể không được chôn cất tử tể, cái chết của họ cũng không được ai tưởng niệm, vinh danh:

Hồn tử sĩ, gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu, trăng dõi dõi soi.
Chinh phu, tử sĩ mấy người.
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?

Tội ác của cuộc chiến phi nghĩa dần dần được khắc họa rõ nét hơn thông qua những vần thơ đong đầy nỗi lòng của người chinh phụ. Chiến tranh lúc này không khiến người ta tự hào. Chiến tranh lúc này khiến người ta thấy ghê sợ, căm ghét. Những người chồng, người con trai, người anh trai ra trận không để bảo vệ những điều tốt đẹp mà chỉ để làm đẹp thêm cho bia đá danh vọng của các võ tướng, chỉ để thỏa mãn tham vọng bá quyền của tầng lớp thống trị. Những chiến sĩ ngã xuống rồi đây sẽ bị lãng quên dù họ hy sinh cả mạng sống của mình cho chiến trận.

Tôi nhớ một chi tiết rất thú vị về cách người Hy Lạp xưa quan niệm về chiến tranh. Họ đặt Athena làm thần chiến tranh, đồng thời cũng giao cho Ares tôn xưng thần chiến tranh. Vậy hai vị thần này khác nhau chỗ nào? Người Hy Lạp cho rằng Athena đại diện cho chiến tranh chính nghĩa, còn Ares là vị thần của những cuộc chiến phi nghĩa. Athena và Ares đánh nhau rất nhiều, nhưng lần nào Athena cũng chiến thắng. Niềm tin vào “Chính nghĩa tất thắng” và quan điểm về một cuộc chiến chính nghĩa - một cuộc chiến đáng để nhân dân hy sinh máu xương - cũng chính là niềm tin và quan điểm chung của mọi dân tộc trên thế giới này. Họ không tiếc thanh xuân, không tiếc sinh mạng của mình nhưng họ chỉ hy sinh cho những gì họ cảm thấy xứng đáng. Tinh thần này không được làm rõ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm hay Chinh phụ ngâm diễn Nôm, nhưng từ nội dung của cả hai văn bản trên, ta có thể thấy được điều đó.

Người chinh phụ cũng từng có niềm tin rất lớn vào cuộc chiến mà chồng nàng phải tham gia. Nàng cho rằng đây là việc quốc gia đại sự, được tham gia vào cuộc chiến là một niềm vinh dự lớn lao của đấng nam nhi. Nàng cũng từng nuôi hy vọng rằng chồng nàng sẽ lập công ngoài chiến trận, trở về trong niềm vinh quang để cả nhà được chung sống cảnh phú quý. Tuy nhiên, sau những ngày tháng chờ đợi tin chồng trong vô vọng, nỗi cô đơn cùng nỗi lo chồng sẽ tử trận đã xóa sạch những mơ ước về danh vọng, công hầu của người chinh phụ. Nàng thở than:

Bỗng ngoảnh lại trông màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.


Đây là hai câu thơ mượn tứ của bài Khuê oán, tác giả Vương Xương Linh:

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.

(Dịch nghĩa: Người thiếu phụ nơi phòng khuê không biết buồn,
Ngày xuân trang điểm đẹp đẽ bước lên lầu biếc.
Chợt thấy màu dương liễu tốt tươi ở đầu đường,
Bỗng hối hận đã để chồng đi tòng quân để kiếm phong hầu)

Người thiếu phụ trong bài Khuê oán hối hận vì đã giục chồng ra trận lập công, mang vinh hoa phú quý về cho cả nhà để rồi giờ đây nàng phải vò võ một mình nơi khuê phòng lạnh lẽo. Khi đưa mắt ngắm nhìn nhành liễu xanh tươi trong buổi xuân rạo rực, nàng chạnh nghĩ về tình cảnh lẻ loi của mình. Nàng cũng đương độ xuân sắc, nàng cũng muốn được vỗ về yêu thương nhưng giờ không còn ai có thể cho nàng điều đó nữa. Nhành liễu tươi tốt còn được gió xuân vỗ về, còn nàng dẫu xinh đẹp đến mấy cũng chẳng còn người đoái hoài. Người chinh phụ của Chinh phụ ngâm cũng có chung tâm trạng như vậy. Nàng cũng từng nuôi mộng trở thành quý phu nhân vì chồng mình lập công nơi sa trường, nhưng giờ giấc mộng ấy đã tan thành trăm mảnh. Thứ nàng thực sự khao khát cuộc sống yên bình bên người mình thương chứ không phải những tước phong phù phiếm.

Kết

Phần kết của tác phẩm là một chuỗi dài những nỗi niềm đau xót, nhớ thương. Người chinh phụ vẫn tiếp tục chờ đợi, mong mỏi chồng mình trở về dẫu đã qua nhiều năm “bặt tin nhạn cá”. Nàng vẫn son sắt thủy chung, vẫn không nguôi nỗi ước ao về một gia đình ấm êm, đoàn tụ. Những dòng thơ cuối ấy có nỗi hy vọng lóe lên giữa muôn nghìn niềm tuyệt vọng. Chính tia hy vọng ấy đã khiến tác phẩm bớt đi nhiều phần bi thương, nhiều phần buồn thảm. Đôi khi, niềm tin vào điều tốt đẹp chính là thứ giúp con người ta vực dậy từ vực sâu buồn bã, giúp người ta sống tiếp và sống tốt. Dẫu tia hy vọng ấy mỏng manh đến nỗi có thể vỡ tan bất cứ lúc nào thì nó vẫn là một tia sáng tuyệt đẹp, một tia sáng đáng để mong mỏi, nâng niu. 

Xem thêm

Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Đây là thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê-Mạc đánh nhau đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ.“Chinh phụ ngâm” nguyên tác của Đặng Trần Côn đã hay, bản dịch “Chinh phụ ngâm” hiện hành của lại càng hay hơn nữa. Nó không những lột tả được tinh thần của nguyên tác mà còn góp phần nâng cao, làm sáng thêm nguyên tác. Bản dịch “Chinh phụ ngâm” hiện hành là một công trình đầy tính sáng tạo, đến nỗi trong lịch sử văn học Việt Nam từ bao đời nay mọi người quen coi nó như một sáng tác phẩm, chứ không phải như một dịch phẩm. Trong nguyên tác chữ Hán, “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn viết bằng thể trường đoản cú, nghĩa là một thể thơ xen kẽ câu dài với câu ngắn, cốt làm sao cho hài hòa, ngoài ra không có một qui định nào khác. Câu ngắn có khi ba, bốn chữ, câu dài có khi mười, mười một chữ. Với một thể thơ như vậy, nhà thơ có thể linh hoạt trong diễn đạt, có thể tạo nên những âm hưởng, những nhịp điệu phong phú, sinh động. Mở đầu “Chinh phụ ngâm”, Đặng Trần Côn viết: “Thiên địa phong trần, Hồng nhan đa truân, Du du bỉ thương hề, thùy tạo nhân?” Hai câu đầu bốn chữ dứt khoát, tiếp đến câu thứ ba là một câu hỏi kéo dài đến tám chữ, kết cấu tạo một thế tương phản, do đó khi đọc lên cảm thấy vấn đề trở nên khẩn cấp, bức thiết. Bản dịch “Chinh phụ ngâm” hiện hành không dùng thể trường đoản cú cũng không dùng thể lục bát (như một số bản dịch khác), mà dùng thể song thất lục bát. Thành công của nó trước hết là người dịch biết chọn một thể thơ vừa quen thuộc với mọi người, vừa thích hợp trong việc diễn tả một tâm trạng như tâm trạng người chinh phụ. Song thất lục bát là một thể thơ ngắn bắt nguồn từ ca dao dân gian. Thể thơ gồm hai câu bảy chữ, một câu sáu chữ, một câu tám chữ. Bốn câu như thế kết lại với nhau thành một khổ, và bài thơ có thể kéo dài bao nhiêu khổ cũng được. Đặc điểm cấu tạo nhịp điệu của thơ song thất lục bát là hai câu thất ngắt nhịp cố định 3/4 (khác với câu thất ngôn trong thơ Đường luật Trung Quốc ngắt nhịp 4/3) còn câu lục và câu bát về nguyên tắc có thể ngắt nhịp hết sức phóng túng. Nhưng trong khuôn khổ của thể song thất lục bát, nó gắn bó chặt chẽ với hai câu thất ngắt nhịp cố định, do đó để có sự hài hòa, trong thực tế, câu lục và câu bát của thơ song thất lục bát không thể ngắt nhịp phóng túng như trong thơ lục bát được, mà khả năng ngắt nhịp của nó ít hơn rất nhiều. Như thế, trong một khổ thơ song thất lục bát có hai câu ngắt nhịp cố định đi liền với hai câu ngắt nhịp ít nhiều có biến động, nhiều khổ song thất lục bát kế tiếp nhau nhịp điệu của nó sẽ láy đi láy lại tạo thành những chu kỳ. Chính do đặc điểm này mà bài thơ càng dài càng có âm hưởng buồn. Cấu trúc nhịp điệu này là riêng biệt của song thất lục bát, mà bất cứ một thể tài nào cũng không có được, và nó thích hợp để diễn tả những tâm trạng buồn, đứng yên, ít biến động. Thành công của bản dịch hiện hành còn ở chỗ quan niệm phóng túng của người dịch. Dịch giả không câu nệ về số câu, số chữ, mà cốt làm sao rung động và diễn đạt cho được tinh thần của nguyên tác. Đọc bản dịch “Chinh phụ ngâm” hiện hành có thể thấy người dịch tác phẩm rung cảm hết sức sâu sắc trước đối tượng sáng tạo của mình, và tỏ ra rất am hiểu đặc trưng của văn học. Trong nguyên tác “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn có tất cả 476 câu, bản dịch hiện hành có 412 câu, người dịch có khi gộp 2,3 câu tròn nguyên tác thành một câu, có khi dịch một câu trong nguyên tác thành hai câu; khi cần thì thu ngắn lại, kéo dài ra hay đảo lộn trên dưới. Cá biệt có trường hợp người dịch bỏ không dịch một vài câu, một vài chi tiết, điển cố… So với nguyên tác, cũng có đôi ba trường hợp bản dịch không đạt bằng, nhưng nhìn chung thì bản dịch xúc cảm hơn, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu hơn, những đặc trưng của văn học trong bản dịch có phần trội hơn trong nguyên tác. Tóm lại, thành công của bản dịch “Chinh phụ ngâm” là một sự kích thích có ý nghĩa đối với việc dùng chữ Nôm để sáng tác văn học lúc đương thời.

“Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn là tiếng than đầy thống thiết của người phụ nữ có chồng đi đánh trận, tiếc thương cho tình yêu đôi lứa, cho ấm êm gia đình, cho phận người bèo bọt trong thời kỳ nhiễu nhương thối nát, diễn ra các cuộc chiến tranh phi nghĩa, mưu đồ bá vương, vào cuối thời vua Lê chúa Trịnh. Tác phẩm có địa vị văn học sử đặc biệt trong nền văn học cổ, là kiệt tác văn học viết bằng chữ Hán của Việt Nam. Là triều đại dài nhất so với các triều đại Việt Nam, nhưng tình trạng đất nước dưới thời Lê trung hưng (1533 – 1789) vô cùng rối ren, từ nội chiến Lê – Mạc đến Trịnh – Nguyễn phân tranh, chiến tranh liên miên. Bước sang nửa đầu thế kỷ XVIII, cũng là những chương cuối của triều đại, ngai vàng mục ruỗng, vua chúa hoang dâm, ích kỷ đã đẩy dân chúng vào cảnh nồi da nấu thịt, loạn ly, tan tác, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi. Văn học thời kỳ này phản ánh bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị, đồng thời truyền tải nỗi đớn đau của những nạn nhân dưới thế sự loạn lạc, máu lửa và binh đao. “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn cũng không nằm ngoài xu hướng văn chương đó, nhưng vẫn mang nét riêng biệt mới mẻ như đề cao quyền sống, khát khao tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. NGUYÊN TÁC TIẾNG HÁN “Chinh phụ ngâm” (tựa gốc “征婦吟”) còn có tên khác là “Chinh phụ ngâm khúc” (征婦吟曲) ra đời vào khoảng năm 1741, là một thi phẩm Hán văn đặc sắc. Ngay khi vừa xuất hiện trên văn đàn đã gây tiếng vang lớn không những trong giới nho sĩ Việt Nam, mà còn cả bậc văn nhân bên Trung Hoa. Ngày nay, “Chinh phụ ngâm” vẫn giữ vị thế của một kiệt tác đáng tự hào trong kho tàng văn học Việt Nam, và đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Đặng Trần Côn sử dụng thể thơ tự do, mang sắc thái cổ phong và từ, phú (như “Ly tao” của Khuất Nguyên), gồm 476 câu thơ dài ngắn khác nhau, câu dài nhất khoảng 12, 13 chữ, câu ngắn chỉ 3, 4 chữ. Mượn lời độc thoại nội tâm của người vợ có chồng tham gia cuộc chiến do triều đình phong kiến chủ xướng, “Chinh phụ ngâm” là một khúc ngâm rất dài. Trong đó, có niềm trông mong tương lai khải hoàn, có nỗi lo sợ khủng khiếp về số phận người thương giữa chiến trường khốc liệt, có tâm trạng cô đơn lẻ loi đến cùng cực, có cơn trăn trở cô quạnh khi chồng quá hạn không về, có chán chường tuyệt vọng, có giấc mộng đoàn viên. Tình cảm chứa chan. Ngôn từ diễm lệ, uyển chuyển, đầy nhạc điệu. “Chinh phụ ngâm” là một thiên trường thi trữ tình bất hủ. BẢN DIỄN NÔM CỦA HỒNG HÀ NỮ SĨ Mang sức hút của một tuyệt tác, “Chinh phụ ngâm” được nhiều văn tài dịch sang quốc ngữ, trong đó bản diễn Nôm sớm nhất – và có lẽ truyền cảm nhất – là của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, bạn văn cùng thời tác giả. Bản diễn Nôm của Phan Huy Ích ra đời sau 70 năm, mang nét kế thừa và nâng cao bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Nhưng việc nói rằng bản dịch của Đoàn Thị Điểm truyền cảm nhất cũng thực không ngoa, vì chính bản thân bà đã từng mang tâm trạng y hệt người chinh phụ – ngay sau đám cưới vỏn vẹn một tháng thì chồng bà là Tiến sĩ Nguyễn Kiều đã phải dẫn đầu phái bộ đi sứ sang Trung Quốc ba năm ròng rã. “Chinh phụ ngâm khúc diễn ca” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm bắt đầu từ chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn người phụ nữ phương Đông, với tương thông về tư tưởng lẫn tình cảm, cùng thể thơ song thất lục bát đậm tính dân tộc, qua học vấn và tài hoa giúp chuyển hóa một cách tài tình những điển cố điển tích… tất cả góp phần tạo nên bản diễn Nôm đặc biệt xuất sắc, là tác phẩm tiếng Việt ưu tú bậc nhất, làm giàu và đẹp thêm cho văn học nước nhà. “Chinh phụ ngâm khúc diễn ca” làm say mê bao thế hệ yêu thi ca suốt hơn hai thế kỷ rưỡi đã qua. Nhiều câu thơ, đoạn thơ đã in sâu trong tâm trí hàng triệu người: “Sương như búa bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô. Giọt sương phủ bụi chim gù, Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi.” CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH QUA LĂNG KÍNH CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ “Chinh phụ ngâm” diễn giải một luận đề căn bản của xã hội phong kiến đương thời cũng là một vấn đề nóng hổi của thời đại: chiến tranh và hòa bình. Oán ghét chiến tranh phi nghĩa và khát vọng hòa bình đoàn viên. “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.” Một khi chiến tranh xảy ra, hàng vạn gia đình rơi vào cảnh chia ly tan tác, tạo nên số phận bi thảm của những chinh phu và chinh phụ. Chiến tranh mưu đồ bá vương, chiến tranh bảo vệ ngai vàng của bọn vua chúa phong kiến là những cuộc chiến tranh phi nghĩa, hòng mưu lợi cho riêng, đắp nặn quyền uy, làm đầy ngân khố rồi lại hoang dâm, hưởng lạc, tàn bạo, ích kỷ chứ chẳng hề nghĩ suy cho dân chúng lầm than, điêu đứng ngoài kia. Luận đề ấy đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa nhân đạo, từ đó bóc trần mâu thuẫn giữa quyền lợi ích kỷ của bọn vua chúa với quyền lợi của quần chúng nhân dân. Trong khi người chinh phu bị đẩy ra nơi chiến trường đầy chết chóc, người chinh phụ vắng chồng sống đằng đẵng trong nỗi thương tâm, thì chốn triều đình “Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?” Một bên vạch trần bộ mặt man rợ tàn bạo của chiến tranh, một bên đong đầy khát khao hòa bình sum họp: “Liên ngâm đối ẩm đòi phen, Cùng chàng lại kết mối duyên đến già. Cho bõ lúc sầu xa cách nhớ, Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình.” Giấc mộng đoàn viên của người chinh phụ cũng là khát vọng hòa bình của quần chúng nhân dân thời binh đao loạn lạc, gia đình tang tóc lúc bấy giờ. “Chinh phụ ngâm” khẳng định một chân lý vững vàng rằng hòa bình là điều kiện tiên quyết của hạnh phúc con người, của tình yêu đôi lứa. Tiếng nói chống chiến tranh phi nghĩa và khát vọng hòa bình qua lăng kính của người chinh phụ mang tầm vóc cao đẹp về tình yêu, đức hạnh và trí tuệ của phụ nữ Việt Nam thế kỷ XVIII.

Cũng như hầu hết các kiệt tác văn chương khác, Chinh phụ ngâm là sản phẩm tinh thần của một thời đại nhất định. Đó là thời đại nội chiến tàn khốc giữa các tập đoàn phong kiến cát cứ Lê - Trịnh – Mạc – Nguyễn, và giữa các triều đình này với các phong trào khởi nghĩa của giai cấp nông dân đã bị dồn tới bước đường cùng. Cả một dân tộc bị chấn thương do nội chiến kéo dài hằng thế kỉ, từ đó kết nên một mối oán hận thấu trời, như lời thơ của Chinh phụ ngâm : Xanh kia thăm thẳm từng trên, Vì ai gây dựng cho nên nỗi này? Theo lẽ tự nhiên, mọi nỗi oán hận đều đòi hỏi phải được giải toả. Đặng Trần Côn, một thi nhân lỗi lạc, đã cảm nhận sâu sắc nỗi oán hận ấy của dân tộc ông. Với thiên chức của nhà thơ, ông đã mang hết tâm huyết mô tả và vạch ra thực chất của tấn bi kịch lịch sử thời đại ông bằng một áng văn chương bác học (Hán văn) rất mực điêu luyện, tài hoa. Nhiều nho sĩ Trung Hoa đương thời đã thán phục tác phẩm này của ông. Sau đó tác phẩm được một bậc danh sĩ dịch thành một áng văn chương nôm tuyệt tác. Ngay lập tức, Chinh phụ ngâm bằng thơ nôm đã đi vào lòng quần chúng nhân dân đương thời. Ngoài giá trị thẩm mĩ, Chinh phụ ngâm còn mang ý nghĩa như là sự cứu rỗi cho một thời đại đầy đau thương, tang tóc, chia li.Vấn đề trung tâm mà Chinh phụ ngâm đề cập là vấn đề chiến tranh và hoà bình, thể hiện ngay ở câu thơ đầu tiên: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi. Giáo điều phong kiến dạy rằng: vua chúa là “thiên tử” (con trời), mọi hành động của thiên tử như dẹp loạn để bảo vệ ngai vàng, chinh phạt các nước khác để mở mang bờ cõi… đều là những hành động “thế thiên hành đạo” cả. Tất cả thần dân trong nước phải nhất nhất vâng lệnh và xả thân phụng sự thiên tử. Ai làm được như thế sẽ được coi là một kẻ “trung quân”, là một con người có phẩm hạnh cao, nhược bằng chống lại lệnh vua thì đó là kẻ “bất trung”, “khi quân”, sẽ bị trị tội. Người chinh phu trong tác phẩm chính là một kẻ “trung quân” tiêu biểu. Chàng hoàn toàn tự giác chấp hành mệnh lệnh của nhà vua: Áo nhung trao quan vũ từ đây... Phép công là trọng, niềm tây sá nào! Chàng mang đủ “khí phách” của một anh hùng phong kiến: Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, Xếp bút nghiên theo việc đao cung. Thành liền mong tiến bệ rồng, Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời. Chí làm trai dặm ngàn da ngựa, Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao… Trong lòng chàng đau đáu món nợ công danh: Áng công danh trăm đường rộn rã… Chàng mơ ước: Non Yên tạc đá đề danh, Triều thiên vào trước cung đình dâng công… Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền, Tên ghi gác khói, tượng truyền đài Lân. Nền huân tướng đai cân rạng vẻ, Chữ đồng hưu bia để ngàn đông… Nhưng than ôi: tất cả ước mơ đó chỉ là thứ bả vinh hoa mê hoặc chàng! Trên thực tế chàng đang phải dấn thân “vào nơi gió cát”, đang phải chịu đựng muôn vàn khổ ải cả về thể xác lẫn tinh thần: Nội không muôn dặm xiết sao dãi dầu. Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn, Dòng nước sâu ngựa nản chân bon. Ôm yên gối trống đã chồn, Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh... Não người áo giáp bấy lâu, Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây… Cứ thế, chàng kiệt quệ dần để rồi cuối cùng chạm trán với cái chết ghê rợn: Trải chốn nghèo (nguy) tuổi được bao nhiêu? Non Kì quạnh quẽ trăng treo, Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi… Nhưng dù chết, kẻ giáo điều chủ nghĩa vẫn không tự nhận thức được tấn bi kịch của đời mình, vẫn chấp nhận… bị bịp đến chết! Nếu chinh phụ cũng đồng quan điểm với chồng thì chẳng có vấn đề gì phải bàn, và tác phẩm chắc chắn sẽ không tránh khỏi tình trạng… nhạt như nước ốc! Thế nhưng các tác giả của Chinh phụ ngâm – những nhà nhân bản chủ nghĩa thực thụ của dân tộc Việt Nam, mang trong mình thiên chân và những yếu tố trí tuệ thuần khiết của con người Việt Nam – ngay từ phút đầu đã cảnh báo về thảm hoạ của chiến tranh, nhất là thảm hoạ mà người phụ nữ phải gánh chịu: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Và toàn bộ tác phẩm là sự bóc trần thực trạng đời sống – nhất là đời sống nội tâm tràn ngập đau buồn – của chinh phụ. Nỗi đau khổ của nàng phản ánh chính xác và đầy đủ nhất nhân bản đích thực của nàng. Chính cái nhân bản ấy đã khiến nàng có được một cảm quan, một cặp mắt thần để nhìn rõ bộ mặt hắc ám của chiến tranh, điều mà chồng nàng không nhìn thấy. Đối với nàng, chiến tranh chỉ là địa ngục, không hơn. Đối nghịch với quan điểm của bọn vua chúa, Chinh phụ ngâm đã vạch trần một sự thật: giấc mộng vinh quang của chinh phu chỉ là hư ảo, còn nỗi đau khổ vô cùng tận của vợ chồng chàng, gia đình chàng là sự thật. Trên thực tế, bọn vua chúa đâu có màng ngó đến những nỗi thống khổ của nhân dân: Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ? Mặt chinh phu ai vẽ cho nên? Có thể nói các tác giả đã chỉ “đích danh thủ phạm” gây nên nỗi thống khổ cho nhân dân, cho chinh phu và chinh phụ: đó chính là bọn vua chúa ích kỉ, tham tàn! Về nghệ thuật, Chinh phụ ngâm là tác phẩm thơ tiến Việt ưu tú vào bậc nhất của văn học cổ điển Việt Nam. Ngôn ngữ văn học dân tộc đã được nâng tới một trình độ tuyệt đỉnh. Mỗi câu thơ đều được cấu thành bởi những từ ngữ tinh xác về ý nghĩa, óng chuốt về hình thức, tuy được gọt giũa công phu nhưng lại không mắc căn bệnh “chạm sâu”, “khoe chữ” cầu kì diêm dúa của những thứ văn chương tầm thường. Nói cách khác, vẻ đẹp tuyệt trần của ngôn ngữ hoàn toàn nhắm vào mục đích tối cao: đặc tả thế giới khi thì hiện thực khi thì mang màu sắc lãng mạn, nhất là đặc tả thế giới tâm hồn vô cùng sống động của chinh phụ. Vừa sử dụng tiếng Việt một cách điêu luyện, vừa sử dụng thể thơ thuần túy dân tộc, bản diễn nôm Chinh phụ ngâm là tác phẩm văn chương bác học đạt tới tầm nghệ thuật đỉnh cao. Chính vì vậy mà Chinh phụ ngâm đã trở thành tác phẩm “thuộc nằm lòng”, trở thành máu thịt của người Việt Nam trong suốt mấy thế kỉ qua, giống như Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVIII với nguyên tác bằng Hán vǎn của Đặng Trần Côn, liền sau đó được Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn nôm (dịch thành quốc ngữ) Chinh Phụ Ngâm đã mau chóng đi vào lòng mọi tầng lớp quần chúng. Trải qua hơn hai thế kỉ rưỡi cho đến nay, Chinh Phụ Ngâm luôn giữ nguyên giá trị của một viên ngọc vǎn chương sáng ngời, một sản phẩm đáng tự hào của xứ sở vốn "nổi tiếng thi thư" (Lời của Nguyễn Trãi từ thế kỉ XV) Nguyên tác Chinh Phụ Ngâm bằng Hán vǎn của Đặng Trần Côn là một tác phẩm vǎn chương đặc sắc. Không những giới nho sĩ Việt Nam mà cả các bậc vǎn nhân Trung Hoa, đều yêu thích và khâm phục tác phẩm này. Bằng vǎn tài xuất sắc, Đặng Trần Côn sử dụng thể thơ tự do như "cổ phong" trong "Nhạc phủ" hoặc thể"từ" mà Khuất Nguyên và Lí Bạch từng sử dụng, để viết nên một tác phẩm trữ tình hiếm có, mô tả tâm sự sâu xa của một thiếu phụ vắng chồng. Vǎn chương trong Chinh Phụ Ngâm vô cùng diễm lệ, chứa chan tình cảm, uyển chuyển và đầy nhạc điệu. Trong số thi phẩm Hán vǎn của nền vǎn học nước ta, hiếm có tác phẩm sánh ngang được với Chinh Phụ Ngâm. Với Chinh Phụ Ngâm bằng quốc ngữ, xưa nay nhiều bậc thức giả uyên bác đã phân tích và đánh giá về nhiều phương diện. Vậy mà ngày nay những khám phá mới mẻ và sâu sắc hơn vẫn tiếp tục ra đời. Điều đó chứng tỏ Chinh Phụ Ngâm súc tích biết chừng nào về giá trị nội dung lẫn giá trị nghệ thuật. Thời Lê mạt (Cảnh Hưng) - Chúa Trịnh (Trịnh Giang, Trịnh Doanh) là một thời kì nhiễu nhương và thối nát. Bọn vua chúa hoang dâm, ích kỉ và tàn bạo đã đẩy dân chúng vào cảnh lầm than, điêu đứng. "Thượng bất chính hạ tắc loạn". Đất nước chìm đắm triền miên trong cảnh loạn lạc, máu lửa và binh đao. Hàng ngàn vạn gia đình phải rơi vào tình cảnh chia li tan tác, tạo nên số phận bi thảm của những chinh phu và chinh phụ. Nỗi đau thương tưởng chừng thấu tới tận trời xanh. Chinh Phụ Ngâm ra đời như tiếng than van thống thiết của con người, của tình yêu đôi lứa, của gia đình trong cái thời đại đen tối ấy. Trước hết, bằng sự bóc trần thực trạng đời sống - nhất là đời sống nội tâm tràn ngập sầu đau - của người chinh phụ, tác phẩm nêu lên một luận đề hết sức quan trọng của xã hội: Chiến tranh và Hoà Bình. Thuở trời đất nổi cơn gió bụi Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Chỉ hai câu thơ đủ cho ta thấy: Một khi chiến tranh xảy ra thì con người nói chung, và đặc biệt là người phụ nữ, lập tức bị đẩy vào nghịch cảnh, vào nỗi khổ đau vô tận. Chiến tranh mà Chinh Phụ Ngâm đề cập chỉ là chiến tranh mưu bá đồ vương, bảo vệ ngai vàng của bọn vua chúa phong kiến. Cách nhìn chiến tranh như vậy chứng tỏ tác giả Chinh Phụ Ngâm đã đứng vững như bàn thạch trên một lập trường duy nhất: Lập trường của chủ nghĩa nhân bản. Bằng lập trường tiến bộ đó, tác giả vạch trần mâu thuẫn giữa quyền lợi của quần chúng nhân dân với quyền lợi ích kỉ của bọn vua chúa. Khi người chinh phụ vắng chồng phải sống những tháng nǎm đằng đẵng trong đau khổ, còn người chinh phu ngoài chiến địa bị đẩy vào cảnh chết chóc: Non kì quạnh quẽ trǎng treo Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò Hồn tử sĩ gió ù ù thổi Mặt chinh phu trǎng dõi dõi soi Thì ở chốn triều đình bọn vua chúa chẳng biết đấy là đâu: Trên trướng gấm thấu hay chǎng nhẽ? Câu thơ "Mặt chinh phu ai vẽ cho nên" đã tố cáo thẳng thừng kẻ thủ phạm tạo ra tấn bi kịch của chinh phu và chinh phụ: Đó chính là bọn vua chúa. Vạch trần bộ mặt hắc ám của chiến tranh, Chinh Phụ Ngâm đồng thời diễn tả giấc mộng đê mê của chinh phụ: Giấc mộng đoàn viên. Liên ngâm đối ẩm đòi phen Cùng chàng lại kết mối duyên đến già Cho bõ lúc sầu xa cách nhớ Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình Giấc mộng đoàn viên của chinh phụ phản ánh khát vọng hoà bình của nhân dân ta trong thế kỉ XVIII loạn lạc và tang tóc. Rõ ràng Chinh Phụ Ngâm muốn khẳng định chân lí: Hoà bình là điều kiện tiên quyết của hạnh phúc con người và hạnh phúc lứa đôi. Với lập trường nhân đạo sâu sắc triệt để, Chinh Phụ Ngâm đi vào chiều sâu thǎm thẳm của tâm hồn một phụ nữ phương Đông và khắc hoạ nên một bức tranh về thế giới tâm hồn kì diệu ấy. Không một ai không cảm thán trước vẻ đẹp vô ngần về tình cảm, sự thuần khiết và cao quí về đức hạnh, sự mẫn tuệ và sự khả ái của nàng. Vẻ đẹp tuyệt vời của tâm hồn người con gái Việt Nam chúng ta đã gặp trong ca dao, dân ca, truyện nôm khuyết danh. ở Chinh Phụ Ngâm, chúng ta gặp lại vẻ đẹp ấy nhưng đã được nâng cao hơn một bậc đáng kể nhờ sự gia công của vǎn chương bác học. Chinh phụ tuy không tách rời hẳn cuộc sống của người bình dân: Con thơ mǎng sữa vả đương phù trì. Lòng lão thân buồn khi tựa cửa Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm... nhưng nàng có phong cách quí phái của giới thượng lưu; Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng Hoặc: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước Hoặc: Mượn hoa mượn rượu giải buồn... Ở đẳng cấp trên, lại có học vấn - như bản thân Hồng Hà nữ sĩ - tâm hồn chinh phụ dồi dào hơn, sâu và cao hơn, cả về tư tưởng lẫn tình cảm so với người phụ nữ bình dân. Đó chính là một nguồn suối tâm tư đầy ắp sản sinh ra thiên trường thi trữ tình Chinh Phụ Ngâm. Lần theo dòng suy nghĩ của chinh phụ, chúng ta không thể không thán phục khối óc mẫn tuệ cũng như sự nhạy cảm của trái tim nàng. Vượt trên những giáo điều phong kiến - những thứ lí luận xám xịt - nàng đặt một câu hỏi hết sức nhân bản: Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ Chàng há từng học lũ vương tôn Cớ sao cách trở nước non Khiến người thôi sớm thì hôm những sầu? Nàng hối hận vì có lúc nàng đã quá dại khờ: Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong. Và nàng đã khẳng định cái triết lí hạnh phúc "Tất cả ở đây, tất cả lúc này": Ấy loại vật tình duyên còn thế Sao kiếp người nỡ để đấy đây? Và: Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau. Thiếp xin chàng chớ bạc đầu Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung! Thiết tưởng những tư duy đầy nhân bản ấy của chinh phụ có thể làm cho các nhà nhân vǎn thời Phục Hưng và thời Khai Sáng ở phương Tây phải thán phục! Người chinh phụ là hình tượng cổ điển cao quí, tiêu biểu cho phẩm chất của phụ nữ Việt Nam mọi thời đại. Tình yêu của nàng với chồng không gì sánh nổi. Mặc dù sống cách đây hai thế kỉ rưỡi, hình như nàng đã tìm thấy tình yêu đích thực, song phương và hạnh phúc: Trang phong lưu đang chừng niên thiếu Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên. Toàn bộ bản trường ca là nỗi nhớ nhung, lo âu mong đợi, thương xót và khát khao, khiến biết bao thế hệ con người đã phải rơi lệ! Tuy sống trong nghịch cảnh nhưng cách ứng xử của nàng tỏ ra hơn hẳn những người đàn bà tầm thường như vợ Tô Tần ngày xưa: Thiếp chẳng dại như người Tô phụ Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương Khi về đeo quả ấn vàng Trên khung cửi dám dẫy duồng làm cao. Xin vì chàng xếp bào cởi giáp Xin vì chàng rũ lớp phong sương, Vì chàng tay chuốc chén vàng, Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng! Chinh phụ ngâm - cuốn nhật kí tâm hồn của một người chinh phụ - đã cho chúng ta thấy tầm vóc cao đẹp về tình cảm, đức hạnh và trí tuệ của người phụ nữ Việt Nam thế kỉ XVIII, không hề thua kém nàng Pénélope của Hy Lạp cổ đại trong tác phẩm Odyssée bất hủ của Homère. So với nàng - con người giữ được nhiều tính chất thiên chân - thì hình ảnh người chinh phu có phần mờ nhạt. Hình như trong đầu óc kẻ chinh phu phong kiến này đầy dẫy những giáo điều chết cứng. Chàng lao vào chiến tranh như một cái máy: Múa gươm rượu tiễn chưa tàn Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo, Chàng không ý thức được thực chất hành động xả thân của mình và chàng còn bị mù quáng bởi những bả vinh hoa: Non Yên tạc đá đề danh... Chính vì lẽ đó, kẻ nhìn rõ mặt trái của chiến tranh chính là người chinh phụ, chứ không phải là chinh phu, kẻ trực tiếp dấn thân "vào nơi gió cát"! Tuy nhiên lòng yêu chồng đã lấn át và bao trùm tất cả. Chinh phụ không một lời oán trách chồng. Phải chǎng điều đó cho chúng ta thấy một nét đẹp khác: đó là sự nhu thuận trong tính cách của nàng? Về nghệ thuật, Chinh phụ ngâm là tác phẩm tiếng Việt ưu tú vào bậc nhất của vǎn học Việt Nam. Với Chinh phụ ngâm, ngôn ngữ vǎn học dân tộc đã được nâng tới trình độ tột đỉnh. Mỗi câu thơ đều được tạo thành bởi những từ ngữ tinh xác, được gọt giũa công phu bởi một vǎn tài lớn. Những câu thơ đầy hình ảnh: Áo chàng đỏ tựa ráng pha Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. Những câu thơ tả cảnh chiến địa thê lương: Non Kì quạnh quẽ trǎng treo Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò Hồn tử sĩ gió ù ù thổi Mặt chinh phu trǎng dõi dõi soi. Cảnh thiên nhiên sầu thảm: Sương như búa bổ mòn gốc liễu Nước dường cưa xẻ héo cành ngô Giọt sương phủ bụi chim gù Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi. Những câu thơ tả "hình dong" người chinh phụ sầu não: Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng Lệch làn tóc rối lỏng vòng lưng co. Và trên tất cả là những câu thơ tả tình, tả mọi trạng thái tâm lí: Đưa chàng lòng dặc dặc buồn Hương gượng đốt hồn đà mê mải Gương gượng soi lệ lại chứa chan Sắt cầm gượng gẩy ngón đàn Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng. Ngôn ngữ Việt Nam vốn giàu sức biểu hiện, giàu hình dung từ tinh tế, đã được vận dụng vào trong tác phẩm một cách tài tình: Thét roi cầu vị ào ào gió thu Lá cờ bay ngùi ngùi Gà co óc gáy sương Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa Bến Ngân sùi sụt, cung trǎng chốc mòng Đôi khi Chinh phụ ngâm dùng ngoa ngữ. Đó là dấu hiệu cho thấy ngôn ngữ thơ đã vượt tới một tầm cao, bắt đầu phát huy tính chất "cuồng phóng" vốn ít có trong vǎn chương "khuôn phép"thời xưa: Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng Ôm đàn tranh mấy phím rời tay Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt Trống tiều khua như rứt buồng gan Võ vàng đổi khác dung nhan... Chinh phụ ngâm sử dụng thể thơ đặc thù của dân tộc, đã có sẵn trong nền vǎn học dân gian: đó là thể song thất lục bát, giàu nhạc điệu hơn thể thơ lục bát bởi hai vần trắc ở hai câu 7. Thể thơ này tỏ ra thích hợp cho những tác phẩm trữ tình, như "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, "Ai tư vãn" của Lê Ngọc Hân, "Tự tình khúc" của Cao Bá Nhạ, "Khóc Dương Khuê" của Nguyễn Khuyến... Một tác phẩm vǎn chương bác học, được sáng tạo bởi một thể thơ thuần tuý dân tộc: Đó là bằng chứng hùng hồn cho thấy tiềm nǎng to lớn của tiếng Việt. Đồng thời chính điều đó đã khiến Chinh phụ ngâm trở nên ưu việt, được quảng đại quần chúng tiếp nhận, tán thưởng và truyền tụng suốt từ đời nọ đến đời kia. Chinh phụ ngâm chuyển hoá một cách tài tình những điển cố và những câu thơ của vǎn học Trung Hoa sang tiếngViệt, làm giàu cho kho từ vựng ngô ngữ vǎn học nước nhà Chinh phụ ngâm còn sử dụng nhạc điệu vô cùng điệu nghệ khiến cho tác phẩm từ lúc ra đời đến nay dường như không phải để đọc mà là để ca, để ngâm ngợi... Với "AIR" giai điệu hoà thanh trầm sầu và da diết, có đổi thay theo từng trạng thái tâm hồn, ca khúc Chinh phụ ngâm đã làm say mê biết bao thế hệ con người... Vì những lí do đã nêu trên, Chinh phụ ngâm đã trở thành kiệt tác thi ca, và bản diễn nôm của Hồng Hà nữ sĩ được đánh giá là hay hơn cả nguyên tác Hán vǎn của Đặng Trần Côn.

Chinh phụ ngâm (征婦吟 Lời than vãn của người phụ nữ có chồng đi đánh trận), còn có tên khác là Chinh phụ ngâm khúc (征婦吟曲) là tác phẩm văn vần của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741 giai đoạn sơ kỳ Cảnh Hưng và về sau được nhiều người dịch ra thơ Nôm. Đây là thi phẩm chủ yếu viết theo lối tập cổ, dài 476 câu thơ[1]. Các câu thơ trong bài dài ngắn khác nhau, theo thể trường đoản cú, câu dài nhất khoảng 12, 13 chữ, câu ngắn chỉ 3, 4 chữ. Chinh phụ ngâm có hình thức là một lời độc thoại nội tâm mà vai chính, cũng là vai duy nhất đứng ra độc thoại trong truyện là một người vợ có chồng tham gia cuộc chiến do triều đình phong kiến chủ xướng, kể về nỗi khổ, nỗi cô đơn buồn tủi phải xa chồng. Tác phẩm mở đầu với khung cảnh của chiến tranh ác liệt và nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi người tham gia chiến cuộc. Trong bối cảnh này, nàng chinh phụ hình dung cảnh chồng nàng lên đường phò vua giúp nước, ra đi với quyết tâm giành hàng loạt thành trì dâng vua, hùng dũng trong chiếc chiến bào thắm đỏ và cưỡi con ngựa sắc trắng như tuyết. Cuộc tiễn đưa lưu luyến kết thúc, người chinh phụ trở về khuê phòng và tưởng tượng ra cảnh sống của chồng nơi chiến địa. Những xúc cảm về một hình ảnh "lẫm liệt" của chồng phút chia ly đã dần mờ nhòe, thay thế vào đó là nỗi lo sợ khủng khiếp về số phận của chồng giữa chiến trường khốc liệt, đầy oan hồn tử khí, và niềm đau khổ khôn nguôi về thân phận đơn chiếc của bản thân nàng. Trong phần tiếp theo, câu chuyện chủ yếu diễn tả tâm trạng trăn trở, cô quạnh của người chinh phụ. Đó là việc chồng quá hạn không về, cũng không có tin tức gì, và người chinh phụ đành phải tính thời gian bằng chu kỳ quyên hót, đào nở, sen tàn. Đó là tâm trạng "trăm sầu nghìn não" khi người chinh phụ quanh quẩn trước hiên, sau rèm, vò võ dưới đêm khuya vắng, đối diện với hoa, với nguyệt. Đó là tâm trạng chán chường khi tìm chồng trong mộng nhưng mộng lại buồn hơn, lần giở kỷ vật của chồng mong tìm chút an ủi nhưng sự an ủi chỉ le lói, thấy thân phận của mình không bằng chim muông, cây cỏ có đôi liền cành. Cuối cùng, chán chường và tuyệt vọng, người chinh phụ đã không còn muốn làm việc, biếng lơi trang điểm, ngày đêm khẩn cầu mong được sống hạnh phúc cùng chồng. Kết thúc khúc ngâm, người chinh phụ hình dung ngày chồng nàng chiến thắng trở về giữa bóng cờ và tiếng hát khải hoàn, được nhà vua ban thưởng và cùng nàng sống hạnh phúc trong thanh bình, yên ả

Sự lạnh lẽo và nỗi cô đơn bủa vây của người chinh phụ Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ bơ vơ chốn khuê phòng vắng lặng, lạnh lẽo, nỗi khổ tâm của nàng được bộc lộ qua hành động và ngoại cảnh: “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. Ngoài rèm thước chẳng mách tin, Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Người chinh phụ dạo bước trong hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước chân mình, như đếm từng ngày chồng đi. Những bước chân lặng lẽ của nàng nặng trĩu u sầu, đong đầy thương nhớ, như bước chân người cung nữ trong Cug oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều: “Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ”. Trong những buổi đi dạo của nàng không còn vẻ ung dung, an nhàn mà thay vào đó là sự ngán ngẩm, buồn chán – tâm trạng khác hẳn với Thúy Kiều khi bước đi tìm người yêu: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Nàng Kiều đi tìm tình quân trong niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn, còn người chinh phụ vừa đi vừa gặm nhấm nỗi cô đơn, lo lắng cho sự an nguy của người thân chốn biên ải xa xôi. Nàng hết dạo hiên, lại ngồi buồn, cuốn rèm, buông rèm. Những hành động vô nghĩa ấy được lặp đi lặp lại trong vô thức, nàng chẳng còn bận tâm mình đang làm gì bởi tâm trí nàng giờ dồn hết vào người chồng đang tòng quân. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ “vắng”, “thưa” vẽ ra không gian trống trải, thưa thớt tình thương yêu, càng tô đậm sự lẻ loi, buồn bã, bồn chồn của nhân vật trữ tình. Người chinh phụ không chỉ buồn nhớ, lo lắng cho chồng mà còn trông ngóng tin chàng. Nàng đợi tin lành của chim thước sẽ xoa dịu nỗi bất an, nhưng chim thước không tới. Nàng lại trỏ bóng đèn, hỏi đèn mà hỏi lòng. Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mòn mỏi trông chờ thì càng hụt hẫng, tuyệt vọng. Khát khao sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình của nàng càng khiến nàng đau đớn, thất vọng. Câu hỏi tu từ và điệp từ “rèm” lặp lại ba càng đẩy nàng vào bế tắc, cái bế tắc của xã hội phong kiến suy tàn, của triều đình loạn lạc khiến niềm tin của con người về tình yêu, hạnh phúc không còn giá trị. Chao ôi, người chinh phụ mới đáng thương làm sao! Khát khao chia sẻ thấu hiểu và nỗi nhớ thương chồng phương xa Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi bóng tối cô đơn tịch mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm bạn với bóng đèn: “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng? Đèn có biết dường bằng chẳng biết, Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên lời, Hoa đèn kia với bóng người khá thương.” Điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng”, “đèn có biết” khiến nỗi buồn đau, thương nhớ của người chinh phụ thêm da diết, day dứt. Trong tâm trạng đó, nàng đối diện với ngọn đèn dầu, mong muốn được thấu hiểu, được chia sẻ tâm tư… Khi phân tích Chinh phụ ngâm, ta thấy hình ảnh cây đèn dầu cũng xuất hiện trong những tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại khác. Ca dao có câu “đèn thương nhớ ai/ mà đèn không tắt”, thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của người con gái với người mình yêu. Trong Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Nương cũng lấy ngọn đèn dầu để xóa giải nỗi cô đơn khi Trương Sinh đi lính. Nhưng đến Chinh phụ ngâm, ý nghĩa biểu tượng của ánh đèn dầu không chỉ dừng lại ở đó. Đặng Trần Côn mượn cây đèn đang tàn mà ẩn dụ sự trôi đi nhanh chóng của thời gian, sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. Nhà thơ như đang muốn nói: cuộc đời chỉ là kiếp hoa đèn mong manh dang dở. Chính vì vậy, vật vô tri vô giác là cây đèn cháy đỏ khắc khoải, cháy đến tàn bấc dầu kia không những không thể đồng cảm với nỗi đau buồn, tình cảnh cô đơn, lẻ loi người chinh phụ mà càng khiến nàng vô vọng khôn cùng. Tâm trạng của nhân vật trữ tình được khắc họa bằng những tính từ chỉ cảm xúc: “bi thiết”, “buồn rầu”, “thương”. “Bi thiết” được hiểu là sự bi thương, thảm thiết. Từ “thiết” theo nghĩa Hán Việt còn có nghĩa là cắt, mài. Những suy tư muộn phiền của người chinh phụ khao khát được bộc lộ, được thấu hiểu. Nhưng trong tình cảnh cô độc vắng tẻ của nàng biết lấy ai để trút bầu tâm sự. Nàng chỉ biết dồn nén những cảm xúc ấy, cảm nhận nỗi đau như thể trái tim bị cứa, mài. Qua việc cảm nhận tâm sự của người chinh phụ khi đối diện với ngọn đèn, người đọc trầm trồ ngợi ca tài năng nghệ thuật trong miêu tả tâm trạng của tác giả! Ngọn đèn tắt, bỏ lại người chinh phụ cô quạnh trong đêm dài tịch mịch u sầu: “Gà eo óc gáy sương năm trống, Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.” Một đêm dài năm canh, người chinh phụ vì trông ngóng người chinh phụ, thức trọn năm canh, nghe tiếng gà gáy mà sợ hãi, buồn rầu. Cái âm thanh “eo óc” ấy thưa thớt, ghê rợn, tang tóc, khó chịu, từng tiếng từng tiếng vang lên rõ mồn một, đối lập với sự tĩnh lặng, trầm lắng trong tâm nàng. Tiếng gà gáy trong đêm gợi ra khoảng không mênh mông, hiu quạnh, khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên một nấc thang mới, khiến nó đau đớn hơn, cô độc hơn, dày vò nàng hơn. Không chỉ có tiếng gà gáy khiến nàng trằn trọc, bóng “hòe phất phơ” cũng khiến người chinh phụ suy tư, lo nghĩ. Vây quanh người chinh phụ là những bóng dáng mập mờ lay động trong đêm, như ẩn như hiện, như có như không. Từ láy gợi hình “phất phơ” càng tăng thêm tính mơ hồ, hư ảo của cảnh vật, của tin tức về người chồng ngoài biên ải, của những buổi đoàn tụ, sum họp gia đình trong mơ ước ấy, nàng càng mong chờ, càng cảm thấy xa xôi. Phân tích Chinh phụ ngâm, ta thấy hình ảnh cây hòe trong câu thơ trên gợi nhắc về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi: “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”. Cây hòe của Nguyễn Trãi đẹp, căng tràn nhựa sống, gợi nên sự vui tươi của buổi chiều mùa hạ, khác hẳn với vẻ buồn bã, u sầu của cây hòe đặt trong đêm khuya thanh vắng trong khúc ngâm của Đặng Trần Côn. Từ đó ta thấy nghệ thuật dùng từ của tác giả, từ tính từ “phất phơ” đến động từ “rủ”, tất cả mang sắc thái chán chường, ủ rũ. Trong không gian vắng lặng, thời gian đã đi qua màn đêm, người chinh phụ ôm nỗi nhung nhớ, thấm thía về bi kịch đời mình: “Khắc giờ đằng đẵng như niên, Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.” Vắng chồng, cuộc sống của người chinh phụ thật tẻ nhạt, buồn chán và nặng nề với những thương nhớ đong đầy từng khắc, cô đơn bủa vây từng giờ. Những ngày tháng này, thời gian trôi đi thật chậm chạp, như muốn gặm nhấm chuỗi ngày sầu bi của nàng. Một ngày không còn được đo bằng vài canh, mấy khắc, mà được tính đếm bằng cả năm dài “đằng đẵng”. Từ láy “đằng đẵng” kéo dài thời gian, kéo dài nỗi buồn và tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ có chồng ra trận. Nàng giờ ở vào hoàn cảnh của Kim Trọng khi thương nhớ Thúy Kiều: “Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!” Trong những ngày tháng khó khăn này, người chinh phụ ngẫm về cuộc hôn nhân dang dở, về cuộc đời không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, khiến nàng đã sầu lại càng sầu thêm. Quả đúng là “sầu đong càng lắc càng đầy”, nỗi buồn của người chinh phụ càng triền miên, không có hồi kết. Những gắng gượng để thoát khỏi nỗi cô đơn của người chinh phụ Người chinh phụ chán ghét thời gian trôi chậm chạp, cố vùng thoát khỏi chuỗi ngày cô đơn, lẻ loi dai dẳng: “Hương gượng đốt hồn đà mê mải Gương gượng soi lệ lại châu chan. Sắt cầm gượng gảy ngón đàn, Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.” Mong muốn xóa tan ưu phiền, người chinh phụ đốt hương nhưng lại không kìm được lòng mà mê man trong quá khứ. Trong đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Kim Trọng cũng đốt hương “Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương” để mùi hương trầm ấm áp làm chứng cho thời khắc quan trọng – hai người cất hẹn ước trăm năm. Người chinh phụ cũng bồi hồi nhớ lại lời hẹn thề năm nào. Mùi hương trầm đã vô tình đưa nàng trở về những tháng ngày hạnh phúc trước kia, để tâm hồn nàng lạc đi tìm những kí ức đẹp quá xa vời. Nhưng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp, nhân vật trữ tình càng thấm thía bi kịch hiện tại. Nàng trơ trọi, bơ vơ trong sự thật hiển nhiên: những mặn nồng xưa kia không thể lấy lại được. Có thể thấy, việc đốt hương vốn để tìm lại niềm thanh thản trong tâm hồn lại khiến người phụ nữ bé nhỏ, đáng thương và bơ vơ thêm thống khổ. Người chinh phụ đành tìm cách khác để giải tỏa tâm sự: nàng soi gương. Trong chuỗi ngày đợi chờ người chinh phu, người chinh phụ chẳng buồn đoái hoài đến phấn son hoa lệ: “Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?”. Nhưng đêm nay, mong muốn thoát khỏi nỗi cô đơn bủa vây, nàng gượng gạo cầm gương soi. Nàng giật mình xót xa cho dung nhan võ vàng của người phụ nữ trong gương kia. Nàng thương đôi mắt buồn chứa chan u sầu, nàng thương đôi môi chẳng thể nở một nụ cười nhạt, nàng khóc cho tuổi xuân héo tàn, cho dung mạo đang độ tươi thắm bị nỗi đau âm ỉ tàn phá. Nhưng những giọt lệ nào có thể giúp nàng cứu vãn được tình cảnh bi đát này. Tác giả sử dụng một loạt hình ảnh ước lệ như “sắt cầm”, “dây uyên”, “phím loan” tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, cho vợ chồng hòa hợp. Người chinh phụ lo sợ dây đàn đứt, báo điều chẳng lành về cuộc hôn nhân đang bị chia cắt, về người chồng ngoài chiến trường bặt vô âm tín. Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng gượng gạo, chán nản ở người chinh phụ, nàng vùng vẫy trong nỗi cô đơn nhưng lại bị chính nỗi cô đơn bóp chặt. Những thú vui của tầng lớp quý tộc kia giờ đây lại không thể đem lại cho nàng niềm vui. Hơn thế nữa chúng lại như liều thuốc kích thích khối u sầu khổ trong lòng nàng. Nàng chỉ mong được sum vầy mà thôi, nhưng buổi đoàn tụ trong tưởng tượng của nàng lại quá đỗi xa xỉ trong hoàn cảnh này.

Chiến tranh dù chính nghĩa hay phi nghĩa thì cũng để lại những mất mát đau thương. Nhưng nếu bỏ mạng nơi chiến trường vì một cuộc chiến phi nghĩa thì càng vô nghĩa lý hơn nữa. Đặng Trần Côn đã lên án, tố cáo chiến tranh thông qua số phận người chinh phu –số phận của người lính ra đi vì một cuộc chiến phi nghĩa. Tác giả không trực tiếp miêu tả, phản ánh, đề cập đến những nỗi đau, sự hy sinh của người chinh phu trên chiến trường khói bụi, mà gián tiếp qua cảm nhận, suy nghĩ, tưởng tượng, tiên đoán của người chinh phụ- người vợ chờ chồng mòn mỏi ở quê nhà trong vô vọng. Nam nhi mang chí lớn, khát khao và hy vọng ở sự nghiệp công danh. “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, người chinh phu sẵn sàng ra trận, đương đầu với những hiểm nguy phía trước vì nghiệp lớn công danh “thành liền mang tiến bệ rồng”. Người chinh phụ tiễn chồng ra trận, lòng tự hào và hy vọng. Hy vọng ở một tương lai tốt đẹp, rằng chàng lập công lớn, mang ấn phong trở về, rạng danh gia thất “khi về, đeo quả ấn vàng”. Người chinh phu tham gia cuộc chiến những mong giúp nước diệt giặc giúp dân, nào có biết tiếp tay cho chính quyền phong kiến đàn áp dân lành, nên áng công danh treo lửng trên đầu với bao hiểm nguy rình rập. Lúc chồng ra trận vì nghiệp lớn, người chinh phụ một mực tin tưởng : “ Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ; Ba thước gươm, một cỗ nhung an, Xông pha gió bãi, trăng ngàn, Mày reo đầu ngựa, sào dan mặt thành. Áng công danh trăm đường rộn rã, Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.” Rõ ràng rằng, trước những viễn cảnh huy hoàng công danh phía trước, kích thích chí lớn bậc trượng phu. Để rồi công danh, tước phong không thấy, chỉ thấy người vợ mòn mỏi ngóng trông chồng qua bao năm tháng với nỗi cô đơn lạnh lẽo, chồng biền biệt chốn sa trường không hay sống chết. Gía trị nhân đạo của tác phẩm là ở điểm này, với sức tố cáo mạnh mẽ, sâu sắc. “Xưa nay chiến địa dường bao, Nội không muôn dặm, xiết bao dãi dầu. Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn, Dòng nước sâu ngựa nản chân bon. Ôm yên, gối trống đã chồn; Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh.” Chiến trường ác liệt, không chỉ bởi quân thù mà còn bao mối hiểm nguy rình rập khác: “ Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ, Lại lạnh lùng những chỗ sương phong” Người chinh phụ ngóng đợi nơi quê nhà với nỗi nhớ, niềm thương khắc khoải, lo chàng thiệt thân: “ Những người chinh chiến mấy lâu, Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây” Chinh phu ngoài chiến địa đối mặt với thử thách, hiểm nguy và trước hết là cái chết. Ấn phong còn mù mịt ở phía trước nhưng tử thần thì treo lơ lững ở trên đầu. Bỏ lại đằng sau vợ góa, con côi, mẹ già yếu bơ vơ...Liệu cái áng công danh kia có đeo nỗi những mất mát, hy sinh mà chinh phụ đã trải qua, hay chỉ là cái mộng mờ ảo, xa vời? “ Non Kì quạnh quẽ trăng treo, Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Hồn tử sỹ, gió ù ù thổi, Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi. Chinh phu tử sỹ mấy người Nào ai mạc mặc nào ai gọi hồn!” Nếu như lửa đạn thương tình, thần chết tha bổng, người chinh phu được trở về đoàn tụ cùng gia đình, vợ con, thì hỡi ôi cái áng công danh kia đã cướp đi tuổi trẻ, hạnh phúc, sức lực,...chỉ còn là tuổi già và cái chết cận kề: “Phận trai già cõi chiến trường Chàng Siêu, tóc đã điểm sương mới về.” Nàng chinh phụ đã phần nào suy ra được nguyên nhân gây chia rẽ vợ chồng nàng, hiểu được vì sao mà chồng nàng phải xông pha nơi trận mạc với hy vọng trở về rất mong manh. Để nàng chờ đợi, nhớ mong trong cô đơn, buồn tuổi dằng dặc tháng ngày. Nhưng nếu một ngày chàng có được quay về thì tuổi trẻ của nàng và của chồng đã phí hoài và đời người dường như đã hết. Thời gian đã làm cỗi đi trái tim khát khao yêu thương hạnh phúc của đôi lứa. Khát vọng được đoàn tụ, được giữ lấy tuổi trẻ vang vọng trong từng câu thơ, khắc khoải đau buồn và day dứt lòng người “thiếp xin chàng chớ bạc đầu” và tự dặn lòng mình “thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung” Ngòi bút nhân đạo của tác giả đã hướng đến tố cáo cuộc chiến phi nghĩa, cùng với những mất mát thương đau, gắn liền với nỗi đau của người chinh phụ ở quê nhà và số phận của người chinh phu: Nếu không hy sinh nơi chiến trường hoặc đèo cao nước thẳm thì cũng bạc đầu già nua khi trở về. Như vậy, dù có rơi vào trường hợp nào, thì cũng để lại nỗi đau cho chinh phu, lẫn chinh phụ. VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI CHINH PHU Văn học Việt Nam mang một nội dung giá trị nhân đạo sâu sắc. Nội dung đó được biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Khi thì quằn quại đau thương trước những cảnh đời éo le, cơ cực, khi thì lên án mạnh mẽ cái thối nát tham tàn, vô luân của xã hội phong kiến và từ đó càng làm tôn lên vẻ đẹp của con người. Trong thơ ca văn học Việt Nam từ trước đến nay, có thể nói hình ảnh người chiến sĩ xuất quân ra trận rất nhiều như tác phẩm “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng Giang Phú” của Trương Hán Siêu… Nhưng có lẽ hình ảnh người chiến sĩ - người chinh phu trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” là đặc biệt hơn cả. Bởi hình ảnh người chinh phu trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” chỉ xuất hiện trong hồi ức, trong nỗi nhớ nhung của người chinh phụ. Tuy nhiên, qua hình ảnh người chinh phu này ta cũng có thể thấy hiện lên hình ảnh những người chinh phu trong xã hội phong kiến đương thời. Mặc dù xuất hiện với tần số tương đối ít nhưng nó lại có một giá trị vô cùng lớn trong việc tạo dựng lên giá trị nhân đạo cũng như tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật của chúng ta thuộc vào tầng lớp nào của xã hội xưa, đó là điều đầu tiên chúng ta phải tìm hiểu. Nhiều người trước đây cho rằng chinh phu là “người lính”, một số người dịch chung chung là “chiến sĩ”. Và “chàng phải là người có một địa vị nhất định” theo như nhận định của nhà phê bình văn học Đặng Thai Mai. Đúng vậy, chàng vốn là một người hào kiệt, đã từng theo bút nghiên nhưng nay vì “phép công” nên đành rời phòng sách, rời gia đình lên đường đi chiến đấu: “Chàng tuổi trẻ, vốn dòng hào kiệt Nép bút nghiên, theo việc cung đao” Hay: “Chàng há từng học lũ vương tôn” Ngày xưa, khi không có giặc ngoại xâm thì người trai trẻ thường theo học kinh nho để trau dồi kiến thức nhằm đi thi đỗ đạt danh gia, nhưng khi giặc ngoại xâm đến thì lại sẵn sàng gác lại việc đèn sách sớm khuya, lòng không vướng bận đến việc nhà cửa vợ con một long theo việc “đạo cung”. Chàng cũng có một hoàn cảnh gia đình rất cụ thể: “Mẹ già phơ phất mái sương, Con thơ măng sữa vả đương bù trì” Chàng còn có một mẹ già tóc đã bạc trắng như sương, chàng còn có con thơ đang tuổi măng sữa. Ấy vậy mà, chàng phải ra đi. Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện qua ý thức về tuổi trẻ của nhân vật. Nhân vật, người chinh phụ đã ý thức được vị trí, giá trị của tuổi trẻ trong đời mỗi người. Tuổi trẻ là điểm bắt đầu của mỗi người, là lúc mà người ta sống trong hạnh phúc và tình yêu, vậy mà chiến tranh (chiến tranh phi nghĩa) đã buộc chồng nàng phải xông pha nơi trận mạc khi đang tuổi niên thiếu: “phết phong lưu, đương chừng niên thiếu”. Như vậy, người chinh phu ở đây là “một chàng trai trẻ”, được rèn rũa trong khuôn khổ của nền giáo dục phong kiến. Trong buổi lên đường, người chinh phu xuất hiện như một người thanh niên lí tưởng của “chí làm trai”. Chàng mới xuất hiện đã mang theo cả một khí thế lẫm liệt khác thường, nổi bật trong đó là động tác: “Giã nhà đeo bức chiến bào, Thét roi cầu vị, ào ào gió thâu” Dù biết rằng ra chiến trường là rất có khả năng hi sinh “cổ lai chinh chiến, kỉ luân hồi”, thế nhưng đấng nam nhi vẫn tình nguyện ra đi. Hình ảnh lúc xuất quân mang tính ước lệ, tiêu biểu cho hình ảnh của những người quân sĩ thời phong kiến “hành quân trọng pháp khinh li biệt”: “Rượu thôi, múa cán Long tuyền, Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo” Tinh thần của chàng ngùn ngụt ý chí đánh giặc, đó là ý chí lập công của những người lính trong xã hội xưa. Cái chí khí hùng dũng của chàng khi quăng chén rượu li biệt, múa cây kiếm Long Tuyền (vốn là thanh kiếm quý của vua nhà Chu). Lại cầm ngang ngọn giáo chỉ vào hướng đich mà thề quyết. Một hình ảnh thật mạnh mẽ hào hùng, đúng là nam nhi Đại Việt. Giữa lúc mọi người đang bịn nịn thê noa, đang oán đang sầu, vậy mà chàng lại khí thế hùng hùng, lòng không vướng bận. Mà giờ đây chỉ có lòng rạo rực “tước phong”, hăm hở giết giặc lập công. Tuy có vẻ vô tình nhưng đó mới là hình ảnh của một người mới lớn, chưa hề có chút kinh nghiệm sâu sắc về cuộc đời. Nhưng có lẽ, thái độ hăm hở này của người chinh phu đã truyền sang cho người chinh phụ một phần nào đó sự “hào hùng”. Hình ảnh của chàng hôm đó hiện lên thật đẹp và hào hùng qua con mắt của người chinh phụ: “Áo chàng đỏ tựa ráng pha, Ngựa Chàng sắc trắng như là tuyết in” Hào hùng thay khi chàng mặc chinh phục màu hồng của ráng và cưỡi con ngựa kiêu hùng sắc trắng như tuyết, ngựa đeo nhạc đầy đủ yên cương. Hình ảnh hiện lên qua con mắt u sầu của người chinh phụ, nhưng qua đó cũng phần nào thể hiện một ý vị tự hào khi giữa “đám ba quân”, chồng của mình như nổi bật lên hơn cả. Ở đây, hình ảnh người chinh phu thật giống với những nhân vật trữ tình trong giai đoạn văn học trước, mỗi nhân vật trong tác phẩm đều là những người mang tính khái quát, cảm xúc chủ yếu xoay quanh vấn đề cứu nước, giúp dân. Bên cạnh những con người khái quát ấy trong tác phẩm ta cũng thấy hiện lên một chinh phụ cụ thể. Đó là một con người riêng trong cái chung của xã hội phong kiến. Chính cái khí phách hào hùng của chàng đã khiến ta có lúc quên rằng đây là tiếng lòng tha thiết của người chinh phụ có chồng đi chiến đấu. Rồi đến lúc phải chia tay, tiễn chồng ra đi mà lòng sao vắng. Người ở, kẻ đi cùng mong ngóng nhau, chàng ngóng nàng từ Hàm kinh, nàng thì ngóng chàng từ bến Tiêu tương. Chính vì thế đến lúc phải ra đi, dù chí có lớn nhưng long còn bịn rịn: “Chốn Hàm kinh, Chàng còn ngảnh lại, Ngác Tiêu tương thiếp hãy trông sang …Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy …Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai” Cái khác nhau so với những con người xã hội trong từng thời kì phong kiến là ở chỗ đó. Xã hội phong kiến vốn chiết tỏa tình cảm của con người trong mọi mối quan hệ. Vì thế ta khó có thể bắt gặp được hình ảnh một con người vừa oai phong hùng dũng, vừa đậm đà cảm xúc yêu thương như ở đây. Tuy nhiên, chàng đã không để tình cảm này chi phối vì với một nam nhi sống trong xã hội phong kiến đương thời xưa việc phò tá giúp vua, giúp nước luôn được đặt lên hàng đầu. Là kẻ trượng phu, chàng có cái chí tung hoành nghìn dặm, nếu có hi sinh thì lấy da ngựa bọc thây nơi trận địa. Tính mạng mình vốn phải được coi trong như núi Thái Sơn nhưng vì vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc chàng đã coi tính mạng của mình nhẹ tựa lông hồng: “Những người chinh chiến mấy lâu, Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây” Là một đấng trượng phu với tư tưởng “xả thân vì nghĩa lớn” là người quân tử, chàng ra đi với hoài bão được giúp đời, giúp người. Nhưng thực tế, như đã phân tích ở trên, đây là một cuộc chiến tranh phi nghĩa, những người lính ở đây, họ đang bị xô đẩy vào những hành động phi nghĩa, vậy mà không có một mâu thuẫn tinh thần nào ở đây, nó mới thật xót xa làm sao. Dù vẫn biết đi lính là gian khổ, nhưng ở đời, làm thân nam nhi thì phải sống sao cho ra mặt một đấng nam nhi đại trượng phu. Nên tinh thần của chàng vẫn ngùn ngụt ý chí quyết tâm đánh giặc: “Chàng từ đi vào nơi gió cát, Đêm trăng này nghỉ mát phương nao? Xưa nay chiến địa đường bao, Nội không muôn dặm, xiết sao dãi dầu…”. Biết rằng, ra đi cũng chẳng biết có đâu ngày trở về, nhưng khí phách trong chàng vẫn luôn thể hiện với thái độ hết sức cương quyết và hùng dũng: “Nực hơi mãnh, ơn dày như trước” Thế nhưng, liền ngay sau đó, lại thốt lên một tiếng thở dài tuyệt vọng: “Trải chốn nghèo tuổi được bao nhiêu.” Người chinh phụ cũng hiểu được rằng, khi đã ra chiến trường, thì sống hoặc chết đối với người lính không quan trọng. Họ có thể bỏ mạng ngoài chiến trường hoặc cũng có thể là trở về sau mái tóc đã điểm sương: “Phận làm trai già cõi chiến trường Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về” Tuy nhiên, với phần lớn kẻ sĩ ngày xưa việc ra đi phò tá giúp vua, giúp đời cũng là mong muốn “dĩ thánh hiền lập môn”, tức là mong muốn lập được nhiều công lớn, được ghi tên công danh, làm rạng rỡ gia phong, cho con cái được hưởng chức tước, lợi lộc: “Tài so Tần, Hoắc, vẹn tuyền, Tên ghi gác Khói, tượng truyền đại Lân. Nền huân tướng đai cân giại vẻ Chữ đồng hưu bia thẻ nghìn đông. Ở trên : tử ấm thê phong; Phần vinh, thiếp cũng đượm chung hương trời.” Có thể nói, vẻ đẹp của người chinh phu không chỉ được thể hiện qua khí phách, ý chí, công danh mà vẻ đẹp đó còn đáng được tôn vinh hơn khi ở xa, nơi chiến trường mà chàng vẫn là một người giàu tình cảm. Tuy nhiên, ẩn sau mỗi ý chí kiên cường, hoài bão ấy là nỗi sầu lo của người chinh phụ. Hình ảnh chiến trường và người chinh phu ngoài chiến trường là bức tranh đen tối, hoàn toàn đối lập với những cảnh thấy trong cảnh xuất chinh. Chiến trường là không gian vô định, hình khe thế núi hiểm trở, không khí lạnh lẽo, thê lương, luôn gợi lên sự chết chóc thảm thương. Người ra trận bị cuốn vào những buổi hành quân, những trận đánh liên miên đầy gian lao, nguy hiểm, số phận của họ thì hết sức mỏng manh, nếu may mắn sống sót trở về thì mái tóc cũng đã bạc trắng. Giữa cảnh chiến trường ảm đạm, hiện lên hình ảnh chinh phu với bộ mặt sầu não, mệt mỏi phản ánh trạng thái tinh thần, bi qan, tiêu cực. Có lẽ chính bởi thế đã làm cho hình ảnh của người chiến sĩ ở đây khác với những tác phẩm khác. Nếu như trong “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão, những người chiến sĩ hiện lên là những người trẻ tuổi tinh thông võ nghệ, khí thế mạnh mẽ đã nhiều năm tận tụy đánh giặc cứu nước, họ mang trong mình hoài bão công danh sự nghiệp cháy bỏng. Nguyên nhân của sự khác nhau ở đây là do tính chất của cuộc chiến tranh quyết định. Cuộc chiến tranh trong “Chinh phụ ngâm” là cuộc chiến tranh phi nghĩa, người ra trận toàn là nạn nhân, vì vậy họ nhìn chiến tranh một cách bi quan đen tối. Ngược lại, trong thơ văn yêu nước, đó là cuộc chiến tranh chính nghĩa nhằm bảo vệ tổ quốc, vì thế họ luôn có tinh thần chủ động, niềm tin tưởng, lạc quan ở chiến thắng. Vẻ đẹp hùng dũng của người chinh phu không những được hiện lên qua ý chí quyết tâm lên đường đánh giặc, hoài bão giết giặc lập công mà còn được hiện lên bởi tình cảm yêu thương của chàng. Chàng hiện lên vừa là một người oai phong lẫm liệt vừa là con người của sự yêu thương. Tuy rằng ở đây, tác giả phải mượn những suy nghĩ của người chinh phụ để phác họa lên hình ảnh của người chinh phu nhưng nó đã không làm phai nhạt đi bóng dáng hiên ngang, hào hùng với một tấm lòng yêu thương đằm thắm. Trong tâm chí chàng vẫn không ngừng nuôi giấc mơ đoàn viên, trong những bức thư gửi về cho vợ chàng cũng nhiều lần hẹn ngày về: “Thuở lâm hành, oanh chưa khắn liễu, Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca” …. “Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió; Hỏi ngày về chỉ độ đào bông” Chàng hẹn thề, khi oanh ca, khi đào nở chàng sẽ trở về. Thế nhưng, sự thật phũ phàng thay, chẳng thấy chàng đâu, chỉ còn lại đây nỗi nhớ sầu muộn của vợ chàng mà thôi. Như vậy, thông qua vẻ đẹp hào hùng, những tấm lòng thầm kín của chinh phu đã tạo dựng nên được một bức tranh mang đậm tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đó là một con người đẹp cả về thể chất lẫn tâm hồn, vẻ đẹp đó đã được tôn vinh qua nhiều thế kỉ và cho đến tận ngày nay, nó còn sống mãi trong lòng bạn đọc.

Trong tập Giảng văn Chinh phụ ngâm xuất bản ở Thanh Hoá năm 1950, Giáo sư Đặng Thai Mai có viết: “Sự thực, thì hai trăm năm sau khi tập Chinh phụ ngâm đã được viết bằng chữ Hán và phu diễn vào trong hình thức Việt văn của nó, người ta chỉ biết có một bài chinh phụ, người ta chỉ nhớ đến một khúc ngâm chinh phụ: ấy là Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm”. Đây là một nhận xét đúng đắn, xuất phát từ thực tế nghiên cứu văn học, từ thực tế dư luận thống nhất của nhân dân ta hơn 200 năm nay về dịch giả Chinh phụ ngâm khúc. Thế thì, tại sao hôm nay vấn đề lại đưa ra bàn lại? Nguyên do như sau: Báo Nam phong số 106 tháng 6 năm 1926 có đăng một bài nhan đề “Phan Dụ Am tiên sinh văn tập” của ông Đông Châu. Trong bài đó, tác giả có viết: “Chinh phụ ngâm khúc bấy lâu nay ta vẫn truyền là bà Điểm diễn Nôm, dễ thường không phải, mà chính là của cụ Phan Huy Ích diễn ra đó chăng?” Mối ngờ này được đặt ra một cách hết sức dè dặt là vì “Tôi - lời ông Đông Châu – có tiếp thư ông Phan Huy Chiêm cũng là con cháu về họ Phan nói rằng cứ tra cứu trong Phan gia tộc phả cùng lời các cụ phụ lão trong họ Phan truyền lại, thì bài Chinh phụ ngâm bằng Hán văn là của ông Đặng Trần Côn, người làng Nhân Mục làm ra, mà cụ Phan Huy Ích dịch ra văn Nôm, hiện nhà họ Phan còn giữ được bản chính vừa Chữ vừa Nôm, và khi phiên dịch xong bài Chinh phụ ngâm, có làm bài thơ ngẫu thuật bằng chữ Nho rằng: Nhân Mục tiên sinh “Chinh phụ ngâm”, Cao tình dật điệu bá từ lâm. Cận lai khoái trá tương truyền tụng, Đa hữu thôi xao vi diễn âm. Vận luật hạt cùng văn mạch tuý, Thiên chương tu hướng nhạc thanh tầm. Nhàn trung phiên dịch thành tân khúc, Tự tín suy minh tác giả tâm. (Ông Đặng Trần Côn người làng Nhân Mục làm ra bài Chinh phụ ngâm bằng chữ Nho, từ điệu cao kỳ đã truyền bá ở chốn từ lâm. Ai cũng truyền tụng, lấy làm khoái chá lắm, đã có nhiều người thôi xao diễn ra ca Nôm. Nhưng theo về âm luật thì dịch sao cho hết được cái tinh tuý trong mạch văn, vậy phải theo thiên chương mà hiệp với âm nhạc mà diễn ra mới được. Nay nhân buổi nhàn đã dịch ra thành khúc mới, tin chắc rằng suy minh được bụng tác giả). Bức thư của ông Phạm Huy Chiêm cùng với bài thơ trên đây quả đã làm cho ông Đông Châu phải ngờ, nhưng chưa làm cho ông đủ tin nên ông kết luận: “Ước mong ông Huy Chiêm sẽ lai cảo lục đăng dần để giữ một nền văn cổ, và làm khảo chứng cho sử học nước nhà về sau này”. Bài báo không có tiếng vang trong dư luận, và lời ước mong kia của họ Nguyễn cũng không được họ Phan đáp lại. Năm 1943, ông Hoa Bằng mới trở lại vấn đề này với bài “Dịch phẩm Chinh phụ ngâm phải chăng của bà Đoàn Thị Điểm?” đăng trên tạp chí Tri tân số 113. Bài báo đã dựa vào ba tài liệu chủ yếu: Lịch triều hiến chương loại chí, Tang thương ngẫu lục và Đoàn thị thực lục. Nhưng cả ba bộ sách đều không cho được một ánh sáng nào để giải quyết vấn đề cả. Cuối cùng ông chỉ xác nhận một điều là: Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích đều có dịch Chinh phụ ngâm khúc. Còn như bản Chinh phụ ngâm khúc hiện hành là của ai? thì không giải quyết được. Ông Hoa Bằng đã kết luận: “Trong khi chưa đủ chứng cớ mà phán đoán cái án văn học này vì chưa tìm được những nguồn chắc chắn để giải quyết bản dịch Chinh phụ ngâm hiện hành là của bà Đoàn Thị Điểm, thì thiết tưởng nên đề chữ ‘khuyết danh’ ở bản dịch”. Một năm sau, ông Trúc Khê lại quay về tìm ở nhà họ Đoàn với bộ Đoàn thị thực lục – gia phả của họ Đoàn. Kết quả cũng không biết gì hơn, vì Đoàn thị thực lục không nói gì đến việc bà dịch Chinh phụ ngâm khúc cả - và ông cũng chỉ có thể kết luận: “Bản dịch Chinh phụ ngâm khúc có thể không phải là của bà Đoàn Thị Điểm (Trúc Khê: “Những tài liệu mới về Đoàn Thị Điểm”. Tiểu thuyết thứ bảy, 9-1944). Đến năm 1953, công việc đã đến tay ông Hoàng Xuân Hãn. Trong Chinh phụ ngâm bị khảo, xuất bản năm ấy tại Pa-ri, ông Hãn đã sưu tầm được bốn bản Chinh phụ ngâm khác nhau và một số bản phỏng tác khác. Trên cơ sở bốn bản Chinh phụ ngâm khúc này, ông đã thống kê, phân tích và đi đến kết luận rằng: bản Chinh phụ ngâm khúc hiện hành là bản của Phan Huy Ích. Cho xuất bản cuốn Chinh phụ ngâm bị khảo, ý chừng ông muốn giải quyết cho xong xuôi vấn đề - và chính ông cũng tin như thế. Điều đó chúng ta có thể thấy rõ ở bài tựa cuốn Bị khảo của ông. Còn có thể kể một số bài bản khác nữa về vấn đề trên, nhưng phần nhiều không ngoài những quan điểm đã giới thiệu. II. KHẢO SÁT LẠI NHỮNG GIẢ THUYẾT CỦA VẤN ĐỀ Như phần trên chúng tôi đã trình bày, những người nghiên cứu trước đây đều không ngờ vực gì cả về một việc này: Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích, cả hai người đều có dịch Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn. Trong Chinh phụ ngâm bị khảo, ông Hoàng Xuân Hãn đã sưu tầm được bốn bản dịch Chinh phụ ngâm khúc được sắp xếp đánh dấu theo thứ tự A, B, C, D (chúng tôi sẽ giữ nguyên cách đánh số này). Và, theo ông: - Bản A, bản Chinh phụ ngâm khúc, hiện hành là của Phan Huy Ích. - Bản B, là của Đoàn Thị Điểm, vì bản này ở đầu sách có ghi hai chữ “nữ giới”, ý nói đó là do đàn bà diễn ca (tr.27). - Bản C, bản của Nguyễn Khản. Vì Đoàn thị thực lục có chép: chỉ có nhà Nguyễn Nghiễm tàng trữ các tác phẩm của Đoàn Thị Điểm mà thôi, và xem thế thì biết rằng họ Nguyễn chuộng thi văn của bậc tài tử, mà trong đó chắc có bài Chinh phụ ngâm khúc diễn ca. Nhân đó, nếu Nguyễn Khản có ý đem Chinh phụ ngâm mà tái diễn, thì cũng không vô lý (tr.24). - Bản D, không biết là do ai dịch. Bản này chỉ là một bản đã phiên âm ra chữ Quốc ngữ. Lời văn kém hơn các bản kia. Những người chủ trương cho là của Phan Huy Ích, luận cứ của họ có thể quy lại đầu đủ như sau: 1. Gia phả của họ Phan. Vì trong gia phả có chép: “Ông lại từng diễn Chinh phụ ngâm khúc. Nay từ các bậc danh nhân văn sĩ cho đến trai gái thôn quê ai mà không đọc”. Hiện nay có một số người họ Phan còn thuộc cả khúc ngâm, chỉ có khác bản hiện hành 13 vế (Bản Quốc ngữ ông Huy Chiêm ghi lại gửi cho ông Hãn vào mùa hè năm 1952 thì khác 13 vế, nhưng một người khác của họ Phan được cho anh Lại Ngọc Cang vào tháng 8-1961, thì khác 21 vế và có một vài chỗ khác với cả 13 vế của ông Huy Chiêm đã ghi) và theo tương truyền các cụ theo bản đó là của Phan Huy Ích. 2. Bài thơ Ngẫu thuật của Phan Huy Ích, vì qua thơ ngẫu thuật đó họ Phan đã nói lên quan điểm dịch của mình, và quan điểm đó lại được thể hiện rất rõ trong Chinh phụ ngâm khúc, bản hiện hành. 3. Bản A (bản hiện hành) gần với ta hơn trong thời gian. Vì bản A ít có tiếng cổ, về cú pháp hầu như đã rũ sạch ảnh hưởng của cú pháp tiếng Hán. Và đặc biệt là thi pháp và thể loại, thì ở bản A đã đạt đến một trình độ hoàn thiện nhất. Nó chỉ có thể xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX. Ở thế kỷ XVIII thể loại này chưa đạt đến trình độ hoàn hảo như bản hiện hành được. 4. Đoàn Thị Điểm đã có một bản Chinh phụ ngâm khúc diễn ca khác: ấy là bản có hai chữ “nữ giới” ở đầu sách, vì hai chữ đó, ý nói là do đàn bà diễn ca. Dưới đây, khi đi vào phần khảo sát cụ thể từng luận cứ một mà chúng tôi gọi là “giải thuyết”, chúng tôi đặc biệt chú ý đến: + Sự phát triển của văn học chữ Nôm thế kỷ XVIII. Thế kỷ XVIII là thế kỷ của song thất lục bát. + Vai trò của nhà văn lớn trong việc sử dụng ngôn ngữ đối với một giai đoạn văn học nhất định. + Đặc thù của văn học Việt Nam, cần xét nó trong khi đề cập đến vấn đề ngôn ngữ để xác định thời điểm xuất hiện của một tác phẩm văn học. 1. Gia phả của họ Phan. Quả gia phả họ Phan có chép: “Ông lại từng diễn Chinh phụ ngâm khúc. Nay từ các bậc danh nhân, văn sĩ, cho đến trai gái thôn quê, ai mà không đọc”. Nhưng từ những lời đó mà đi đến kết luận rằng: “Bài diễn ca được phổ truyền như vậy là bản “A” (Chinh phụ ngâm bị khảo tr.27) thì cũng cần bàn lại. Gia phả họ Phan viết về Phan Huy Ích chắc chắn là phải vào sau khi ông mất (1822) – mà dù cho có viết trong sinh thời của ông, nghĩa là trước cái mốc 1822 bao lâu cũng được – thì như thế có nghĩa là: từ năm 1804 (năm giả thiết Phan Huy Ích dịch Chinh phụ ngâm khúc) đến năm 1822, Chinh phụ ngâm khúc được phổ biến rộng rãi với tên dịch là Phan Huy Ích (vì bản của Đoàn Thị Điểm không được phổ biến!), nhưng từ năm 1822 đến năm 1902, không hiểu vì lẽ gì mà trong dư luận lúc bấy giờ người ta lại cho là của Đoàn Thị Điểm, để cho Vũ Hoạt năm 1902 khắc in bản Long Hoà, trong bài mở đầu có nói: “Nhớ xưa Đặng tiên sinh làm sách ấy, Đoàn phu nhân diễn ra Quốc âm”. Và rồi từ đó về sau nhân dân ta cứ vẫn mặc nhiên công nhận bản Chinh phụ ngâm hiện hành là của Đoàn Thị Điểm. Sự thực, thì trong nhiều trường hợp, và thường là thế - cái “bia miệng” còn có hiệu lực, còn phản ánh đúng gấp mấy lần cái bia của sử sách. Lại nữa, ai chép gia phả họ Phan, thái độ của người chép ra làm sao. Đó cũng là những vấn đề cần được chú ý cân nhắc. Và cho đến nay, cả chúng ta và cả đến những nhà nghiên cứu văn học có uy tín cũng vẫn băn khoăn khi có người trở lại vấn đề này và cho là của Phan Huy Ích. Tại sao vậy? Không phải bởi tại dư luận bao đời nay có cảm tình riêng gì đối với Hồng Hà nữ sĩ, bởi tại chúng ta chịu ràng buộc về cái dư luận ấy, mà chính là khúc ngâm hiện hành về tình và lý chỉ có thể là của Đoàn Thị Điểm. Văn là người - một người đàn ông suốt đời làm quan như Phan Huy Ích người đàn ông suốt đời làm quan như Phan Huy Ích thì khó mà có mối cảm tình, có mối cảm xúc sâu sắc biểu lộ ra trong cái văn của bản Chinh phụ hiện hành. Để tâm hồn cho thật yên tĩnh, chúng ta đọc lại thật kỹ bản A và cả bản B, chúng ta thấy rõ cái cảm tình trong bản Am bản hiện hành - chỉ có thể xuất phát từ cái từng trải nhân tình thế thái trong suốt cả cuộc đời sống gần gũi với quần chúng nhân dân của tác giả. Chúng tôi xin lấy hai câu mở đầu làm thí dụ: Bản A: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Bản B: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, Khách hồng nhan nhiều nỗi truân chuyên. Xin các bạn chú ý hai chữ má hồng với hồng nhan ở hai câu thất bình ở hai bản. “Má hồng” với “hồng nhan” là một, “má hồng” chỉ là tiếng dịch của “hồng nhan”. Nhưng không phải đơn giản như thế. Trong quan niệm của nhân dân ta suốt bao đời nay, “má hồng” với “hồng nhan” vẫn có chỗ khác nhau rất rõ. Hai tiếng này không bao giờ lẫn lộn làm được cả. “Hồng nhan”, nghe như có cái gì khinh bạc, rẻ rúng ở bên trong: “Hồng nhan” bao giờ cũng đi đôi với “bạc mệnh”. Hai cái như hình và bóng. Như vậy, rõ ràng là khi để chữ “má hồng”, ở bản A, Đoàn Thị Điểm rất có ý thức về mình, về cả cái giới của mình, và qua đó để lộ một mối thông cảm, một sự cảm xúc vô cùng sâu sắc, vô cùng quý báu. Và “hồng nhan” ở đây (ở bản B) chỉ có thể là quan niệm của người đàn ông quen xem nhẹ “đàn bà”, bàng quan trước mọi tâm tư tủi nhục của họ trong xã hội cũ! Lý thú ở đây là còn ở chỗ, ở bản C mà ông Hoàng Xuân Hãn cho là của Nguyễn Khản cũng để chữ “hồng nhan”. Nẻo trời đất nổi cơn gió bụi, Kẻ hồng nhan nhiều nỗi truân chuyên. Tôi muốn các bạn lưu ý đến câu bát của bản A: “Vì ai gây dựng cho nên nỗi này”, và câu bát bản B: “Mấy ai gây dựng nhân duyên lỡ làng”, và xa hơn các ví dụ tương tự rải rác ở trong bản B để thấy rõ vấn đề hơn. Vấn đề đó là: Chỉ có Đoàn Thị Điểm một tâm hồn, một người đàn bà mới có được cái bút pháp, cái phong cách biểu lộ một mối cảm xúc vô hạn đối với người đàn bà như ở bản A, bản hiện hành. Chúng ta có thể xem một số thí dụ khác ở tập Truyền kỳ tân phả, tác phẩm của nữ sĩ. Giờ xin nói đến việc thuộc Chinh phụ ngâm của một số người của nhà họ Phan, và bản Quốc ngữ ông Huy Chiêm ghi gửi cho ông Hoàng Xuân Hãn vào năm 1952 khác bản hiện hành 13 vế. Một thực tế hiển nhiên ai cũng thấy được là trong những tác phẩm văn học trước đây, thì Chinh phụ ngâm khúc (bản hiện hành) là tác phẩm được nhân dân trong cả nước yêu mến và trân trọng sau Truyện Kiều của Nguyễn Du. Vì thế việc thuộc lòng Truyện Kiều cũng như thuộc lòng Chinh phụ ngâm, đối với chúng ta không có gì lạ. Và từ đó, chúng ta cũng thấy được dễ dàng rằng, cũng như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm khúc cũng đã trải qua rất nhiều lần “nhuận sắc” của nhân dân qua bao đời nay rồi. Nay chúng ta chỉ cần lấy các bản Chinh phụ ngâm Quốc ngữ đã được in ra trên giấy trắng mực đen đối chiếu với nhau, cũng thấy dễ dàng điều đó. Huống hồ Chinh phụ ngâm khúc nằm trong thời lưu truyền bằng miệng, hay với một bản Nôm trước đây. Điều này ta thấy rất rõ ngay trong những người nhà họ Phan thuộc Chinh phụ ngâm khúc: ông Huy Chiêm ghi lại cho ông Hoàng Xuân Hãn chỉ khác 13 vế, nhưng có người khác lại đọc cho anh Lại Ngọc Cang nghe thì khác đến 21 vế, và khác cả ngay với số 13 câu khác kia mà ông Hãn đã công bố trong cuốn Chinh phụ ngâm bị khảo. Không chú ý đúng mức đến tình hình đó, mà chỉ căn cứ vào việc “ghi”, “thuộc” và “khác” này để làm căn cứ đoán định bản hiện hành là của họ Phan là không thích đáng. Ngoài ra còn có một số câu hỏi cũng cần đặt ra ở đây: Bản Chinh phụ ngâm chữ và Nôm mà nhà họ Phan còn giữ được như ông Phan Huy Chiêm đã nói từ năm 1926 tại sao không thấy có trong Dụ Am văn, thi ngâm tập là bộ “toàn tập” của Phan Huy Ích hiện có? Bảo rằng Phan Huy Ích không thể cùng vào mấy tập này vì ý định đóng riêng ra thành một quyển, sợ để gộp vào, tập sách dày quá. Điều đó có lẽ không đúng, vì với khổ lớn của các tập sách của Dụ Am, thì có thêm Chinh phụ ngâm vào cũng chỉ dày thêm 8 tờ. Hơn nữa sách Dụ Am cũng không dày là bao, quyển dày nhất chưa đến 2cm. Hay vì Phan Huy Ích dù sao cũng là một người có tội với triều Nguyễn nên không muốn để gộp vào? Cũng không phải. Vì trong tập Dụ Am thơ văn, văn tế viết hồi triều Tây Sơn còn có ghi đủ cả theo thứ tự năm làm mà xếp thành sách. Nghiên cứu các tập sách của Dụ Am, chúng tôi thấy nhà họ Phan rất có ý thức bảo vệ di sản của tổ tiên, bảo vệ quyền tác giả của những tác phẩm của họ Phan. Còn như việc người nhà họ Phan cho rằng bản dịch Chinh phụ ngâm khúc hiện hành là bản của Phan Huy Ích, vì người nhà họ Phan (mà trước đây cả chúng ta nữa) chỉ biết theo như trong gia phả đã ghi, cho nên các cụ tin như thế cũng dễ hiểu. Không những các người nhà họ Phan hiện nay đã nhầm điều đó, mà ngay cả người chép gia phả họ Phan trước kia cũng nhầm như các cụ hiện nay nên đã ngộ chép vào gia phả như thế. Điều đó không phải là hiếm ở văn gia phả của ta. Vì thế mà, qua gia phả họ Phan càng làm cho chúng ta ngờ về việc Phan Huy Ích là dịch giả bản Chinh phụ ngâm khúc hiện hành, và càng thấy rõ Đoàn Thị Điểm là dịch giả khúc ngâm. 2. Bài thơ Ngẫu thuật của Phan Huy Ích: như đã trình bày ở phần I, trong Dụ Am ngâm tập (ký hiệu Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm là A.603), tờ 60a-b có chép bài Tân diễn Chinh phụ ngâm khúc thành ngẫu thuật. Qua bài ngẫu thuật này, các nhà nghiên cứu trước đây đều thống nhất ở một điểm nhất định: Phan Huy Ích có dịch Chinh phụ ngâm khúc, nhưng vấn đề mấu chốt là bản dịch của Phan Huy Ích là bản nào? Số người chủ trương bản Chinh phụ ngâm khúc hiện hành là của Phan Huy Ích (Hoàng Xuân Hãn, Lại Ngọc Cang) đã khai thác bài Đường luật này (tìm xem quan điểm dịch của Phan Huy Ích) và đi đến kết luận đại để rằng: a) Trước Phan Huy Ích đã có nhiều người diễn âm Chinh phụ ngâm khúc, nhưng nay họ Phan lại dịch lại vì ông nhận thấy những người diễn âm trước đã quá gò lời chuốt chữ, câu nệ ở vận luật nên đã không diễn được hết cái “văn mạch tuý” của khúc ngâm (chú ý câu thứ tư). b) Quan điểm của Phan Huy Ích biểu lộ ở hai câu luận: “Vận luật hạt cùng văn mạch tuý, Thiên chương tu hướng nhạc thanh tầm”, nghĩa là: lấy vận luật thì không sao diễn hết được tinh tuý của mạch văn, cho nên phải theo từng thiên, từng chương mà tìm âm thanh cho êm ái (Chinh phụ ngâm bị khảo, tr.27), quan điểm đó được thể hiện ở bản A, vì bản A là bản dịch không câu nệ về nghĩa đen và về các vế. Bản B thì trái lại. Phan Huy Ích là phỏng dịch, còn Đoàn Thị Điểm chỉ áp dịch (Sđd tr.67) Nhưng chúng tôi thì lại nghĩ khác. Một điều cần nói rõ trước hết là: cũng một bài Đường luật tám câu trên đây mà mỗi người lại lĩnh hội một khác. Cứ đối chiếu các bản dịch của các ông Đông Châu, Hoa Bằng, Hoàng Xuân Hãn, Đặng Thai Mai thì thấy rõ điều đó. Về bài Ngẫu thuật của họ Phan, chúng tôi cho rằng: a) Câu 4: “Đa hữu thôi xao vi diễn âm”, không nên hiểu cái sự thực của “câu thực” ấy thành một lời nhận xét, một lời phê phán các bản diễn âm có từ trước-nhất là khi lời nhận xét đó là không tốt, như “đã nhiều kẻ gò lời chuốt chữ…” b) Hai câu luận: Vận luật hạt cùng văn mạch tuý, Thiên chương tu hướng nhạc thanh tầm. Luận cái gì? Thì hẳn là luận cái thực ở câu 3, câu 4. Nhưng ở đây là bài Ngẫu thuật sau khi dịch xong Chinh phụ ngâm khúc nên “cái thực” đây là cái việc dịch lần này của mình (Phan Huy Ích) đối với cái khúc ngâm “cao tình dật điệu bá từ lâm” của Đặng Trần Côn. Do đó mà bài Ngẫu thuật này, chúng tôi tán thành bản dịch của ông Đặng Thai Mai về hai câu luận: “Trong bấy nhiêu vận luật mạch văn uyên súc thiệt khó mà phu diễn cho thâu triệt. Rồi lại còn phải phân tích từng chương tiết trong nhạc điệu (của khúc ca) nữa”. Như vậy, chúng tôi xem hai câu luận này chỉ là lời bàn, lời bình luận đến cái công việc thực tế của việc dịch của Phan Huy Ích, chứ không phải là để bày tỏ quan điểm dịch. Quan điểm dịch của họ Phan là ở chỗ khác. Chúng tôi đặc biệt chú ý đến mấy chữ này: chữ diễn âm ở câu bốn, chữ phiên dịch ở câu bảy. Chúng tôi cho rằng chính quan điểm dịch của Phan Huy Ích được biểu hiện ở mấy chữ đó. Một bài Đường luật 56 chữ, mỗi chữ vận dụng đều được cân nhắc thật chính xác. Điều đó là tất yếu, đối với văn đại khoa hay đối với các thi sĩ có tài. Mà Phan Huy Ích là một ông nghè, thì tất nhiên là không dễ dãi trong khi dùng chữ. “Diễn âm” và “phiên dịch”, mỗi chữ có một nội dung không phải giống nhau hẳn. “Diễn âm”, nghĩa đen của chữ diễn có nhiều nghĩa, nhưng ở trong “diễn âm” thì nó chỉ có nghĩa là: căn cứ vào một bài đã có sẵn mà suy rộng nghĩa ra rồi lấy ý mà diễn đạt ra bằng Quốc âm (nghĩa ở đây). Vậy ở ta trước đây, “diễn âm” có nghĩa như là “phỏng dịch” của ta hiểu bây giờ. Vì từ tiếng Hán thì gọi là “ý dịch”. “Phỏng dịch” không có trong từ vị tiếng Hán. Đã là “diễn” thì không đòi hỏi phải theo từng lời, từng chữ, từng câu mà chỉ cần dịch thoát ý, lấy cái tinh thần của câu văn. Do đó mà số câu ở bài diễn âm ít hơn ở bài nguyên tác là một điều dễ hiểu. Còn “phiên dịch” thì hoàn toàn không có nghĩa là “phỏng dịch”. Vì “phỏng dịch” mà từ tiếng Hán gọi là “ý dịch” đó, thì “ý dịch” – cái từ này cũng mới xuất hiện sau nay, chữ từ “Dân quốc tam thập lục niên” trở về trước là không có. Khái niệm “phiên dịch” vẫn có trong từ vị tiếng Hán đã từ lâu. Đã là “phiên dịch” thì phải dịch cho hết nghĩa, phải dịch từng chữ, từng câu. Nhất là ở đây, lại dịch một khúc ngâm nổi tiếng của Đặng Trần Côn như chính tự tác giả nói ở câu thừa “Cao tình dật điệu bá từ lâm”. Do đó mà số câu ở bản B dịch theo quan niệm này, số câu lại nhiều hơn nguyên tác, vì phải dịch cho hết ý của bài chữ Nho Đặng Trần Côn. Chúng ta theo dõi bảng thống kê do ông Hoàng Xuân Hãn thống kê ở Chinh phụ ngâm bị khảo (tr.67). Nhìn vào bản thống kê này, có hai điểm cần chú ý: a. Số vế ở cột 1 càng nhiều, chứng tỏ bản dịch càng phải sát với nguyên tác. Bản A bản hiện hành có 8 vế, bản B có 36 vế. b. Số vế ở các cột 2, 3, 4, 5, 6 càng nhiều, chứng tỏ bản dịch càng xa nguyên tác. Bản A là bản dịch theo quan điểm diễn âm. Còn bản B, thì theo quan điểm phiên dịch, dịch từng câu, từng chữ, dịch cho hết ý của bản Hán mới “suy minh tác giả tâm”. Và quan điểm đó là quan điểm của Phan Huy Ích (nên không phải là bản C). Bản A (bản hiện hành) là của Đoàn Thị Điểm. Một lý do nữa khiến chúng ta tin chắc điều nhận xét của bản B chỉ có thể do Phan Huy Ích dịch là đúng, bởi lẽ bản B dịch hết ý, câu nào dịch câu nấy. Một nhà Hán học uyên bác như họ Phan nhất định là có một trình độ thưởng thức bản Hán văn của Đặng Trần Côn cao lắm. Điều đó thấy rõ ở hai câu đầu bài Ngẫu thuật của cụ. Đối chiếu kỹ bản Hán văn với bản A, chúng ta thấy rằng bản A vì phỏng dịch nên đã bỏ đi rất nhiều ý của bản Hán. Những ý này đã làm cho họ Phan không vừa lòng mà phải dịch lại. Vì vậy trong khi đánh giá bản dịch, chúng ta nên chú ý đánh giá cho vừa phải. Một vài thí dụ: Câu 164: Thương đài, thương đài, hựu thương đài Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi. Bản A: Rêu xanh mấy lớp chung quanh (Sân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ). Bản B: Rêu lại rêu xanh xanh đòi chốn (Bước nhàn đình ngâm ngụt kẻ trăm) Câu 169-171: Sa song tịch mịch chuyển tà huy Tà huy, tà huy hựu tà huy Thập ước giai kỳ cửu độ vi Bản A: Bức rèm thưa lần giải bóng dương Bóng dương mấy buổi xuyên ngang Lời sao mời hẹn, chín thường đơn sai Bản B: Chốn song the tứ bề vắng vẻ Ác tà tà bóng xế rèm hoa Tà tà thôi đã lại tà, Xem trong mười hẹn kể đà chín sai. Qua hai ví dụ trên đây, chúng ta thấy rõ ràng quả bản B dịch sát hơn bản A, đã thể hiện được trong phần dịch của mình cái “Khái niệm vô cùng” đọc lên nó gợi cho ta cái cảm giác mông lung man mác của cách kết cấu tiếng Hán: thương đài, thương đài hựu thương đài, hay: tà huy, tà huy hựu tà huy. Bản A vì phỏng dịch nên đã bỏ mất, không thể hiện được cái “văn mạch tuý” ấy của tiếng Hán. 3. Luận cứ thứ ba, chủ trương bản Chinh phụ ngâm khúc hiện hành là của Phan Huy Ích là bởi vì: “văn bản A gần với ta hơn trong thời gian ít tiếng cổ hơn so với bản B” (ý của ông Hoàng Xuân Hãn trong Chinh phụ ngâm bị khảo). Trên cơ sở nhận định đó, có người (anh Lại Ngọc Cang) lại đi xa hơn một chút về tiếng cổ, về thể loại, để xác nhận từ đó trên một mặt khác nữa là: thể loại song thất lục bát trong bản A đã đật đến một trình độ hoàn thiện nhất, nó chỉ có thể xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX, thế kỷ của Đoạn trường tân thanh. Trước hết cần phải nói rằng, cách làm này (cách so sách chữ cổ, xem sự xuất hiện hay mất đi của một từ trong văn học, xem sự phát triển của thể loại văn học…) là một điều thường thấy ở trong văn học các nước để xác định thời điểm xuất hiện của một tác phẩm văn học nếu có. Song đối với chúng ta, khi làm công việc này, một điều hết sức quan trọng là phải đặc biệt chú ý đến đặc điểm của tình hình văn học của chúng ta, phải cố gắng khai thác cho hết mọi tác phẩm văn học có thể khảo được. Bởi vì không làm như thế, chúng ta sẽ chỉ có thể có được một kết quả mà bên ngoài thì có vẻ khoa học, nhưng thực ra không phản ánh được cái thực chất; chỉ có thể có được một kết quả hết sức phiến diện, không phản ánh được cái chung, cái khái quát của văn học của ta. Ở đây, về thời gian: từ 1742 – 1745 - thời điểm giả sử xuất hiện bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, năm 1803 - thời điểm giả sử xuất hiện bản dịch Chinh phụ ngâm khúc của Phan Huy Ích, thì không lâu là bao. Năm mươi năm so với lịch sử phát triển tiếng nói của một dân tộc không có một ý nghĩa đáng kể lắm. Ai tự vãn ra đời từ nửa cuối thế kỷ XVIII và Truyện Kiều, đầu thế kỷ XIX là một thí dụ. Cho nên đọc lại hai áng văn đó, chúng ta không hề thấy nó “cổ”. Về mặt chữ viết, chữ của ta là chữ Nôm, vốn không có một quy cách nào thống nhất, cho nên cách đọc không có gì là ổn định. Hơn nữa thử hỏi: có phải là trong thời gian ngắn năm mươi năm ấy, ngôn ngữ của ta chỉ có những chữ như đăm chiêu (Dạo hiên vắng đắm chiêu từng bước - bản A câu 193), bẻ bai (Trúc sập soè, mai cũng bẻ bai - bản A câu 282), chốc mòng (Bến ngâu sàn sạt, cung trăng chốc mòng - bản A câu 240)… để diễn đạt tư tưởng cho tất cả mọi trạng thái tâm lý, tình cảm hay không? Không phải. Ở bản A cần diễn đạt dáng đi tư lự, cái nhịp nhàng uốn éo, diễn đạt cái tâm lý ngóng trông, mong mỏi tha thiết… nên Đoàn Thị Điểm đã dùng đăm chiêu, bẻ bai, chốc mòng… mà thôi. Còn ở chỗ khác, không cần diễn tả những trạng thái ấy nên người ta không dùng. Xét về tiếng cổ trong bản B cũng thế. Một chữ như: lãi linh (thiếp lãi linh đâu làm Tố nữ - bản B, câu 471), giang (Bến ngân tranh, tay ấp bùng giang - bản B, câu 308) chỉ nói rằng nó cổ, nó mất đi không thấy xuất hiện trong các tác phẩm văn học, trong tiếng nói của ta nữa trong năm mươi năm ấy, khi mà nó: - Không thấy có ở những tác phẩm văn học của một người hay của nhiều người ở trong thời gian ấy. - Không dùng được nữa để diễn tả cùng một nội dung tâm lý, cùng một nội dung tình cảm như nhau ở trong những tác phẩm văn học qua các thời kỳ xuất hiện của các tác phẩm tương đối đều đặn. Đằng này, thì rõ ràng là không phải như thế, cho nên không thể cho nó là “tiếng cổ” xuất hiện ở đầu thế kỷ XVIII mà không xuất hiện ở đầu thế kỷ XIX được. Huống hồ, về từng “tiếng cổ” cụ thể, theo chúng tôi, quan niệm như trên đây, và theo sự thống kê của chúng tôi, thì ở bản A có 21, bản B chỉ có 12 chứ không phải như có người đã nghĩ: bản A gần với ta hơn vì “tiếng cổ” ít hơn so với bản B. Thế thì, tại sao mà bản A (bản hiện hành của Đoàn Thị Điểm) có nhiều tiếng cổ hơn bản B, khi đọc lên ta có cảm giác “gần với ta hơn trong thời gian”. Hay nói một cách khác, mới hơn, trẻ hơn? Mới hơn, hay trẻ hơn, cái cảm giác đó thực ra hoàn toàn không phải là vì bản thân cái từ nó mới. Cảm giác cổ hơn, xưa hơn cũng thế. Cổ, xưa, cái cảm giác đó thực ra không phải là do cái bản thân từ cổ gây nên, mà chủ yếu là bởi tại cách vận dụng nó, các sử dụng nó trong cú pháp, trong cái phong cách ngôn ngữ của từng nhà văn. Ở đây tôi còn chủ ý một điều nữa là: xét trong Dụ Am thi văn tập, rải rác trong một đôi bài văn tế có những từ Phan Huy Ích có dùng như: - Hầu cách linh dư, kính dâng điện lễ (Từ cung, mẹ Lê Ngọc Hân tế con) - Cách mái linh dư, dâng tuần điện tế… vơi vơi hoàng giản một điêu… (Hoa lệ tế Lê Ngọc Hân 1799). Đem đối chiếu bài văn tế cuối này với bản A, có những từ giống nhau: - Tự ta đội chín lần sống thác, lệnh cửa viên nổi tiếng trống ngọn cờ; cùng nhau vâng muôn dặm ruổi giong, đoàn áo giáp trải chân rừng mặt bể. - Giữ chiến pháp lấy mình làm nhẹ. Vấn đề là: có nên xem có sự thống nhất một số từ, một số ý ở bài văn tế này với Chinh phụ ngâm khúc bản A mà cho rằng chính Phan Huy Ích là dịch giả bản A, mà cho rằng hai bản này (Bài Văn tế và bài Chinh phụ ngâm khúc) chỉ có thể hiểu là do một người viết không? Không phải thế. Vì ta có thể hỏi ngược lại, làm sao lại không đặt vấn đề cho Phan Huy Ích trong khi làm bài văn tế này đã chịu ảnh hưởng bản Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm. Hơn thế, xét ra những từ này đều là những từ dịch từ tiếng Hán, hay là những từ thuần Nôm của ta nổi tiếng trống ngọc cờ, gió lộng, đáy nước biển…, và cả những từ nguyên tiếng Hán: chinh phụ, dũng sĩ… Vô luận là từ thuộc loại nào đó cũng đã nhập vào vốn từ vị ngôn ngữ của ta rồi, và hơn thế nữa, tất cả những từ đó đều chỉ sử dụng trong một đề tài nhất định, để diễn tả một trạng thái tâm lý tương tự, cho nên sự thống nhất này là không quan trọng, mà là tất yếu. Một người, hai người, hay rất nhiều người khác nữa, vô luận là thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX và cho đến giữa thế kỷ XX và ta tin rằng cả sau này nữa nếu có viết về đề tài này thì bất kỳ ở thế nào cũng vận dụng những từ hay cả những ý ấy. Xin đọc các bài văn tế của Đặng Vũ Khiên viết năm 1946, của Tú Mỡ viết năm 1984… cũng thấy rõ điều đó. Hơn thế, khái niệm của những từ này, ở đây đã được sử dụng trong một bài văn vần, phải bị qui định bởi vận, luật, cho nên dù cho dùng “cửu trùng” hay “chín lần”, hay “bệ rồng” cũng là một điều dễ hiểu. Ở đây không có sự vận dụng từ một cách tự do như trong một bài văn xuôi. Vì thế, chúng ta không thể hễ thấy một số từ nào đó được vận dụng trong một số bài viết về một số đề tài tương tự nào đó mà cho rằng những bài đó phải là do một người viết được. Cái quan trọng chủ yếu ở đây không phải là do cả những từ. Ở đây, Phan Huy Ích không vừa lòng với những bài diễn âm Chinh phụ ngâm khúc có từ trước, thì điều không vừa lòng của họ Phan không phải là không vừa lòng với những từ, mà không vừa lòng với cách dịch như đã nói ở phần trước. Cho nên ở đây Phan Huy Ích trong khi làm văn tế, sử dụng các vốn từ ngữ chung ấy thì không có gì là lạ. Thêm vào đó, Chinh phụ ngâm khúc có trên 400 câu, sáng tác của Dụ Am gồm 3 tập dày, mà ở đây chúng ta chỉ thấy được năm, mười câu có một đôi từ giống nhau, thì riêng về tỷ lệ này so với khối lượng kia là một lý lẽ không đáng kể. Tóm lại, ở đây cũng không có cái lẽ gì để bảo Phan Huy Ích là dịch giả của bản A cả. Trái lại, theo chúng tôi thì Phan Huy Ích đã chịu ảnh hưởng Đoàn Thị Điểm và chính Đoàn Thị Điểm là dịch giả bản Chinh phụ ngâm khúc hiện hành. Trong lịch sử văn học nước ta, thế kỷ XVIII đã đánh dấu một giai đoạn phát triển căn bản của văn học chữ Nôm, nó được bắt nguồn từ trước kia, chỉ kể từ cuối thế kỷ XVI với Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải rồi đến Ngoạ Long Cương vãn của Đào Duy Từ, Sãi vãi của Nguyễn Cư Trinh, phú của Nguyễn Bá Lân… và đến An Đô Vương (Trịnh Cương), Định Vương (Trịnh Căn), Minh Đô Vương (Trịnh Doanh) rồi đến Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Ai tư vãn của Ngọc Hân. Điểm đặc biệt ở thế kỷ XVIII là thể loại song thất lục bát khá thịnh hành. Thể này có lẽ bắt nguồn từ Tứ thời khúc vịnh (hay trước nữa) và ổn định đến mức hoàn hảo nhất với Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm, với Cung oán của Nguyễn Gia Thiều, và với Ai tư vãn của Ngọc Hân. Nó không phải đợi đến đầu thế kỷ XIX mới ổn định như có người đã nghĩ. Về mặt thể loại, một điểm nữa cần nói rõ ở đây là: bản B ra đời vào đầu thế kỷ XIX mà lại có vẻ cổ hơn, và lại đã sử dụng sai quy luật kết cấu và chu kỳ bốn câu, ở các đoạn: 143 – 148 gồm 6 câu lục bát liên tục. 221 – 224 gồm 4 câu thất liên tục, 233 - 238 gồm 6 câu lục bát liên tục, không bằng bản A ra đời vào giữa thế kỷ XVIII? Những điều chúng tôi trình bày trên đây tưởng cũng đã có thể trả lời căn bản câu hỏi này. Nghĩa là do tài sử dụng ngôn ngữ, cái tài của nhà văn. Lại nữa, Phan Huy Ích dịch chứ không phải sáng tác. Một bài văn dịch, Phan Huy Ích chú ý làm sao diễn tả hết tứ thơ chữ Hán là chủ yếu, chứ không phải vì vận luật mà bỏ mất ý của nguyên tác. Bởi thế, Phan Huy Ích nói rất có lý rằng: “vận luật hạt cùng văn mạch tuý”. Cứ gò bó với âm luật thì làm sao mà diễn tả cho hết được ý của tác giả? Đoàn Thị Điểm thì phỏng dịch, nên ý tứ thoát hơn, có nhiều sáng tạo. Đó là cái ngoài cộng thêm cái tài thơ Nôm của nữ sĩ. Vậy chính Hồng Hà nữ sĩ là dịch giả bản Chinh phụ ngâm khúc hiện hành. III. VÀI KẾT LUẬN NHỎ Một nghi vấn văn học âm thầm kéo dài trong suốt hơn 60 năm qua, hôm nay lại đặt ra với chúng ta. Những tài liệu xung quanh cái nghi vấn nay tưởng cũng đã khai thác gần đủ. Nhưng không có một tài liệu nào làm bằng chứng chắc chắn cho Phan Huy Ích là dịch giả bản Chinh phụ ngâm khúc hiện hành cả. Vì vậy, 1. Những giả thuyết về Phan Huy Ích không có điều kiện tồn tại, mà trái lại qua đó, chúng ta lại thấy rõ hơn: chính Đoàn Thị Điểm là dịch giả bản dịch Chinh phụ ngâm khúc hiện hành. Điều đó phù hợp với công luận của nhân dân ta trong hơn 200 năm nay, như ông Đặng Thai Mai đã nói “người ta chỉ biết có một bài chinh phụ, người ta chỉ nhớ đến một khúc ngâm chinh phụ: ấy là tập Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm”. 2. Một nghi vấn văn học được nêu ra thiếu chứng cớ có khoa học chắn chắn, thì tưởng chúng ta cũng không nên quá băn khoăn với nó. Và, cũng không nên cho đây là một nghi vấn văn học nữa. Bản dịch Chinh phụ ngâm khúc hiện hành là của Đoàn Thị Điểm. Thái độ đó không phải là thái độ bảo thủ, mà là một thái độ khoa học, biết triệt tiêu đi những yếu tố nào mà sau khi đã xét hết những điều kiện để tồn tại của nó. Chừng nào có ai phát hiện được tài liệu mới, chắc chắn, thì chúng ta sẽ đưa vấn đề ra bàn lại.

Trên thực tế, ngoại trừ giới nghiên cứu chuyên sâu, bạn đọc thường không mấy ai chú ý đến nguyên tác Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn - quê làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội) mà chỉ biết tới bản diễn Nôm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748), người làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Tương đồng với Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều trên phương diện khẳng định những giá trị nhân văn và phản ánh số phận người phụ nữ cũng như khả năng vận dụng nhuần nhuyễn thể loại ngâm khúc và thể thơ song thất lục bát, song bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm lại có phần giản lược những suy tưởng triết lý cao siêu và hướng nhiều hơn tới cuộc sống đời thường. Tâm tình người chinh phụ tiêu biểu cho nỗi nhớ mong chồng, khát khao cuộc sống gia đình bình dị và ước mong về một ngày đoàn tụ vợ chồng. Đặt trong tương quan chung, ước mơ của người chinh phụ cũng hiền hoà, dung dị, gần gũi hơn so với người cung nữ. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho thấy rõ tâm trạng cô đơn của người vợ nhớ chồng ra trận và nghệ thuật miêu tả tâm trạng bậc thầy của hai tác giả Đặng - Đoàn, trong đó phải kể đến nghệ thuật diễn Nôm đặc biệt xuất sắc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Tâm trạng nổi bật trong đoạn trích gồm 36 câu thơ trong tổng số 408 câu của toàn tác phẩm là sự thể hiện nỗi đơn côi, trống vắng của người chinh phụ. Trước hết đó là sự ý thức về con người cá nhân chiếu ứng trong các quan hệ với cảnh vật và con người, đặt trong tương quan với thời gian và không gian. Nhân vật chủ thể trữ tình - người chinh phụ xuất hiện như có như không, vừa tỉnh thức trong từng bước đi, từng động tác buông thả tấm rèm nhưng liền đó lại quên tất thảy, thờ ơ với tất thảy: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. Trong khổ thơ mở đầu (từ câu 1 - 16) có hai hình ảnh quan trọng được tô đậm, nhấn mạnh trở đi trở lại là tấm rèm và bóng đèn. Người chinh phụ “ngồi rèm thưa” mà trông ra ngoài ngóng đợi tin chồng nhưng chẳng thấy đâu. Cuộc sống nơi “trong rèm” chính là sự bó buộc, trói buộc trong một không gian chật hẹp, tù đọng. Câu thơ chuyển tiếp “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng” càng tôn thêm vẻ vắng lặng, đơn côi, một mình chinh phụ đối diện với bóng mình, đối diện với người bạn vô tri vô giác Đèn có biết dường bằng chẳng biết và đi đến kết cuộc “Hoa đèn kia với bóng người khá thương”... Rõ ràng cuộc đời người chinh phụ hầu như đã mất hết sức sống, con người đã bị “vật hoá” tựa như tàn đèn cháy đỏ kết lại đầu sợi bấc, con người bây giờ chỉ còn là “bóng người” trống trải, vừa đối xứng vừa đồng dạng và là hiện thân của chính kiếp hoa đèn tàn lụi. Ngay đến cảnh vật và sự sống bên ngoài cũng nhuốm vẻ tang thương, vô cảm, chập chờn bất định, không dễ nắm bắt với những “gà eo óc gáy sương”, “hoè phất phơ rủ bóng”... Bên cạnh đó, dòng thời gian tâm lý cũng chuyển hoá thành sự đợi chờ mòn mỏi, thời gian đầy ắp tâm trạng đơn côi nhưng không có sự sống, không sự kiện, không thấy đâu bóng dáng hoạt động của con người: Khắc chờ đằng đẵng như niên, Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. Trong sự chờ đợi, người chinh phụ thấy một khoảng thời gian ngắn mà dài như cả năm trường, mối sầu trào dâng như biển lớn mênh mang. Những trạng từ “đằng đẵng”, “dằng dặc” tạo nên âm điệu buồn thương, ngân xa như tiếng thở dài của người thiếu phụ đăm đắm chờ chồng. Rút cuộc, hình bóng người chinh phụ có xuất hiện trở lại thì trước sau vẫn là nỗi chán chường, buông xuôi, vui gượng “Hương gượng đốt”, “Gương gượng soi”, “Sắt cầm gượng gảy” mà không sao che đậy nổi một hiện thực bất như ý “hồn đà mê mải”, “lệ lại châu chan” và “Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”... Ở đoạn thơ tiếp theo (câu 17 - 28) là sự phản ánh nỗi lòng chinh phụ khi nhớ về người chồng. Có điều, nếu hình ảnh người chồng hiện diện như một ý niệm xa mờ thì bản thân nỗi nhớ mong cũng chỉ như một ảo giác. Sự gặp gỡ là điều không thể bởi tin tức mịt mờ, bởi khoảng cách về không gian, về địa danh có tính phiếm chỉ, biểu tượng của miền “non Yên”, “đường lên bằng trời”, “xa vời khôn thấu”... Các từ “thăm thẳm”, “đau đáu”, “thiết tha” gợi nhớ gợi thương, day đi dứt lại trong tâm can người chinh phụ. Sắc thái nỗi nhớ tăng tiến, rộng mở từ những suy tưởng dõi theo người chồng nơi phương xa đến sự dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa, đắng cay nối dài bất tận: - Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời - Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong Giống như tâm sự Thuý Kiều trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”, người chinh phụ có lúc thấy cảnh vật vô hồn, thê lương nhưng có khi lại cảm nhận cả khoảng không gian và cảnh vật như đang hối thúc, giục giã, đổi thay, không tìm thấy đâu sự hô ứng, đồng cảm giữa tình người với thiên nhiên: Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. Sương như búa, bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô. Hình ảnh so sánh “sương như búa”, “tuyết dường cưa” là sự cực tả những xao động của thế giới bên ngoài thông qua cách hình dung của chinh phụ, khi nàng bất chợt không còn chịu đựng nổi ngay cả vẻ bình dị đời thường và bột phát thành những ám ảnh dị thường. Đó là những tâm trạng khác biệt nhau cùng tồn tại trong một con người, sự phân thân trong cách cảm nhận về thiên nhiên, cuộc sống. Trong bản chất, chính tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã tạo nên những xung đột tình cảm khác biệt nhau và phổ vào thế giới tự nhiên tất cả những trái ngang, những thất vọng và cả niềm hy vọng mong manh, những giây lát yên tĩnh nhất thời và những cơn bão lòng dường như không thể nguôi khuây. Bước vào đoạn cuối (câu 29 - 36), người chinh phụ vươn tới không gian thoáng rộng hơn với những hàng hiên, ngọn gió, bóng hoa, ánh trăng nhưng đó cũng chỉ là thiên nhiên lạnh lùng, thiếu hẳn niềm tin và hơi thở ấm áp của sự sống. Cảnh vật như tách khỏi con người và không thấy đâu hoạt động của con người. Tất cả chỉ đơn thuần là cảnh vật và vì thế càng tôn thêm vẻ lạnh lùng, đối lập với tâm tư con người và hình ảnh nhân vật chinh phụ đang khuất lấp, ẩn chìm đâu đó: Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm, Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông. Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng, Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu! Đến hai câu thơ cuối bắt đầu hé mở tâm trạng so sánh. Người chinh phụ nhìn cảnh hoa nguyệt mà trạnh lòng bâng khuâng xót xa cho thân phận mình, tủi phận mình lẻ loi trước cảnh nguyệt hoa. Từ đây có thể nói tới những dự cảm về ý thức cá nhân của người chinh phụ và xa gần liên hệ tới quyền sống, quyền hưởng niềm vui, hạnh phúc lứa đôi giữa chốn nhân gian. Trên phương diện nghệ thuật, thể thơ song thất lục bát với sự kết hợp hai câu thơ bảy chữ kiểu Đường thi hàm súc, trang nhã, đăng đối và câu thơ lục bát truyền thống giàu âm điệu, gợi cảnh gợi tình đã tạo nên nhịp thơ buồn thương man mác, nối dài không dứt. Quan sát kỹ có thể thấy từng bốn câu thơ đi liền nhau tạo thành một tiết đoạn, trong đó hai câu thất ngôn đóng vai trò khơi dẫn ý tứ, hai câu lục bát tiếp theo hướng tới luận bình, khai triển, mở rộng. Cứ như thế, các ý thơ, khổ thơ tiếp tục luân chuyển, nối tiếp nhau như những ngọn sóng cảm xúc đang trào dâng. Ngay trong từng câu thơ cũng xuất hiện những tiểu đối tạo nên tính chất hô ứng, đăng đối, tạo ấn tượng và sự nhấn mạnh: - Dây uyên kinh đứt/ phím loan ngại chùng - Cành cây sương đượm/ tiếng trùng mưa phun - Sâu tường kêu vắng/ chuông chùa nện khơi Thêm nữa, tác phẩm diễn Nôm bên cạnh việc giữ lại và Việt hoá được cả hệ thống điển tích và từ Hán Việt (non Yên, sắt cầm, dây uyên, phím loan, gió đông...) thì nhiều ý tứ trong nguyên tác đã được chuyển dịch, nâng cấp thành lời thơ thật sự giàu chất thơ. Chẳng hạn, với câu Sầu tự hải - Khắc như niên (nguyên ý nghĩa chỉ là Sầu tựa biển - Khắc như năm) đã được chuyển dịch thành câu thơ mang sắc thái nội tâm hoá, giàu cảm xúc, khơi gợi âm điệu cảm thương: Khắc chờ đằng đẵng như niên, Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. Đoạn trích nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như toàn bộ tác phẩm Chinh phụ ngâm là tiếng kêu thương của người phụ nữ chờ chồng, nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa. Tình cảnh lẻ loi đó được chiếu ứng trong sự cảm nhận về thời gian đợi chờ đằng đẵng, không gian trống vắng vây bủa bốn bề và cuộc sống hoá thành vô vị, mất hết sinh khí. Trên tất cả là tâm trạng cô đơn và sự ý thức về thảm trạng mất đi niềm tin, đánh mất niềm vui sống và mối liên hệ gắn bó với cuộc đời rộng lớn. Trạng thái tình cảm đó một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận và hệ quả tiếp theo là bao nhiêu số phận chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng, mặt khác xác nhận nhu cầu nói lên tiếng nói tình cảm và sự ý thức về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này. Không có gì khác hơn, đó chính là khả năng mở rộng diện đề tài, khai thác sâu sắc hơn thế giới tâm hồn con người, xác định nguồn cảm xúc tươi mới và khẳng định những giá trị nhân văn cao cả mà khúc ngâm đã đem lại, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai đoạn văn chương thế kỷ XVIII trong tiến trình phát triển chung của nền văn học dân tộc.

Nhắc đến thời kỳ rối ren nhất của lịch sử dân tộc, chắc không ai là không nhớ những ngày Lê – Mạc đánh nhau, Trịnh – Nguyễn phân tranh, với đầy rẫy những đau khổ do chiến tranh phi nghĩa gây ra. Để rồi, những con người dũng cảm, cũng là những cây bút với cá tính mạnh, đã phải lên tiếng tố cáo bộ máy cầm quyền thối rữa. Đặng Trần Côn cũng là một tác giả như thế. Nhờ đó, mà hôm nay, ta chỉ cần đọc vài câu thơ của “Chinh phụ ngâm” thôi, cũng đủ hình dung được xã hội hỗn loạn ngày ấy: “Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm, Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông. Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng, Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau.” Giữa đêm tối tịch mịch, có trăng sáng ngời trên đầu, có hoa phảng phất hương trước mặt, bóng trăng và bóng hoa dường như hòa làm một nơi khuê phòng người chinh phụ. Đẹp làm sao! Thơ mộng làm sao! Bản thân độc giả chúng ta còn rung động, chứ nói gì đến người phụ nữ ngồi ngay tại đấy kia. Ấy thế mà, nàng lại thấy “trong lòng xiết đau”. Phải chăng, chúng khiến nàng nhớ đến người chồng ở nơi biên ải xa xôi? Đến vật vô tri vô giác cũng có nhau, để “giãi” và “lồng”. Còn người mang bao tâm sự, thì lại chỉ một mình nơi khuê phòng vắng hơi chồng, có mỗi bóng mình để sẻ chia. Cảnh quấn quít của “nguyệt”, “hoa” vương gợi về những ái ân mặn nồng ngày nào cùng chồng, trong ngay căn phòng đang ngồi đây. Bao âu yếm vỗ về ngày đó giờ đây đâu? Từ đây, nỗi cô đơn cùng nhung nhớ đến tột cùng của người chinh phụ được bộc lộ hoàn toàn bên bóng hoa bóng nguyệt. Nhưng đâu chỉ nhung nhớ, mà còn chờ mong. Vì trong đôi mắt người chinh phụ, “hoa” và “nguyệt” đại diện cho chính vợ chồng họ. Và “hoa giãi nguyệt”, “nguyệt” cũng “in một bóng”. “Nguyệt lồng hoa”, “hoa” cũng “thắm từng bông”. Dù là “hoa” hay “nguyệt” bày tỏ tình cảm, cũng đều được đáp lại. “Hoa” và “nguyệt” cách xa nhau nghìn trùng, một trên trời, một dưới đất, nhưng bóng hình vẫn “trùng trùng” bên nhau. Tức người chinh phụ đang hy vọng lắm cái “nghìn vàng xin gửi đến non Yên” kia, được chồng thấu hiểu, để cũng nhớ nhung vợ ở nhà, cũng mong ngóng ngày đoàn tụ gia đình. Trái tim đôi lứa không mảy may xa rời, dù khoảng cách địa lý có gây ra bao trắc trở, dù cho trận chiến nơi tử địa có gây ra bao đớn đau. Nhưng càng mong, lại càng đau. Vì chồng chẳng một lần đưa thư. Thước chẳng một lần báo tin. Sống chết còn chẳng biết, nói gì đến trái tim chàng. Ta thấy sự tương phản rất rõ ràng giữa bóng lẻ của người chinh phụ với đôi bóng “trùng trùng” kia. Xót xa làm sao! Trong đêm dài đơn côi ấy, trái tim người chinh phụ không chỉ rỉ máu trước nỗi nhớ chồng, mà còn trước nỗi nhớ những ngày bình yên. “Nguyệt” trong thơ trung đại luôn mang vẻ thanh bình, tĩnh mịch, nên dường như, độc giả đương thời mặc định đó là biểu tượng của hòa bình; và “hoa” – một hình ảnh luôn chỉ những bóng hồng. Đó, “hoa giãi nguyệt”, người phụ nữ yêu lắm những phút giây không chiến tranh, khi có chồng kề cạnh, không cần nhớ nhung, mong ngóng, và bất an trong mỗi đêm dài dằng dặc. “Nguyệt lồng hoa”, hòa bình ấy cũng bao trùm lên cuộc sống của người phụ nữ. Chỉ tiếc là đã từng. Vậy nên, dường như, nàng đang đợi ngày ấy quay lại. Để nàng có lại cái cuộc sống ngày thường, bên chồng bên con. Dù chẳng đặc biệt, chẳng cao sang gì, nhưng giản đơn thế thôi, lại là trông đợi duy nhất, cũng là niềm hạnh phúc duy nhất của cuộc đời mỗi người phụ nữ. Vậy nên, làm sao để không căm thù cái chiến tranh đầy vô lý kia đã đẩy chồng nàng đến nơi hiểm nguy, đẩy nàng vào chốn cô đơn. Đem đến bao đau khổ cho cuộc đời, cốt chỉ để gây hấn nội bộ, củng cố quyền lực, làm vui cho giai cấp cầm quyền. Đáng không? Đâu phải tự nhiên cái cuộc chiến tranh ấy bị gọi là “phi nghĩa”. Nó có mang lại lợi ích cho nhân dân không? Có đem lại hạnh phúc không? Vậy tại sao nhân dân lại phải hy sinh tất cả cho nó? Nam nhi hy sinh xương máu, tính mạng; nữ nhi hy sinh tình yêu, gia đình. Có ai chịu cho thấu cái sự vô lý ấy? Có lẽ, trong thời kỳ chiến tranh diễn ra không vì lợi ích nhân dân này, những bất công của xã hội phong kiến, những chèn ép vô lý của Nho giáo bộc lộ một cách rõ ràng nhất. Người ta bắt đầu quăng đi những tư tưởng đao to búa lớn, để tâm đến quyền cơ bản nhất của mỗi con người: quyền được hạnh phúc. Triết lý Nho giáo lu mờ dần. Bằng chứng lớn nhất là xuất hiện những nhà Nho tài tử, không chịu sống theo Nho giáo. Và bao lần, người ta lên án cái chế độ bất công ấy. Tiêu biểu chính là hai nhà thơ họ Nguyễn: Nguyễn Du và Nguyễn Dữ. Tiếng ai oán của người chinh phụ trong thơ Đặng Trần Côn rất hiếm gặp trong giới văn chương đương thời, khi chế độ phong kiến vẫn còn áp đặt lên con người ta những tư tưởng “trung quân ái quốc”, “yêu nước thương dân”, cả đời chỉ “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, với những tác phẩm văn chương khó mà thoát khỏi đề tài chiến tranh, tổ quốc, nhưng cũng không phải lạ, vì đã có những tiếng nói chung từ “Truyện Kiều” và “Chuyện người con gái Nam Xương”. Hơn thế, là sự lên án mạnh mẽ xã hội đương thời này lại còn được đông đảo nhà Nho bấy giờ ủng hộ. Mỗi con người, dù nam hay nữ, dù giàu hay nghèo, dù đứng trong hàng ngũ cầm quyền hay không thì cũng phải được hạnh phúc. Nhất là những người phụ nữ dành cả thanh xuân, cả đời sống để yêu thương chồng con, hết mình phục vụ gia đình chồng. Người chinh phụ của Đặng Trần Côn chẳng những đã làm rất tròn nghĩa vụ của một người vợ đảm, một người mẹ hiền, một con dâu thảo, lại còn phải thay chồng, giữ trọn đạo hiếu của đấng nam nhi đối với mẹ chồng, làm tròn trách nhiệm của người cha đối với con trẻ. Vì lý do gì đã cực khổ thế lại còn phải chịu thêm đớn đau? Từ đó, ta hiểu tại sao cuối cùng chiến tranh phi nghĩa bị nguyền rủa và thời huy hoàng của Nho giáo chấm dứt. cái xiềng xích trói buộc con người qua bao thế kỷ cuối cùng cũng biến mất. Không phủ nhận những tinh hoa do đạo Nho mang lại. Nhưng những điều tiêu cực lại quá nhiều để có thể chịu đựng, khiêu khích con người ta đấu tranh, đòi lại cái hạnh phúc ai cũng có quyền được hưởng. Tiên phong chính là những tác phẩm văn chương tuy phá cách nhưng không hề bị lên án, ngược lại có tầm ảnh hưởng lớn như “Chinh phụ ngâm”. “Chinh phụ ngâm” qua than thê lương của người chinh phụ, đã nói lên trọn vẹn ước mơ hạnh phúc giản dị của con người, và tố cáo thành công cái nguyên do vô lý khiến mộng tưởng của bao thế hệ bị cướp mất.