Biết bao câu chuyện về người tí hon đã từng làm say đắm cả thế giới. Nhưng chẳng phải ai cũng biết rằng họ thực sự tồn tại. Và trong câu chuyện này họ lại là những người vay mượn sinh sống bên dưới thế giới con người. Nếu bạn muốn đến với thần tiên mà lại gần gũi, hãy đến với thế giới của Những Người Vay Mượn Tí Hon

#1 Đôi nét về cuốn sách

Tác phẩm Những người vay mượn tí hon của nhà văn Mary Norton.

Ngôn từ giản dị cùng giọng kể đầy lôi cuốn đã đem lại cho người đọc một cảm giác đáng tin cậy và ngạc nhiên về thế giới những người vay mượn tí hon. Bạn sẽ phải "wow" nhiều lần trước những khung cảnh mà nhà văn Marry Norton tái hiện qua từng câu chữ.



"Bà Homily tự hào về phòng khách của mình: tường được dán mẩu vụn của những bức thư cũ gom được từ thùng rác và bà Homily đã sắp xếp sao cho những dòng chữ viết tay hàng ngang thành những đường kẻ dọc chạy từ sàn nhà đến trần nhà."


Bên dưới sàn nhà bếp, những người vay mượn tí hon có cả lò sửa, nước nóng để dùng vào mùa đông. Họ tắm trong cái liễn một thời đựng patê gan. Cái cổng chống chuột thì quả là kỳ công, xứng đáng được coi là tác phẩm nghệ thuật: "Ông Pod dùng đủ thứ để xây cái cổng này - một tấm của chiếc bàn nạo pho mát gập được, một cái nắp có bản lề của hộp đựng tiền nhỏ, những miếng kẽm vuông có lỗ của một chạm thức ăn cũ, một cái vỉ đập ruồi..."


Những khung cảnh thiên nhiên quá đỗi dịu dàng trong truyện sẽ kích thích trí tưởng tượng của những bạn trẻ. "Ánh sáng mặt trời, cỏ, gió nhẹ và nửa đường lên bờ cỏ, chỗ vòng ra ở góc nhà, một cây anh đào đang nở hoa! Trên lối đi là một thảm cách hoa màu hồng và, ngay dưới gốc cây nhạt màu như bơ là một bụi hoa anh thảo."


Tạp chí School Library Journal từng ngợi ca cuốn sách này: "Lối viết ma mị và lôi cuốn đã thuyết phục được cả trẻ con lẫn người lớn rằng người vay mượn có thật."


Dù nhà văn tài danh Marry Norton đã mất nhưng cuốn sách tuyệt vời này của bà đã thể hiện sức sống mạnh mẽ trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Tác phẩm đã bốn lần được dựng thành phim (vào các năm 1973, 1992, 1993, 1997). 


Tiểu thuyết Những người vay mượn tí hon được hãng phim hoạt hình Nhật Bản nổi tiến Ghibli chuyển thể thành phim và được công chiếu vào năm 2010. Đến hiện tại, bộ phim vẫn nhận được sự yêu thích của công chúng.


Tác phẩm đã nhận được những giải thưởng danh giá như Winner of the Carnegie Medal, A Liews Carroll Shelf Award Book, An ALA Distinguished Book.


Marry Norton là nhà văn nổi tiếng người Anh. Bà lớn lên cùng gia đình trong một tòa nhà có từ thời Georgia. Nét cổ điển và bí ẩn của khung cảnh thời thơ ấu đã truyền cảm hứng cho bà viết series Những người vay mượn tí hon. Văn chương chỉ là nghề tay trái của bà nhưng lại chính là sự  nghiệp ghi danh Marry Norton. Những người vay mượn tí hon là bộ tác phẩm lớn nhất của bà.


#2 Những người vay mượn tí hon

Bà May là người đầu tiên kể cho tôi nghe về họ. Không, không phải tôi. Sao có thể là tôi - một con bé ngông cuồng, bừa bộn, bướng bỉnh, lúc nào cũng nhìn chằm chằm với cặp mắt tức giận, lại còn bị nói là có thói nghiến răng? Kate, cô bé thực ra nên được gọi như vậy. Phải, đúng thế - Kate. Dù sao đi nữa thì cái tên đó cũng chẳng quan trọng lắm: cô bé gần như không xuất hiện trong câu chuyện.

Bà May sống tại hai căn phòng trong ngôi nhà của bố mẹ Kate ở London; bà ấy, theo tôi nghĩ, là họ hàng gì đó. Phòng ngủ của bà ở tầng hai, còn phòng khách của bà là cái nơi trong ngôi nhà được gọi là “phòng ăn sáng”. Thường thì các phòng ăn sáng đều khá ổn vào buổi sáng khi ánh mặt trời ùa vào trên bánh mì nướng và trên mứt, nhưng đến buổi chiều chúng lại có vẻ như tan biến đi đôi chút và chìm trong một thứ ánh sáng bạc kỳ lạ, buổi chạng vạng riêng của chúng; khi đó chúng chứa đựng một kiểu buồn riêng, nhưng hồi Kate còn nhỏ thì đó lại là kiểu buồn mà cô bé thích. Cô bé thường lẻn vào phòng bà May ngay trước giờ uống trà chiều và bà May thường dạy cô đan lát.

Bà May đã già, các khớp xương của bà đã bị tê cứng, và bà không hẳn nghiêm khắc mà thay vào đó bà có sự vững vàng bên trong. Kate không bao giờ “ngông cuồng” với bà May, cũng không bừa bộn, không bướng bỉnh; còn bà May thì dạy cho cô bé nhiều thứ ngoài đan lát: cách quấn len thành một trái bóng hình quả trứng; cách dọn dẹp ngăn kéo và cách phủ, như một lời ban phước, một tấm giấy lụa sột soạt lên trên đồ đạc để chống bụi.

“Sao im hơi lặng tiếng thế, cô bé?” một hôm bà May hỏi, trong khi Kate đang ngồi khom lưng im lặng trên chiếc gối quỳ. “Cháu sao vậy? Mất lưỡi rồi à?”

“Không ạ,” Kate vừa nói vừa kéo nút giày, “cháu bị mất que đan rồi.” Họ đang đan một chiếc chăn trải giường ghép bằng các ô vuông nhỏ bằng len: vẫn còn phải đan ba mươi ô vuông nữa. “Cháu biết mình để nó ở đâu,” cô bé hấp tấp nói tiếp, “cháu đã để nó ở ngăn dưới cùng trên giá sách ngay cạnh giường cháu.”

“Ở ngăn dưới cùng ư?” bà May nhắc lại, cây kim của bà vẫn vẩy đều trong ánh lửa. “Gần sàn nhà à?”

“Vâng,” Kate nói, “nhưng cháu tìm trên sàn nhà rồi. Dưới cái thảm. Khắp mọi nơi. Len thì vẫn còn đó. Đúng chỗ cháu đã để.”

“Ôi trời,” bà May khẽ thốt lên, “đừng nói là họ cũng ở trong ngôi nhà này đấy chứ!”

“Ai cơ ạ?” Kate hỏi.

“Những Người Vay Mượn,” bà May nói, và trong ánh sáng chập chờn bà trông như đang mỉm cười.

Kate nhìn chằm chằm hơi sợ hãi. “Có những thứ như thế ư?” cô bé hỏi sau giây lát.

“Như gì nào?”

“Như là người, loại người khác, sống trong một ngôi nhà và... mượn đồ đạc?”

Bà May đặt miếng đan xuống. “Cháu nghĩ sao?” bà hỏi.

“Cháu không biết,” Kate vừa nói vừa giật mạnh nút giày. “Không thể có những người như thế được. Nhưng vẫn có,” cô bé ngẩng đầu lên, “... vẫn có những lúc cháu nghĩ chắc chắn là có.”

“Tại sao cháu lại nghĩ chắc chắn là có?” bà May hỏi.

“Vì tất cả những thứ đã biến mất. Kim băng chẳng hạn. Các nhà máy cứ tiếp tục sản xuất kim băng, và hàng ngày người ta cứ tiếp tục mua kim băng ấy thế nhưng chẳng hiểu sao cứ đến lúc ta cần thì lại không có chiếc kim băng nào hết. Chúng đâu cả rồi? Bây giờ, ngay đúng phút này? Chúng đi đâu kia chứ? Chẳng hạn như những cái kim,” cô bé nói tiếp, “Tất cả những cái kim mẹ cháu từng mua - phải đến hàng trăm cái - không thể nào chỉ nằm lăn lóc trong ngôi nhà này.”

“Không nằm lăn lóc trong nhà, không,” bà May đồng ý.

“Và tất cả các đồ vật khác mà chúng ta vẫn mua hết lần này đến lần khác nữa. Nữa, nữa và nữa. Như bút chì rồi hộp diêm rồi xi gắn rồi kẹp tóc rồi đinh ghim rồi cái đê...”

“Và kim kẹp mũ,” bà May chen vào, “và giấy thấm.”

“Vâng, giấy thấm,” Kate đồng ý, “nhưng không có kim kẹp mũ.”

“Điều đó thì cháu nhầm rồi,” bà May nói, và bà lại tiếp tục đan. “Có một lý do cho kim kẹp mũ.”

Kate nhìn chằm chằm. “Có một lý do?” cô bé nhắc lại. “Ý cháu là... lý do kiểu gì?”

“Ừ, thực ra là có hai lý do. Kim kẹp mũ là một vũ khí cực kỳ hữu ích và” - bà May tự nhiên cười - “nhưng tất cả đều có vẻ như rất vô lý và” - bà ngập ngừng - “chuyện cũng lâu lắm rồi!”

“Nhưng bà kể cho cháu nghe đi,” Kate nói, “kể cho cháu nghe làm sao bà biết về kim kẹp mũ. Bà đã từng nhìn thấy cái nào chưa?”

Bà May giật mình liếc nhìn cô bé. “À có, có...” bà bắt đầu.

“Không phải kim kẹp mũ,” Kate kêu lên nôn nóng, “mà là một người-gì-gì-đó-như-bà-đã-gọi-họ, một Người Vay Mượn ấy ạ?”

Bà May hít một hơi thật mạnh. “Không,” bà nói nhanh, “ta chưa bao giờ nhìn thấy người nào cả.”

“Nhưng có người khác đã nhìn thấy,” Kate thét lên, “và bà biết điều đó. Cháu có thể thấy là bà biết!”

“Suỵt,” bà May nói, “không cần phải hét lên thế!” Bà nhìn xuống khuôn mặt đang ngẩng lên, rồi bà mỉm cười và ánh mắt bà trượt ra phía xa xăm. “Ta có một người em trai...” bà bắt đầu một cách lưỡng lự.

Kate quỳ trên chiếc gối. “Và ông ấy đã nhìn thấy họ!”

“Ta không biết,” bà May lắc đầu nói, “ta thật sự không biết!” Bà trải đều miếng len đan trên đầu gối. “Nó luôn đùa cợt. Nó kể cho chúng ta nhiều chuyện - em gái ta và ta - những chuyện không có thật. Nó chết rồi,” bà nhẹ nhàng nói thêm, “nhiều năm trước đây, ở tỉnh Biên giới Tây Bắc. Nó đã trở thành đại tá trung đoàn. Nó chết theo cách mà người ta gọi là ‘sự hy sinh của người anh hùng’...”

“Ông ấy là người anh em trai duy nhất của bà ư?”

“Phải, và nó là em út của chúng ta. Ta nghĩ đó là lý do vì sao” - bà suy nghĩ một lát, vẫn đang tự mỉm cười với mình - “phải, vì sao nó lại kể cho chúng ta những câu chuyện không có thật, những tưởng tượng kỳ lạ tới vậy. Nó ghen tị, ta nghĩ vậy, vì chúng ta lớn hơn nó - và đọc thạo hơn. Nó muốn gây ấn tượng với chúng ta; có thể nó muốn làm chúng ta sửng sốt. Ấy thế nhưng” - bà nhìn vào bếp lửa - “có cái gì đó ở nó - có thể bởi vì chúng ta đã lớn lên tại Ấn Độ với những bí ẩn, phép màu và huyền thoại quanh mình - cái gì đó đã làm chúng ta nghĩ rằng nó nhìn thấy những điều mà người khác không thể nhìn thấy được; có những lúc chúng ta biết rằng nó đang trêu đùa, nhưng còn những lúc khác - ừm, chúng ta cũng không chắc chắn lắm...” Bà cúi người về phía trước và gọn gàng quét tro vụn dưới ghi lò, rồi tay vẫn cầm chổi, bà lại nhìn chằm chằm vào đống lửa. “Nó không phải một cậu bé khỏe mạnh lắm: lần đầu tiên khi trở về từ Ấn Độ nó đã bị sốt do thấp khớp. Nó lỡ cả một học kỳ và bị đưa về nông thôn để hồi phục. Đến nhà một bà dì. Sau này ta cũng đã đến đó. Đó là một ngôi nhà cổ kỳ lạ...” Bà treo chổi lên cái móc bằng đồng, lau bụi trên tay bằng chiếc khăn mùi soa, rồi cầm miếng đan lên. “Phải châm đèn lên thôi,” bà nói.

“Khoan đã,” Kate nằn nì, cúi người về phía trước. “Xin bà tiếp tục đi. Xin bà kể cho cháu...”

“Nhưng ta đã kể cho cháu rồi mà.”

“Không, chưa. Ngôi nhà cổ ấy - có phải đó là chỗ ông ấy đã nhìn thấy - ông ấy đã nhìn thấy...?”

Bà May cười. “Chỗ nó đã nhìn thấy những Người Vay Mượn? Phải, đó là điều mà nó đã kể cho chúng ta... điều mà nó muốn chúng ta tin. Và hơn nữa, có vẻ như không chỉ nhìn thấy họ mà nó còn biết rất rõ về họ; nó đã trở thành một phần trong cuộc sống của họ; thực ra ta gần như có thể nói chính nó đã trở thành một Người Vay Mượn...”

“Ôi, kể cho cháu đi, cháu xin bà. Bà cố gắng nhớ đi. Ngay từ đoạn đầu ấy!”

“Nhưng ta vẫn nhớ đấy chứ,” bà May nói. “Kỳ lạ ở chỗ ta nhớ nó rõ hơn nhiều chuyện thật đã xảy ra. Có thể đó là chuyện thật. Chỉ là ta không biết thôi. Cháu biết không, trên đường trở lại Ấn Độ em trai ta và ta ở chung một khoang tàu - em gái ta thường ngủ với cô gia sư - và, trong những đêm rất nóng nực đó, nhiều lúc chúng ta không ngủ được; vậy là em trai ta lại nói chuyện hàng tiếng hàng tiếng đồng hồ, nhắc lại những câu chuyện cũ, kể lại các cuộc nói chuyện, kể đi kể lại cho ta các chi tiết - tự hỏi họ có khỏe không, đang sống ra sao và...”

“Họ? Họ là ai - chính xác họ là ai?”

“Homily, Pod và Arrietty bé nhỏ.”

“Pod?”

“Phải, ngay cả cái tên của họ nghe cũng thật kỳ lạ. Họ tưởng tượng rằng họ có tên riêng của mình - khá khác biệt với tên của loài người - nhưng chỉ thoáng nghe ta cũng có thể thấy chúng đã được mượn. Ngay cả tên của bác Hendreary và Eggletina. Tất cả những gì họ có đều là vay mượn; họ không có bất cứ cái gì là của riêng họ cả. Chẳng có gì. Tuy nhiên, em trai ta nói họ rất dễ tự ái và kiêu ngạo, và họ nghĩ rằng họ sở hữu cả thế giới.”

“Ý bà là sao?”

“Họ nghĩ rằng loài người chỉ được tạo ra để làm công việc nặng nhọc - những kẻ nô lệ khổng lồ sinh ra để họ sử dụng. Ít ra đó là điều họ nói với nhau. Nhưng em trai ta nói rằng dưới vẻ bề ngoài đó, nó nghĩ họ sợ hãi. Là vì họ sợ hãi, nó nghĩ, cho nên họ mới trở nên bé như thế. Mỗi một thế hệ lại một bé hơn và ẩn khuất hơn. Ngày xửa ngày xưa, dường như vậy, và ở nhiều nơi trên nước Anh, tổ tiên chúng ta đã nói khá công khai về những ‘người tí hon’.”

“Vâng,” Kate nói, “cháu biết.”

“Ngày nay, ta cho rằng,” bà May chậm rãi nói tiếp, “nếu họ có còn tồn tại chăng nữa, thì ta cũng chỉ tìm thấy họ trong các ngôi nhà cũ kỹ và yên tĩnh ở vùng nông thôn hẻo lánh - và chỗ nào con người sống theo lệ thường. Lệ thường là cái bảo vệ họ. Họ phải biết được những phòng nào sẽ được sử dụng và sử dụng khi nào. Họ không ở lâu những chỗ có người cẩu thả hay có trẻ con ương ngạnh, hoặc có một số loại vật nuôi nhất định.

“Cái ngôi nhà đặc biệt ấy, tất nhiên, là lý tưởng - tuy rằng đối với một vài người trong số họ thì hơi lạnh lẽo và trống trải. Bà dì Sophy nằm liệt giường, do một tai nạn khi đi săn khoảng hai mươi năm trước, còn về những người khác thì chỉ có bà Driver đầu bếp, Crampfurl làm vườn, và thỉnh thoảng có một người hầu không thường xuyên hay gì đó. Em trai ta, khi nó đến đó sau hồi bị sốt do viêm khớp, cũng phải nằm hàng giờ trên giường, và trong những tuần đầu có vẻ như những Người Vay Mượn không biết tới sự tồn tại của nó.

“Nó ngủ trong căn phòng cũ dành cho trẻ con, phía sau phòng học. Phòng học hồi đó được phủ khăn, bọc vải và đầy đồ lặt vặt bỏ đi - những hòm những xiểng linh tinh, một cái máy khâu hỏng, một bàn viết, một con ma-nơ-canh của thợ may, một cái bàn, vài cái ghế, và một chiếc piano cơ không dùng nữa - vì những đứa trẻ từng sử dụng phòng này, con cái của bà dì Sophy, đã lớn từ lâu, đã kết hôn, đã qua đời hoặc chuyển đi chỗ khác. Căn phòng trẻ con mở ra phía phòng học và từ giường mình em trai ta có thể nhìn thấy bức tranh sơn dầu trận Waterloo treo trên lò sưởi phòng học và, ở trên tường, một chiếc tủ lắp kính, và bên trong tủ, treo trên móc và giá, là một bộ ấm tách trà của búp bê - rất dễ vỡ và cũ kỹ. Ban đêm, nếu cửa phòng học mở, nó có thể nhìn dọc hành lang sáng đèn dẫn đến đầu cầu thang, và nó cảm thấy được an ủi khi nhìn thấy, vào lúc hoàng hôn, bà Driver xuất hiện ở đầu cầu thang và đi ngang qua lang mang một khay đựng bánh bích quy Bath Oliver và bình pha lê cao đựng rượu vang Fine Old Pale Madeira cho bà dì Sophy. Khi đi ra, bà Driver dừng lại và vặn nhỏ đèn khí ga trong hành lang cho đến độ chỉ còn là ngọn lửa xanh mờ, và rồi nó nhìn theo khi bà đi cồm cộp xuống cầu thang, từ từ chìm xuống khuất khỏi tầm mắt giữa những con tiện cầu thang.

“Dưới lối đi này, trong hành lang tầng dưới, có một chiếc đồng hồ, và suốt đêm nó nghe đồng hồ đổ chuông điểm mỗi giờ qua. Đó là một chiếc đồng hồ quả lắc to và rất cũ. Ông Frith từ thị trấn Leighton Buzzard hàng tháng đến để lên giây, như bố ông ta và trước đó nữa là ông bác của ông vẫn làm. Trong tám mươi năm, họ nói (và đây là điều ông Frith biết chắc chắn) chiếc đồng hồ chưa từng dừng lại và, như tất cả mọi người được biết, cả nhiều năm trước đó nữa. Điều thú vị là - chiếc đồng hồ chưa bao giờ được phép di chuyển đi. Nó đứng sát ván ốp chân tường, và các phiến đá lát sàn xung quanh nó đã được lau nhiều đến nỗi có một cái bệ nhỏ, em trai ta kể, nhô lên ở bên trong.

“Và, dưới cái đồng hồ ấy, dưới cái ván ốp, có một cái lỗ...”


Tác giả: Wa.nK

Hình ảnh: Wa.nK

--------------------------------------------------


Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy


Bạn đam mê viết lách, yêu thích đọc sách và muốn lan tỏa văn hóa đọc tới cộng đồng của YBOX.VN? Đăng ký để trở thành CTV Bookademy tại link: http://bit.ly/bookademy_ctv


(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ "Tên tác giả - Bookademy." Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.


Xem thêm

Oh, how I adored this book, as a child. It's not my favourite of the series, or it wasn't then, but it's the point where everything begins, and I love it for that. The books were published in the fifties, so they sometimes have a somewhat old-fashioned turn of phrase, and somewhat old-fashioned ideas. I suppose it's a book that couldn't really be written set in the modern day, either: we're too sceptical, for one thing, and all the rules that governed a big house in the Borrowers' days no longer apply. Everything about this book is just perfectly suited for the setting, both in time and in place.The thing that I loved most about it, I think, is that for a child it was just within the realm of possibility. Things do go missing like that -- there's never a safety pin or a darning needle when you need one, and scraps of paper are always vanishing, and wherever did that last little corner of toast go? Somebody ate it, or threw it away. Why not a Borrower? And yet I liked the uncertainty, too, the idea that one ten year old boy could have invented this story, because that made it feel more real, too.The inventiveness of the Borrowers is a delight, too. Writing this book must have been so much fun: figuring out how tiny people would use human-sized implements. A ring for a crown, coins for plates, a flower for a parasol, safety pins to hold gates shut... I had a friend, at that age, who was very good at doing things like that for teddies. The ring pull from a can of coke could be a CD player/cassette player, an empty Ferrero Rocher box could be a boat or a glass display case or a wardrobe or... I've always loved that kind of inventiveness.Thinking about this book in terms of my children's literature course is kinda interesting, too. I never realised, as a child, that there was a level of wry humour for adults, here. Aunt Sophy with her madeira, thinking that Pod came out of the bottle; her hints to Mrs Driver that the way to keep the Borrowers away was to keep a cork in the bottle; the way Pod escapes Homily to speak to Aunt Sophy, and it's a sort of 'men's club' for him.It's still fun to read now. Mostly out of nostalgia, I suspect, and a lingering wish that someday me and Arriety might meet, and talk about books and her own adventures.

Đối mặt với nỗi sợ tâm lý thường khởi phát hai chuỗi phản ứng: nỗi sợ có thể thổi đầy ý chí nghị lực khiến tâm can con người được bung nở trở nên lớn mạnh can đảm, phi phàm trong chiếc áo choàng mang tên khổng lồ; và nỗi sợ cũng có thể một hơi rút cạn khoảng không phía bên trong, càng sợ hãi con người càng thu mình nhỏ lại thành những sinh vật tí hon, mỗi thế hệ lại một bé và ẩn khuất hơn. Trong một kết cấu tưởng tượng như thần tiên hóa phép, cơ chế phản ứng mang tên tí hon có vẻ sẽ mang đến cảm giác đồng điệu dễ gần hơn đối với thời gian ân điển của kiếp người - thế giới trẻ thơ. Vì hẳn nhiên như mỗi đứa trẻ mới chạm mặt đến cõi đời thường hằng, những sinh vật bé nhỏ thiên phú cũng mang trong mình hai chữ dễ thương. Với một cốt truyện độc đáo cùng cách kể cuốn hút, tác giả đã chọn cách thu hình nhân vật tí hon lại để lẩn trốn khỏi những ẩn ức sợ hãi con người hay phái sinh từ thế giới con người bình thường. Những người vay mượn tí hon, như gia đình cô bé Arrietty, biểu trưng cho tâm thế cúi mình xuống nhìn nhận sự hữu hạn của con người, để cái tôi bị gọt xén thành một mảnh tôi nhỏ tin hin, họ vay mượn những thứ nhỏ bé với sự chân thành dễ thương. Một chân lí mà trẻ con học được trưởng thành rồi muôn thuở lại quên: những điều bé nhỏ lại tạo ra những liên kết vô hình vững bền lay động trái tim đầy thiện cảm, những thứ lớn lao lại chỉ có khả năng gây choáng ngợp thế giới trong nhịp điệu tích tắc ngắn ngủi. Những người vay mượn tí hon không thuộc dạng tuyến truyện thiếu nhi kể xong rồi đi như ta tưởng, đan lồng vào đây ẩn hiện dấu vết triết lí nhân sinh, nhưng với cách kể dịu dàng của một giọng văn nữ. Trong thế giới con người bình thường, những mâu thuẫn vẫn thường xảy ra khi họ tiếp xúc với những thực thể quá khác biệt, nó gây ra những nỗi lo khiếp đảm đè nén tâm lí khiến người ta phản ứng lại bằng cách chống phá hoặc tiêu diệt. Kiềm chế nỗi sợ, tụi trẻ con có thể cảm nhận bài học sống điều hòa, tiếp nhận sự khác biệt của những cá nhân chung quanh, thích nghi với hoàn cảnh và với chính mình. Đọc cuốn sách này, vang lên một lời thì thầm xôn xao trong tâm trí: những truyện chưa được nghe kể thời ấu thơ, những truyện sống động kí ức đến lúc tác giả có thể tự kể cho chính mình. Dù nét viết chủ yếu nhẹ nhàng dễ thương, vài phân đoạn trong tác phẩm vẫn dâng lên trong lòng tôi cảm giác rờn rợn. Kiểu gì thì kiểu ta cứ phải lần lượt chơi qua những vòng đu quay trẻ con nhẹ nhàng rồi mới có sức mở ra được lối đi tiếp đến ván cờ cốt lõi vặn xoắn của chú bác văn học kinh điển, mở cửa vào bàn tiệc bày biện giải khuây tâm trí của người lớn.

Đây là một cuốn sách thú vị, mang đến cho người đọc sự hứng thú về một thế giới khác, thế giới của những người tí hon. Với cách kể chuyện lôi cuốn, miêu tả tinh tế, chi tiết, lời đối thoại sống động, nhân vật được khắc họa rõ nét, Mary Norton khiến cho bạn đọc như lạc vào thế giới của người tí hon thực sự, cùng tham gia, theo dõi từng chi tiết, diễn biến câu chuyện. Arrietty là một cô bé tinh nghịch, hiếu động nhưng cũng rất thông minh, hoạt bát. Cô bé đã sống dưới nền nhà mà không được lên trên gần chục năm. Mọi sự hiểu biết của cô đều bắt nguồn từ những cuốn sách và sự tưởng tượng của mình. Điều đó càng khiến Arrietty tò mò về thế giới của những người khổng lồ, khao khát được ngắm nhìn cuộc sống bên ngoài có như cô đã từng nghĩ. Dù sống trong một không gian chật hẹp, không được tiếp xúc rộng rãi nhưng cô bé vẫn tự học, có thể đọc và viết. Có thể thấy, Arrietty rất gần gũi với chúng ta, đặc biệt là những bạn nhỏ. Ông Pob là một người chồng, người cha tốt và giàu lòng thương yêu, nhân hậu. Ông luôn hi sinh, bất chấp những khó khăn, nguy hiểm dù tuổi đã cao để trang trải cho cuộc sống gia đình mình, cho đứa con và người vợ những điều tốt nhất. Bà Homily tuy bề ngoài là người luôn đòi hỏi, đôi khi có phần quá đáng nhưng bà cũng là một người mẹ, người vợ đảm đang, yêu thương chồng con. Bà đảm nhiệm mọi việc trong gia đình từ nấu ăn, dọn dẹp, bày trí căn phòng. Là một người phụ nữ, khó tránh khỏi những sở thích đôi lúc có hơi quá đáng hoặc luôn than vãn khi không muốn rời nơi ở hiện tại. Nhưng chúng ta vẫn có thể hiểu được dễ dàng. Câu chuyện đã được chuyển thể thành bộ phim hoạt hình được rất nhiều người đón nhận, đặc biệt là các bạn nhỏ.

"Arrietty”, một tuyệt tác do bàn tay chuyên nghiệp của Studio Ghibli uốn nắn nên, chính là dựa trên câu chuyện kinh điển này! Mary Norton đã giúp độc giả phiêu du trong một thế giới rộng lớn & khác lạ, dưới cái nhìn & lối sống của những “người vay mượn tí hon”. Tất cả được miêu tả một cách vừa ma mị, vừa sống động và tinh tế, mới mẻ. Cuộc đời của những kẻ nhỏ bé, sống bằng những đồ vay mượn từ con người cứ diễn ra trong niềm lo sợ, hồi hộp. Ông Pod, được coi là người vay mượn giỏi nhất & là trụ cột duy nhất giúp cho gia đình ông duy trì được qua ngày. Bà Homily, một người vợ & người mẹ kì lạ, rối rắm, khó hiểu như chính mái tóc của mình. Cho đến khi một sự thay đổi ập đến, từ chính quyết định táo bạo & liều lĩnh của cô con gái Arrietty tinh nghịch, lém lỉnh, sau khi bị “nhìn thấy” trong lần đầu đi vay mượn đầu tiên: cô đã nói chuyện với một cậu bé người. Rồi sau đó, những con người khác sinh sống trong ngôi nhà ấy cũng dần tiến gần vào cuộc sống của gia đình tí hon. Những diễn biến tiếp theo, hứa hẹn vô cùng li kì & đáng theo dõi, đang chờ đợi những cá nhân yêu thích sự KINH ĐIỂN! Hãy chọn quyển sách này!

Oh, how I adored this book, as a child. It's not my favourite of the series, or it wasn't then, but it's the point where everything begins, and I love it for that. The books were published in the fifties, so they sometimes have a somewhat old-fashioned turn of phrase, and somewhat old-fashioned ideas. I suppose it's a book that couldn't really be written set in the modern day, either: we're too sceptical, for one thing, and all the rules that governed a big house in the Borrowers' days no longer apply. Everything about this book is just perfectly suited for the setting, both in time and in place.The thing that I loved most about it, I think, is that for a child it was just within the realm of possibility. Things do go missing like that -- there's never a safety pin or a darning needle when you need one, and scraps of paper are always vanishing, and wherever did that last little corner of toast go? Somebody ate it, or threw it away. Why not a Borrower? And yet I liked the uncertainty, too, the idea that one ten year old boy could have invented this story, because that made it feel more real, too.The inventiveness of the Borrowers is a delight, too. Writing this book must have been so much fun: figuring out how tiny people would use human-sized implements. A ring for a crown, coins for plates, a flower for a parasol, safety pins to hold gates shut... I had a friend, at that age, who was very good at doing things like that for teddies. The ring pull from a can of coke could be a CD player/cassette player, an empty Ferrero Rocher box could be a boat or a glass display case or a wardrobe or... I've always loved that kind of inventiveness.Thinking about this book in terms of my children's literature course is kinda interesting, too. I never realised, as a child, that there was a level of wry humour for adults, here. Aunt Sophy with her madeira, thinking that Pod came out of the bottle; her hints to Mrs Driver that the way to keep the Borrowers away was to keep a cork in the bottle; the way Pod escapes Homily to speak to Aunt Sophy, and it's a sort of 'men's club' for him.It's still fun to read now. Mostly out of nostalgia, I suspect, and a lingering wish that someday me and Arriety might meet, and talk about books and her own adventures.

This was absolutely one of my favorite books when I was growing up. I don't remember how old I was when I first read it but I do know I read it many times.Borrowers are little, tiny people about the size of mice who live between the walls and under the floors of houses. They furnish their rooms and get their food and objects by "borrowing" from the house. The biggest danger is being "seen."Arrietty Clock, the nine-year-old daughter of Pod and Homily, who sleeps in a cigar box bed and writes her diary in the margins of a Tom Thumb Diary and Proverb Book, dreams of being allowed to go borrowing with her father. Finally, having no son, Pod agrees and takes her out from behind the grandfather clock in the entrance hall. (Most Borrower families are named for their location in the house.)Arrietty is excited and innocent and careless, in the way of nine-year-olds. Before long she has met a human Boy and revealed way too much about her life and where she lives. She has gone far beyond being "seen." Now the fate of the Clock family hangs in the balance. They may have to "emigrate" to the outdoors which is Homily's worst nightmare. The pace of the story is breathless and the descriptions of how Borrowers live are fascinating. Looking back now, I think the appeal was based on the feeling I had as a child that I was so much smaller than adults and much of what I had to use or play with was borrowed from the adult world.Of all the books I have reread from childhood, this one still contained for me its charm, interest and impact. In fact, it may have been the first "page-turner" of my reading life.