Văn chương, ở một tầng nghĩa khác, không chỉ là công cụ giải trí cho con người, mà hơn cả, nó như một thứ ánh sáng soi rọi khiến con người ta có thể nhìn thấy trần trụi chính bản thân mình. Đó chính là cơ hội để mỗi chúng ta, những ai tiếp cận được với văn chương một cách chân chính sẽ có cơ hội được trở nên tốt hơn với đúng chính bản thân mình. Người ta có thể thấy cái nghèo, cái đê tiện, cái bỉ ổi xấu xa trong các tác phẩm văn học. Nhưng bao giờ cũng vậy, một trang văn nào, dù bi thống đến đâu, cũng đều sót lại một mảnh tình người, một bài học, một tình yêu, hay thậm chí là một tia hy vọng. Và đó là lý do tại sao vào một số những khoảnh khắc đặc biệt trong cuộc sống, như cô đơn, hay như rơi vào trạng thái bi kịch, người ta thường tìm đến văn chương, không phải để nếm trải sự cô đơn hay đau buồn, mà để thấy mình trong đó, thấy mình không lẻ loi. Người đọc đã đón đọc và đến với Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư bằng một lẽ như thế, người ta đọc để yêu thêm, sâu sắc thêm giữa cái đời sống ngồn ngộn đầy ngổn ngang này.

Bản sắc Nam Bộ rõ nét

Khi đi xa, có hai thứ người ta thường nhớ nhất, đó là: tiếng nói và đồ ăn của quê hương mình. Người ta nhớ hai thứ ấy sâu sắc đến như vậy là bởi nó gắn liền với ruột già quê hương, với từng miếng đất thịt của dân tộc. Bao giờ cũng thế, người ta chỉ yêu những gì mà người ta đã mất, người ta chỉ yêu tha thiết những gì đã trở nên xa xôi. Người ta cảm nhận được rõ cái tình quê thắm thiết nhất, đong đầy nhất, trăn trở nhất và bàng bạc nhất khi đã xa quê. Và đôi khi, người ta còn tìm kiếm những hương vị, những sắc màu của quê hương mình trên những con phố lạ. Và thế, trong những cái khoảnh khắc ấy, giây phút ấy, cái ồn ào, cái lộn xộn nó lại trở thành cái đẹp, cái thắm thiết, chứ riêng gì đâu ngôn ngữ quê hương.

Những Việt Kiều ở xứ người cũng tìm về với văn chương nước nhà bằng cái lẽ như vậy.

Ở nước ngoài, có hai nhà văn hải ngoại mà người ta yêu quý nhất, đó là Hồ Biểu Chánh và Nguyễn Ngọc Tư. Hai nhà văn ấy là hai nhà văn Nam Bộ hiếm hoi giữ được cái chất giọng thuần Nam Bộ, cái thứ giọng thuần mà không bị pha tạp bởi bất kì một mảnh đất nào, một vùng miền nào. Và cũng vì thế, mà nó là cái lẽ dễ hiểu thôi nếu như người ta đọc những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh mà đặc biệt là của Nguyễn Ngọc Tư, người ta thấy nhớ quê hương đến cồn cào mà da diết, đến thấm thía bùi ngùi.

 Chúng ta sẽ không gượng gạo kiếm tìm một thứ chất văn như thế ở đâu xa, vì ngay những trang viết ấy, chỉ đọc lên thôi, người ta đã bùi ngùi mà nhận ra những điều gì thuộc về phần hồn của chính mình. Đọc cuốn sách, ta cảm nhận được rất rõ cái chất hiền lành, trong trẻo, hồn nhiên mà sâu sắc của người Nam Bộ. Cái màu sắc Nam Bộ ấy ta thấy rất rõ qua ngôn ngữ, trong cái lối xưng hô nhẹ nhàng, hà hà, thấy vậy mà không phải vậy đâu mấy cưng. Người ta sẽ khó mà tìm thấy những giản dị, những chân quê như thế trong một tác giả khác, hay thậm chí là ở một miền đất khác. Đọc Cánh đồng bất tận, ta cảm nhận rõ cái cuộc sống mưu sinh đầy vất vả của con người miền Tây. Đọc văn của cô Tư, chiếc nồi đất kho quẹt với vài ba con cá rô, hay một ngàn đồng để mua mỡ nước cũng trở nên cảm động đến lạ. Không phải là cảm giác choáng ngợp về cái gì đó quá xa xỉ, cũng không phải là cảm giác nặng nề vì cuộc sống vốn khó khăn, mà nó mang đến cho chúng ta đầy suy tư và hoài niệm, đầy yêu thương và gần gũi về một khoảng trời dù nghèo đó nhưng vẫn luôn có những con người bình dị như thế, họ vẫn cố kết ở đó để neo trong mình những đức tính truyền thống đáng quý của quê hương. 

Về tập truyện ngắn “Cánh đồng bất tận"

Giống như khi nhắc đến Jack London, người ta không thể không nhớ đến Tiếng gọi nơi hoang dã, sẽ thật thiếu sót nếu như người ta nhắc đến Nguyễn Ngọc Tư mà không nhắc đến Cánh đồng bất tận. Có thể coi rằng đây là tập truyện gần như đã tạo nên tên tuổi của Nguyễn Ngọc Tư trong lòng các bạn trẻ. Tập truyện Cánh đồng bất tận là một tập truyện trải dài gồm 14 truyện ngắn, mỗi câu chuyện lại xuất hiện ở đó những mảnh đời khác nhau, những hoàn cảnh khác nhau. Dù trong mỗi cuộc đời ấy, ai cũng đều mang trong mình những bất hạnh riêng, những nỗi đau riêng, những tổn thương mà không thể nói được với ai, không thể so sánh được với nhau, thì họ vẫn cùng có chung một điểm. Đó là dù ở trong một hoàn cảnh đau khổ đến nhường nào, dù éo le đến đâu, họ vẫn luôn hướng về sự sống và tương lai phía trước, họ vẫn luôn hoài đi kiếm tìm những thứ tình người tốt đẹp nhất, dẫu cho nó đã tàn phai dần đi theo những xô bồ và cám dỗ của cuộc đời.

Từ khát khao đến những éo le đầy trăn trở

Thẳm sâu trong mỗi chúng ta, luôn có những phần được giấu kín: một mối tình, một ước mơ, một niềm hạnh phúc, một khát khao,...Những điều bé nhỏ đó lại chính là một phần tạo nên chính chúng ta của ngày hôm nay. Và trong tập truyện ngắn ấy, bất kể dù hoàn cảnh có thế nào, thì người ta vẫn thấy trong nhân vật những ước mơ, những khát khao, dù đôi khi ngớ ngẩn, éo le, lạ lùng đến nực cười. Như nỗi lòng của miền đất cô quạnh Mút Cà Tha, ước mơ của những người nơi đây chỉ là có một người bác sĩ, một người chịu ở lại, một người chịu gắn bó lấy cái vùng đất khỉ ho cò gáy này. Hay như nỗi buồn của người đàn ông có đứa con tên Cải bỏ nhà ra đi khiến ông phải tất tả mọi nơi đi tìm, và cuối cùng, ông chọn cách ăn trộm trâu của người ta để rồi cố tình bị bắt, được lên tivi chỉ để phát biểu một câu “Cải ơi, ba nè, về đi con!”. 

         Ông đã đi tìm con nhỏ gần mười hai năm, đã đi qua chợ qua đồng, tới rất nhiều quê xứ. Lúc nhỏ Cải mười ba tuổi một bữa mê chơi nó làm mất đôi trâu, sợ đòn nó trốn nhà. Rồi con nhỏ không quay lại, vợ ông khóc lên khóc xuống, bảo chắc là ông để bụng chuyện nó là con của chồng trước nên ngược đãi, hà khắc, đuổi xua. Ông lấy trời đất, thần phật, rắn rít và cả kiếp sau (mặc dù cũng chưa biết nó ra làm sao ) ra thề nhưng bà không tin, giận chẳng nhìn, chớ thèm cười nói. Người ta còn đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào, họ ùn ùn lại coi, ông khăn gói bỏ xứ ra đi, bụng dạ đinh ninh tìm được con Cải về." Và ông Năm Nhỏ đi tìm con Cải cuối cùng cũng vẫn chưa tìm ra, ông cứ vẫn mải mê tìm cách để được lên ti vi, để được nói đôi lời với đứa con gái của vợ, dù ông phải mang cái tiếng là kẻ đi ăn trộm "Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng, chứ đôi trâu cộ nhằm nhò gì... Về nghe con, ơi Cải...

Hay như trong truyện  Hiu hiu gió bấc,  Vì nghĩa tình thuỷ chung nên ông cụ già cha anh Hết mới một mình gà trống nuôi con đến tận cuối đời mà không đi thêm bước nữa. Vì thương con, vì hiểu được nỗi lòng của con nên ông vừa giả đánh thằng con vừa đau đớn “cái thằng ma cà bông…”. Anh Hết vì nhờ ơn bú thếp mà dằn mình bỏ đi tình yêu đầu đời. Chị Hoài vì thương anh Hết mà lấy chồng nhưng vẫn luôn hoài mong ngóng. Còn chị Hảo, đã biết bao nhiêu mùa gió Bấc đi qua mà 9 chai dầu gió vẫn chưa thể thành 10… Đọc truyện, ta cứ ngỡ như trọn vẹn rồi nhưng vẫn thành ra dang dở. Dường như nhân vật trong “Hiu hiu gió bấc" là những con người sinh ra để sống một lần và trọn vẹn với cái đầu tiên. Trái tim của họ không có khả năng làm lành lần thứ hai, họ sống và hết yêu mình như thể cuộc đời họ chỉ có một, vì thế mà thành ra dang dở.

Thêm một mùa gió bấc nữa, chị Hảo vẫn chưa lấy chồng. Ai lại cũng hỏi, chị chờ ai vậy cà. Chị bảo chờ người ta xức dầu Nhị Thiên Đường của chị mà hết đau, chờ người ta đánh cờ mà trong tâm "Viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn", chờ người ta thôi buồn khi đưa chốt qua sông.

Nhưng mà chờ tới chừng nào lận?

Ai mà biết.

              Mùa này gió bấc hiu hiu lại về.

(Hiu hiu gió bấc)


Những khắc khoải tình người


Nhưng sâu sắc hơn cả, cái chất của đất và người Nam Bộ còn hiện lên sâu sắc và đậm nét ở nơi tình nghĩa thắm thiết, bởi cái cách người ta yêu nhau và cảm nhau. Tình nghĩa có lẽ là cái đặc sản rõ nét nhất trong văn chương Nam Bộ hay văn chương  Nguyễn Ngọc Tư. Thời xưa hay thời nay, người ta đọc văn của Nguyễn Ngọc Tư vẫn thường rất dễ xúc động bởi tình nghĩa giản dị như vậy… Những truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không mang lại cho chúng ta một sự bi thiết, đau khổ đến thê thảm, Nguyễn Ngọc Tư không miêu tả những điều như thế. Cả một tập 14 câu chuyện, tưởng như chỉ là những vụn vặt cuộc đời lướt qua chúng ta, để lại cho chúng ta những nỗi buồn man mác về cuộc sống này. Vì những câu chuyện ấy nó éo le mà chân thật quá, cứ như thể đó là cuộc đời, là hơi thở, là nỗi thương tổn đâu đó rất gần quanh chúng ta. Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, ai đã từng chia tay với người thương của mình, ai đã từng phản bội lòng tin, ai đã từng mang trong mình những hoài niệm về những mối tình xưa cũ,... Và trong chính cuộc đời này, những điều éo le như vậy vẫn hoài diễn ra ngay trước mắt, nhưng chúng ta đâu có vịn vào đó để ghét đời, thù người. Các nhân vật trong tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận dù là ai vẫn luôn vươn tới tình yêu giữa người với người. Dù họ là ai, là một người đàn bà với số phận làm đĩ, bị người ta vây quanh đánh đập, đánh ghen, giật áo xé váy, thậm chí là đổ cả keo dán sắt vào cửa mình của chị, trôi dạt vào một gia đình ghe nước trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận, hay đến người hát ca nữ già nua đơn độc trong Cuối mùa nhan sắc. Họ đều khát khao yêu và được yêu, được cuộc đời chở che bằng những thứ tình người đáng quý nhất. Những Cải ơi, Huệ lấy chồng, Cuối mùa nhan sắc, Duyên phận so le... - chỉ cái tên truyện thôi đọc lên đã thấy khắc khoải, cũng đủ khiến người ta day dứt hoài. Nỗi đau của kiếp người rất riêng, chẳng ai giống một ai. Nỗi đau kẻ cùng cực khốn khó, vật vã trong cái đói cái nghèo sao giống được với nỗi đau những người yêu thương nhau mà đường đời cứ lạc, càng khác xa nỗi đau của những thân phận bèo bọt lênh đênh cứ mặc cho dòng nước dòng đời đánh dạt đánh trôi... Lúc đã thấm tháp, đã thấu hiểu cái khổ cái đau mới thấy hai chữ tình người hiện lên sao mà lay động, trân quý.

Tôi thích những mối tình câm, tình thầm. Tôi tưởng tượng đó là những mối tình da diết, sâu sắc. Mãi mãi chẳng dám nói thật lòng, cho đến cuối đời, tình ấy vẫn bàng bạc, rập rờn, và mỗi khi có dịp (như đi qua chỗ ngồi cũ, con đường cũ, gương mặt cũ…), ta bỗng thấy nhói ran. Chắc là khó chịu lắm, khi yêu mà giả bộ không yêu, khi buồn cố diễn mặt vui, khi đau tình phải tỏ ra vô tình…

Những day dứt, ám ảnh đến tận khi gấp cuốn sách lại

Gập lại cuốn sách, một khoảng buồn hiện ra. Những ám ảnh về những hình ảnh cuối cùng trong mẩu chuyện cuối cùng không làm cho người ta khỏi day dứt. Người đàn bà làm đĩ đã phải lòng người cha. Và dĩ nhiên ông ta khinh thường, rẻ rúng. Còn Điền lại yêu chị, yêu một tình yêu không thể hiểu nổi. Với 2 đứa trẻ, người chị của Điền và cả Điền nữa, nỗi buồn từ lâu đã làm chai sạn họ, biến họ trở thành những đứa trẻ tự kỷ điển hình. Giao tiếp bằng cảm giác, không còn bằng lời nói. Có nỗi đau nào buồn hơn thế. Câu chuyện kết thúc với việc người chị làm đĩ bỏ đi. Thằng Điền dáo dác đi tìm, và cũng một đi không trở lại nữa. Ông bố đã bắt đầu biết quan tâm hơn tới người chị của Điền.  Nhưng rồi chị Điền bị “những đứa trẻ tên Hận, tên Thù, mang khuôn mặt rắp tâm của cha tôi” cưỡng hiếp… Những dòng cuối cùng như chiếc kim đâm chọt vào lòng người đọc, về một cuộc sống mà đâu đó đang diễn ra, đâu đó bất hạnh và nỗi đau vẫn còn đó


     Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ, hay Dịu, Xuyến, Hường…Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn.


 Không có nhiều từ còn lại để miêu tả văn của Nguyễn Ngọc Tư. Vẫn như một ám ảnh, khắc khoải trong lòng người đọc, ta đã nhiều lúc không hiểu mà tự hỏi cô đã lấy từ đâu, đã cặn bằng mấy mà chuốt được cái thứ văn bỗ bã, ráp ghép những mảnh đời dạt đời, dạt người, dạt từ trong chính sông nước miền Tây đến cả ồn ã phố thị. Mà mỗi mảnh đời là một câu chuyện, là một điều mà người ta vẫn luôn hằng suy tư, trăn trở, đoái hoài, day dứt. Cánh Đồng Bất Tận là tập hợp của nhiều truyện ngắn mà tất cả đều buồn, đều day dứt. Có lẽ người ta đi qua đời quá nhanh, chiêm nghiệm thứ còn phần nông cạn, phải cần Nguyễn Ngọc Tư viết những trang sách này mà nhắc nhớ người về một phần của đời sống, một phần của cái hồn mình, để người ta có thể sống tốt hơn, hay đón nhận những vụn vỡ một cách trọn vẹn và chiêm nghiệm hơn. Dường như Nguyễn Ngọc Tư viết rất giỏi về cái nỗi buồn. Bà viết về cái bi ai mà không thấy con người ta là sản phẩm của hoàn cảnh, không thấy con người ta đê hèn đi, đồi bại đi. Cuộc sống dù có éo le đến cỡ nào không làm cho con người ta quay quắt, cay cực, người ta không vì thế mà ghét bỏ rồi thù hằn nhau, muốn huỷ hoại nhau. Đọc xong tập truyện Cánh đồng bất tận ta tự hỏi vì đâu mà những đạo lý quý giá ấy lại ngày càng trở nên mất giá, yếu đuối mà bất lực trước cuộc đời thực? Rồi những thứ tình nghĩa ấy phải chăng sẽ bé nhỏ và lầm lũi, cô độc rồi chìm thật sâu vào bóng tối khi mà vật chất lên ngôi, khi mà lòng người chỉ được coi là thứ yếu… Vì thế mà đọc xong, người ta không thể không nguôi ngoai về từng câu từng chữ, người ta không thể đọc mà không suy tư, không trăn trở, không hoài niệm và không lo lắng… Không phải là những trang sách dữ dội nhưng nó vẫn để lại trong lòng người đọc những gợn sóng về những điều nghịch lý nhưng vẫn đang xảy ra trong chính cuộc đời này. Cuốn sách sẽ đưa các bạn vào một khoảng lặng của tâm hồn, bỏ mặc những cuộc đời vẫn đang bon chen và xô bồ ngoài kia, bỏ mặc đi guồng quay tất bật của cuộc sống, cuộc sách sẽ cho chúng ta trải nghiệm những trạng thái thẳm sâu trong tâm hồn, cho chúng ta cơ hội để suy ngẫm, về mình, về người, về những điều đang xảy ra, đã xảy ra và sẽ xảy ra.

Review bởi: Hoàng Dịu - Bookademy

Hình Ảnh: Hoàng Dịu - Bookademy


______________

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy

Bạn đam mê viết lách, yêu thích đọc sách và muốn lan tỏa văn hóa đọc tới cộng đồng của YBOX.VN? Đăng ký để trở thành CTV Bookademy tại link: http://bit.ly/bookademy_ctv

(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ “Tên tác giả - Bookademy”. Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.

Xem thêm

Trong tác phẩm này Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa một cách rõ nét về hiện thực tàn khốc qua những câu chuyện về các số phận con người bị xã hội bỏ rơi, bức bối trong nghèo đói và những bi kịch không thể tháo gỡ. Từ gia đình ông Võ đến các nhân vật như Sương, Nương, hay Điền, mỗi người đều phải đối diện với những đau khổ, mất mát và sự áp bức của hoàn cảnh.


Sự nghèo khó, tình trạng thiếu thốn và sự bế tắc của những nhân vật là phản ánh rõ nét hiện thực tàn khốc trong xã hội nông thôn, nơi con người không chỉ phải vật lộn với những khó khăn về vật chất mà còn phải chiến đấu với những định kiến, sự cô lập từ xã hội. Cuộc sống của họ đầy ắp những sự kiện đau thương, như cái chết đột ngột của mẹ Nương, sự cô đơn tột cùng của Sương, hay sự bất lực của ông Võ trong việc chăm sóc gia đình.


Nguyễn Ngọc Tư không né tránh mà miêu tả trực tiếp những bi kịch này, khiến người đọc cảm nhận được sự nhẫn tâm của số phận, sự vô cảm của xã hội đối với những người yếu thế. Tuy nhiên, trong cái tàn khốc ấy, tác phẩm cũng khắc họa những khoảnh khắc nhân văn, những biểu hiện của tình thương, lòng bao dung, tạo nên một bức tranh về sự sống động và bất khuất của con người trong xã hội đầy khó khăn.

Tính tượng trưng và ý nghĩa của các chi tiết trong "Cánh Đồng Bất Tận" của Nguyễn Ngọc Tư là một khía cạnh thú vị và đầy chiều sâu. Tác giả sử dụng rất nhiều hình ảnh và chi tiết mang tính biểu tượng để làm nổi bật chủ đề, cảm xúc và thông điệp của tác phẩm. Những chi tiết như cánh đồng, bùn lầy, hay những con đường không có lối thoát không chỉ đơn giản là miêu tả cảnh vật mà còn có ý nghĩa sâu xa, phản ánh hoàn cảnh và nội tâm của các nhân vật.


Cánh đồng trong tác phẩm có thể được hiểu như một biểu tượng của sự bế tắc, sự đày đọa trong cuộc sống của những người dân nghèo miền Tây. Đây là nơi không có lối thoát, là "đất" mà những nhân vật như Sương, chị Hai hay ông Ba phải sống, làm việc và vật lộn với khó khăn. Tuy nhiên, cánh đồng cũng có thể tượng trưng cho một không gian đầy hy vọng, nơi cuộc sống nảy mầm từ những khó khăn và thử thách, giống như những hạt giống được gieo xuống đất để mọc lên dù phải trải qua bao nhiêu bão tố.


Bùn lầy là một chi tiết khác mang tính tượng trưng mạnh mẽ trong tác phẩm. Bùn lầy không chỉ là biểu tượng của sự nghèo khó, khó khăn mà còn là sự trì trệ, không thể thoát ra khỏi những vòng xoáy tăm tối của số phận. Những nhân vật như Sương có thể dễ dàng bị vùi lấp trong bùn lầy của chính cuộc đời họ, nhưng đồng thời cũng có thể thấy rằng, bùn lầy chính là nơi họ có thể tìm thấy chính mình, những giá trị tiềm ẩn chưa được khai phá, và những cơ hội mới nếu họ vượt qua được.


Con đường không có lối thoát cũng là một chi tiết đáng chú ý. Các nhân vật trong tác phẩm thường phải đi qua những con đường ấy, những con đường tối tăm và đầy thử thách, không biết đâu là điểm đến. Tuy nhiên, chính sự không xác định ấy lại làm nổi bật sự kiên cường và nghị lực sống của họ. Con đường không lối thoát cũng có thể được hiểu là sự biểu trưng cho những lựa chọn trong cuộc sống, khi người ta đứng trước những ngã rẽ nhưng không biết đâu là con đường đúng đắn, và đôi khi, sự chọn lựa là một cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ.


Những chi tiết tượng trưng trong "Cánh Đồng Bất Tận" không chỉ là các yếu tố miêu tả bối cảnh hay thực tại, mà còn là những hình ảnh sâu sắc phản ánh nội tâm, cảm xúc, và những bi kịch mà các nhân vật phải đối diện. Chính sự sử dụng tinh tế những hình ảnh này đã làm cho tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư trở nên giàu tính đa chiều, khiến người đọc có thể suy ngẫm và cảm nhận nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau.

Có thể nói tác phẩm quá bi kịch và u ám, dễ khiến người đọc cảm thấy nặng nề và tuyệt vọng. Với những cảnh ngộ khổ cực, những số phận bất hạnh không có lối thoát, một số độc giả cảm thấy rằng Nguyễn Ngọc Tư đã quá chú trọng vào sự đau khổ mà thiếu đi những yếu tố tích cực hoặc giải pháp để thoát khỏi bế tắc. Họ cảm thấy rằng tác phẩm chỉ xoáy vào bi kịch mà không đưa ra hy vọng hay sự cứu rỗi cho nhân vật, khiến câu chuyện trở nên quá thảm thương và khó tiếp cận.


Bên cạnh đó, một số độc giả lại cho rằng cách xây dựng nhân vật trong Cánh Đồng Bất Tận có phần thiếu tính đa chiều. Mặc dù những nhân vật chính như Sương, chị Hai hay ông Ba mang những nét đặc trưng rất sâu sắc, nhưng sự phức tạp trong tính cách của họ có thể khiến người đọc khó đồng cảm hoặc hiểu rõ hơn về động cơ của nhân vật. Các nhân vật đôi khi trở nên "một chiều", chỉ tập trung vào những vấn đề khổ đau, thiếu những khía cạnh khác để làm cho họ trở nên "người" hơn.


Một ý kiến khác chỉ trích phong cách viết của Nguyễn Ngọc Tư là đôi khi quá đậm chất tượng trưng và thiếu sự rõ ràng, khiến một số người cảm thấy khó hiểu hoặc lạc lõng trong việc cảm nhận câu chuyện. Đặc biệt, sự miêu tả tinh tế nhưng cũng đầy nặng nề về xã hội miền Tây và cuộc sống của những người nghèo đôi khi bị cho là quá cứng nhắc và thiếu sự đa dạng trong các yếu tố xã hội mà tác phẩm muốn phản ánh.


Tóm lại, dù "Cánh Đồng Bất Tận" nhận được rất nhiều sự khen ngợi vì sự chân thật và cảm động, nhưng cũng không thiếu những ý kiến trái chiều, nhất là từ những người cảm thấy tác phẩm quá u ám hoặc thiếu sự hy vọng trong những bi kịch mà nhân vật phải trải qua.

Sự nhân văn trong "Cánh Đồng Bất Tận" của Nguyễn Ngọc Tư được thể hiện rõ nét qua cách tác giả miêu tả những số phận khắc khổ và những con người chịu đựng nỗi đau, thử thách của cuộc sống nhưng vẫn giữ được phẩm giá và khát khao hạnh phúc. Dù phải sống trong cảnh nghèo đói, bế tắc, các nhân vật như Sương, chị Hai, hay ông Ba vẫn không từ bỏ hy vọng và tình yêu. Họ không chỉ vật lộn với nghèo khó mà còn chiến đấu với chính những nội tâm dằn vặt, những ước mơ xa vời mà xã hội dường như không cho phép họ thực hiện. Tuy vậy, tình yêu thương, sự sẻ chia giữa họ lại là điểm sáng, là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của con người trong hoàn cảnh khó khăn. Tác phẩm phản ánh sự mạnh mẽ của con người khi đứng trước đau khổ, không phải để tìm kiếm sự an ủi, mà là để chứng tỏ rằng, ngay cả trong những ngày tháng tăm tối nhất, tình yêu và sự hy sinh vẫn có thể tồn tại, làm vơi đi phần nào nỗi buồn. Những nhân vật trong Cánh Đồng Bất Tận mang trong mình một phẩm giá nhân văn, khiến người đọc không chỉ cảm nhận được sự xót xa mà còn là niềm tin vào khả năng phục sinh của con người trong những hoàn cảnh tăm tối.

Ngôn ngữ trong "Cánh Đồng Bất Tận" của Nguyễn Ngọc Tư đặc biệt mộc mạc, giản dị nhưng lại vô cùng tinh tế và giàu cảm xúc. Tác giả sử dụng ngôn ngữ để khắc họa một cách chân thực và sâu sắc những số phận, hoàn cảnh sống của nhân vật, đồng thời tạo nên những khoảnh khắc đầy chất thơ và trữ tình.


1. Mộc mạc, gần gũi: Ngôn ngữ trong tác phẩm sử dụng những từ ngữ quen thuộc, dễ hiểu, phù hợp với bối cảnh nông thôn Nam Bộ. Cách dùng từ không phức tạp, giản dị, mang đậm âm hưởng của người dân vùng sông nước. Điều này giúp tác phẩm trở nên gần gũi, dễ tiếp cận với người đọc và đồng thời làm nổi bật sự chân thật của cuộc sống và cảm xúc nhân vật.


2. Giàu hình ảnh và cảm xúc: Nguyễn Ngọc Tư sử dụng ngôn ngữ để tạo ra những hình ảnh sống động, từ miêu tả thiên nhiên cho đến những diễn biến nội tâm của nhân vật. Các mô tả về cánh đồng mênh mông, dòng sông hiền hòa, hay bầu trời rộng lớn mang lại cảm giác vừa bao la vừa cô đơn, phản ánh đúng tâm trạng của các nhân vật. Những miêu tả này không chỉ là để kể chuyện, mà còn để gợi lên cảm xúc và suy ngẫm trong lòng người đọc.


3. Tính biểu cảm cao: Ngôn ngữ trong tác phẩm không chỉ để mô tả hiện thực mà còn giúp diễn đạt những cảm xúc phức tạp của nhân vật. Qua lời kể của Nương, người đọc cảm nhận được sự đau khổ, sự cô đơn, những dằn vặt trong tâm hồn của cô. Ngôn ngữ trong các đoạn hội thoại cũng rất chân thành, mang tính tự sự, cho thấy sự mâu thuẫn giữa cảm xúc và hiện thực sống của các nhân vật.


4. Sự kết hợp giữa thực và mơ: Nguyễn Ngọc Tư khéo léo đưa vào những yếu tố mơ mộng trong ngôn ngữ, làm tăng vẻ đẹp trữ tình cho câu chuyện. Dù câu chuyện xoay quanh những bi kịch, đau khổ, nhưng ngôn ngữ của tác giả vẫn không thiếu những khoảnh khắc mơ màng, thể hiện khát khao hạnh phúc và ước mơ về một tương lai tươi sáng.


Tóm lại, ngôn ngữ trong Cánh Đồng Bất Tận vừa mộc mạc, giản dị nhưng cũng rất giàu hình ảnh và cảm xúc, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về những bi kịch và khát vọng của các nhân vật trong bối cảnh xã hội nông thôn Việt Nam.

Mặc dù "Cánh Đồng Bất Tận" phản ánh một hiện thực tàn khốc, nhưng Nguyễn Ngọc Tư vẫn khéo léo lồng ghép vào tác phẩm những yếu tố trữ tình và lãng mạn, tạo ra một sự tương phản mạnh mẽ, làm tăng chiều sâu cho câu chuyện.


Chất trữ tình lãng mạn trong tác phẩm thể hiện qua cách miêu tả thiên nhiên và những khoảnh khắc cảm động của nhân vật. Dù sống trong nghèo đói, cô đơn và bế tắc, các nhân vật trong tác phẩm vẫn có những lúc ngẩn ngơ ngắm nhìn cảnh vật, như những cánh đồng mênh mông, bầu trời Nam Bộ rộng lớn, hay những buổi chiều tà khi ánh sáng dịu dàng chiếu lên làn nước. Những cảnh vật ấy không chỉ phản ánh vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của những khao khát, mơ ước của con người, dù họ đang sống trong hoàn cảnh khó khăn.


Tác phẩm cũng chứa đựng nhiều tình cảm lãng mạn giữa các nhân vật. Mối quan hệ giữa Sương và những người xung quanh, mặc dù có những khổ đau và gian truân, nhưng vẫn tỏa ra một tình cảm chân thành, một sự nâng đỡ trong những lúc tuyệt vọng. Những khoảnh khắc cảm động giữa các nhân vật, như sự quan tâm, chia sẻ, thậm chí là sự tha thứ, khiến câu chuyện trở nên sâu sắc và đầy tình người.


Chất trữ tình lãng mạn trong "Cánh Đồng Bất Tận" không chỉ là sự tô điểm cho bức tranh hiện thực, mà còn là một sự bù đắp cho những thiếu thốn trong cuộc sống của nhân vật, một lời nhắc nhở về những giá trị yêu thương và hy vọng trong một thế giới đầy thử thách.

Ở "Cánh Đồng Bất Tận", Sương là một nhân vật khá đặc biệt, đóng vai trò quan trọng trong việc khắc họa những mâu thuẫn xã hội và làm nổi bật giá trị nhân văn của tác phẩm. Sương là một cô gái hành nghề mại dâm, mang trong mình quá khứ đau buồn và đầy tổn thương. Dù bị xã hội khinh miệt và gán cho những định kiến khắc nghiệt, cô vẫn thể hiện sự bao dung, lòng nhân hậu, và khát khao được yêu thương.


Sự xuất hiện của Sương trong gia đình ông Võ làm xáo trộn cuộc sống vốn khắc nghiệt của họ. Cô không chỉ đối mặt với sự lạnh lùng và khinh miệt từ ông Võ mà còn phải chịu đựng những ánh mắt đầy định kiến từ người đời. Tuy nhiên, qua hành động và lời nói, Sương bộc lộ một trái tim ấm áp, sẵn sàng chăm sóc và che chở cho Nương và Điền như một người mẹ. Cô cố gắng mang lại chút hơi ấm gia đình trong một môi trường đầy căng thẳng và u uất.


Nhân vật Sương đặc biệt ở chỗ, cô đại diện cho những người phụ nữ bị xã hội gạt ra bên lề nhưng vẫn giữ được phẩm giá và lòng nhân ái. Qua Sương, Nguyễn Ngọc Tư truyền tải thông điệp sâu sắc về sự thấu hiểu và tha thứ, cho thấy rằng ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, con người vẫn có thể tìm thấy hy vọng và tình người.

Trong tác phẩm này, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng nên những nhân vật mang số phận khắc khổ, mỗi người đều mang trong mình nỗi đau và bi kịch riêng, phản ánh sự khắc nghiệt của cuộc sống nơi miền quê Nam Bộ.


Ông Võ là một người cha tàn nhẫn, mang trong mình nỗi hận thù với phụ nữ sau khi bị vợ bỏ rơi. Cuộc đời ông chìm trong cô đơn và uất hận, trút mọi đau khổ lên hai đứa con. Ông sống khép kín, dằn vặt và không tìm được lối thoát cho bản thân.


Nương và Điền là những đứa trẻ lớn lên trong sự thiếu vắng tình thương và sự hà khắc của cha. Nương khao khát một cuộc sống bình yên, nhưng tuổi thơ của cô bị phủ bóng bởi những trận đòn roi và sự lạnh lùng của cha. Điền, tuy vẫn còn non nớt, phải gánh chịu áp lực từ cha và cuối cùng mất mạng, để lại nỗi đau sâu sắc cho Nương.


Sương, một cô gái hành nghề mại dâm, lưu lạc đến gia đình ông Võ trong hy vọng tìm được sự che chở. Tuy nhiên, xã hội đầy định kiến và quá khứ cay đắng khiến cuộc đời cô không ngừng trôi dạt, chịu sự khinh miệt và xa lánh.


Những nhân vật trong tác phẩm đều là nạn nhân của hoàn cảnh, bị đẩy vào những ngõ cụt của cuộc đời. Họ sống trong đau khổ, bị xã hội và những người xung quanh xa lánh, nhưng đồng thời vẫn khao khát tình thương và sự cứu rỗi. Nguyễn Ngọc Tư, qua những số phận khắc khổ này, đã phơi bày những góc tối của xã hội và khơi gợi lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu từ người đọc.