Xem thêm

(Xin viết tắt tên sách là NNTVNCĐ)

Nhân vật chính dẫn dắt cốt truyện của tiểu thuyết NNTVNCĐ là một anh nhà văn vô danh và một anh Ngụy Binh tên Dưỡng, người đã “rửa tay gác kiếm”, ở lại thủ đô những ngày giải phóng tháng 10 năm 1954. Cả hai nhân vật đều có những cách cư xử kỳ lạ với thời gian.

Đối với anh nhà văn, anh thường xuyên trong trạng thái “tôi ngồi một ngày không rõ thứ hai hay chủ nhật” thời gian đối với anh là “những xê dịch lủng củng, lỉnh kỉnh, của các con số” . Nơi làm việc của anh, không gian luôn bị chia thành hai mảng màu ngăn cách nhau bởi cửa sổ. Một bên màu tím, màu của “nhật ký và bản sao nhật ký, của lọ mực và bản thảo lem nhem mực tím”, cũng là màu của những tư tưởng, chiêm nghiệm thoát ly khỏi hiện thực. Bên kia cửa sổ là màu xanh, màu xanh của cây bàng, của căm nhông quân sự, màu xanh của thực tại đang chuyển vần từng ngày từng giờ.

Còn đối với Dưỡng, anh có cách gọi tên thời gian riêng của mình. Anh gọi mùa thu là mùa đông, để ngày tiếp quản tháng 10 là mồng 1 tết, thời gian với anh là đường tuyến tính vô hạn về hai phía, một phía là quá khứ, một phía là tương lai. “Hiện tại được coi, như biên giới của hai KHÔNG. Cái KHÔNG thứ nhất là dĩ vãng, vốn đã có, bây giờ không có nữa. Cái KHÔNG thứ hai là tương lai, bây giờ chưa có, vì vậy bây giờ cũng không. Hiện tại chính là khoảng sột soạt giữa hai bờ vực ấy, giữa hai cái KHÔNG ấy. Cho nên hiện tại cũng không là gì cả.” Vì vậy mà anh Dưỡng có thói quen ghi nhật ký để khẳng định và lưu giữ những khoảnh khắc của hiện tại, để biến cái KHÔNG thành CÓ.

Thời gian trong NNTVNCĐ được xê dịch liên tục giữa quá khứ và hiện tại. Nhân vật dẫn truyện cũng được xê dịch liên tục giữa anh nhà văn, Dưỡng, chị Trinh, chị Hòa, anh Thái, cằm nhọn v.v... đem đến cho người đọc cái nhìn đa chiều về các diễn biến, tình tiết của câu truyện. Quá khứ - hiện tại đan xen gây cho tôi cái cảm giác lẫn lộn, mơ hồ giữa 2 thời điểm của câu truyện, đồng thời cũng gây cái cảm giác những ám ảnh, mặc cảm, hậu quả của các hành động, suy nghĩ của các nhân vật trong quá khứ vẫn luôn đeo bám họ ở hiện tại.

Những ngày sau tiếp quản, không nghề nghiệp, bị cộng đồng kỳ thị và nghi ngờ vì quá khứ Ngụy Quân, Dưỡng sống trong những ngày tháng vô định, Dưỡng thường xuyên bù khú với đám bạn Ngụy Quân cũ, làm những việc vô bổ để giết thời gian, với Dưỡng thời gian lúc này chỉ là những cái tíc tắc đều đều, hiện tại là những cái KHÔNG, thứ hai hay chủ nhật cũng chẳng khác gì nhau, Dưỡng gọi “thời gian này là những ngày chua loét và những chủ nhật mắm thối, những tuần lễ khắm và những buổi sáng đi-cũng-dở-ở-cũng-không-xong”. Những ngày tháng vô định ấy Dưỡng bước qua biết bao nhiêu ngã tư, mỗi ngã tư Dưỡng phải đưa ra lựa chọn phải rẽ về hướng nào, tại những ngã tư ấy có ngã tư có cột đèn, có ngã tư thì không, và ngay cả những ngã tư có cột đèn thì cũng có những cột đèn sáng và những cột đèn không sáng. Những ngã tư có những cột đèn sáng dẫn lối làm cho việc đưa ra quyết định về các ngã rẽ dễ dàng hơn, còn với những ngã tư tối om, ta buộc phải theo cảm tính để dấn bước tiếp vào cái khoảng không mịt mù. Những ngã rẽ cuộc đời của Dưỡng phải chăng cũng tương tự như những ngã tư đường mà Dưỡng đã vô định bước qua, có khác là với ngã tư đời anh đã quyết định rẽ là không thể quay lại được, như đường tuyến tính thời gian chỉ có một chiều, vô tận. Vậy nên mới có những người lỡ chọn một ngã rẽ sai là cứ vậy sai mãi, không quay lại được (như Tình Bốp) bạn Dưỡng. Còn như Dưỡng, chỉ một ngã rẽ mù mờ, tại một ngã tư không đèn rọi khiến anh phải trả giá đắt bằng cái chết của bạn mình, của con trai mình. Những lúc chọn sai ngã rẽ người ta thường ước giá như lúc đó ta làm thế này, giá như lúc đó ta không làm thế kia, tuy nhiên đường tuyến tính 1 chiều vô tận ấy là quy luật bất biến, tất cả chúng ta phải tự gánh lấy hậu quả do những lựa chọn sai lầm của mình.

Gấp lại NNTVNCĐ, tôi không ngờ một cuốn sách với lối viết hiện đại, tình tiết táo bạo, nội dung đầy nút thắt bất ngờ, ngôn ngữ thời thượng mà bây giờ giới trẻ phải chạy dài mới theo kịp lại được viết từ năm 1960, cách đây hơn nửa thế kỷ.

"Những ngã tư và những cột đèn" là một cuốn sách trinh thám và nó đã sống một cuộc đời lắm gian truân, như Dưỡng (nhân vật chính của tác phẩm). Cuốn sách kể về lính Ngụy dưới góc nhìn của một nhà thơ – một người lính tham gia kháng chiến. Để thu thập được những tư liệu thực tế nhất, Trần Dần đã dành nhiều thời gian phỏng vấn Ngụy binh cũ thời Pháp thuộc. Cuốn sách được hoàn thành vào năm 1966 và phải trải qua một ‘quy trình kiểm duyệt’ kéo dài 22 năm của Sở Công an Hà Nội, trước khi trở về với chủ nhân vào năm 1988. Và chúng ta mất hơn 20 năm nữa, để tác phẩm được ra mắt công chúng lần đầu tiên vào năm 2011 (Do NXB Nhã Nam phát hành).

[Đôi điều về Trần Dần]Xin được nhắc lại lần nữa, đây không phải là ‘nhà tiên tri vũ trụ’ nhan nhản trên cộng đồng mạng. Tác giả Trần Dần là một nhà thơ của Phong trào Nhân văn – Giai phẩm, một nhà văn và là một người lính từng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Ông là một người có suy nghĩ đổi mới, mong muốn văn chương Nước nhà được bứt phá khỏi những quy tắc lúc bấy giờ. Cùng quan điểm với ông còn có Nguyễn Tuân. Cụ thể, tùy bút "Người lái đò sông Đà" vốn là một ‘đơn đặt hàng’ để viết về địa lý và ngợi ca thiên nhiên đất nước. Nhưng tác giả vẫn cố tình thêm vào những trường đoạn bay bổng và đặc chất nghệ thuật (như phân đoạn được giảng dạy trong Sách giáo khoa là một ví dụ).

Cuốn sách là tập hợp những đoạn nhật ký, những cuộc phỏng vấn xoay quanh câu chuyện của Dưỡng, được ghi chép lại bởi một nhà văn. Dưỡng là một tay lính Ngụy may mắn thoát cảnh tù giam nhờ trốn dưới hầm, đợi chờ ‘Ngày tiếp quản Thủ đô’, tức 8h sáng ngày 10/10/1954. Sau khoảnh khắc định mệnh ấy, những lính Ngụy chưa bị bắt sẽ được dung thứ. Tuy vậy, khác với những vọng tưởng của anh về cuộc đời như mới bắt đầu lại, Dưỡng liên tiếp bị cuốn vào những sự kiện khó hiểu, những ‘ngã tư’ mà anh phải vắt cả óc, phải phân thân làm hai, làm ba để đối thoại rồi lựa chọn ngã rẽ. Anh vừa là nạn nhân (?), vừa là tên thám tử tay ngang, cố gắng đi tìm lời giải cho những trò lố đang diễn ra trong cuộc đời mình. Bắt đầu là việc một anh lính bị bắn trong vườn nhà Dưỡng khi đang làm nhiệm vụ theo dõi Ngụy binh. Từ đó, hệ thống nhân vật và những mối liên hệ chằng chịt lần lượt được thêm vào để làm rối tung câu chuyện, khéo léo che đậy một sợi dây sự thật, im lìm ẩn trong mạch chuyện, đợi ngày được bắt lấy.Tình tiết truyện liên kết với nhau rất khăn khít, cái sau là mấu nối của cái trước, như một sợi dây xích. Anh lính bị bắn thì tất nhiên là tên ‘Tàu bò’ vô công rỗi nghề như Dưỡng là nghi phạm số 1. Người ta nghi ngờ anh vẫn còn móc nối với Thực dân Pháp, nhờ vào hàng tá chứng cứ vô cùng hợp lý. Anh là thằng chơi bời đích thực, có vợ đẹp nhất xóm nhưng lại thích chơi ảnh ‘nude’. Và còn có cả một mối tình không-cần-vụng-trộm với Lily – nàng điếm mà như nàng thơ của bao người. Mà Lily lại thân với thằng Pháp Macxen. Không những thế, Tình Bốp, bạn thân của Dưỡng lại là em của Lily. Khi Lily vào Nam, thì tên “Nhọn-cằm” xuất hiện, tình nghi số 1 của ‘thám tử’ Dưỡng, kẻ mà anh cho là tác giả của tất cả sự kiện đã và sắp xảy ra. Có nhân vật tìm cách bắt anh nhận tội như ông Trung Trố. Cũng có người lại muốn giúp anh như đồng chí Trần B hay ông Phúc, chị Hòa. Phần sau của câu chuyện là cuộc rượt đuổi nghẹt thở để lùng bắt “Nhọn-cằm” và minh oan cho Dưỡng. (Đoạn sau có nhiều ‘plot twist’ nên tôi không muốn tiết lộ thêm.)Với cách kể chuyện đa chủ thể, lồng ghép nhật ký trong nhật ký, Trần Dần thực sự đang ‘chơi’ với chúng ta, những người đọc. Phải chăng ông đang mở lời mời, hãy thử làm một tay thám tử và đi tìm đáp án cuối cùng. Ngôi kể chính là của Dưỡng, thông qua những trang nhật ký của anh. Điều thú vị là những dòng nhật ký ấy được viết trong dòng thời gian của chính anh và không tuân theo quy tắc thông thường. Với anh, thứ Hai có thể là thứ Năm hay bất cứ thứ nào. Bởi lẽ với anh, hiện tại chỉ là một khoảnh khắc ngưng đọng, chuyển giao từ trạng thái quá khứ sang tương lai. Quá khứ là cái đã qua, tương lai là điều chưa tới, và hai thứ ấy đều bằng ‘không’ trong khoảnh khắc ‘lúc này’. Thế nên, lúc thì nhật ký được đánh mốc bằng năm, lúc thì bằng mùa và có lúc lại là một ngày, một khung giờ cụ thể.“Không biết, tôi đã đọc ở đâu, một í kiến về thời gian, như thế này: hiện tại được coi, như biên giới của hai KHÔNG. Cái KHÔNG thứ nhất là dĩ vãng, vốn đã có, bây giờ không có nữa. Cái KHÔNG thứ hai là tương lai, bây giờ chưa có, vì vậy bây giờ cũng không. Hiện tại chính là khoảng sột soạt giữa hai bờ vực ấy, giữa hai cái KHÔNG ấy. Cho nên hiện tại cũng không là gì cả. […] Chính vì vậy mà người đời ghi nhật kí, và cũng chính vì vậy, nhật ký bắt buộc phải bắt đầu, bằng những con số hiện hữu, là ngày, là giờ, là thứ tự của tuần, của tháng, của năm, của mùa. Dường như làm vậy, hiện tại sẽ được khẳng định rõ ràng, vào một chỗ í nghĩa, trên đường tuyến tính của thời gian từ trái sang phải theo chiều mũi tên bay.”Đan xen từng hồi nhật ký là những đoạn phỏng vấn với tuyến nhân vật phụ – chị Trinh (Cốm), vợ của Dưỡng hay chị Hòa thuộc ban bảo vệ khu phố. Ngoài ra, anh nhà văn, người xuất hiện đầu tác phẩm với vai trò ghi chép lại câu chuyện của Dưỡng cũng thi thoảng chêm vào chính những dòng nhật ký của mình. Từng góc nhìn lại bổ khuyết cho bức tranh toàn cảnh thêm phần hoàn thiện. Như thể chúng ta đang có rất nhiều ‘lời khai’ cần phải chắp nối, phải so sánh để đi tìm những mắt xích đứt gãy, những mâu thuẫn ẩn mình trong màn sương mù mịt. Kỹ thuật tự sự đa chủ thể còn được Trần Dần nâng lên một bậc khi để Dương tự phân mình làm những cái ‘tôi’ khác nhau. Bằng cách nhìn vào gương, anh có thêm một cái ‘bóng’, cùng với ‘sọ’ và ‘tôi’, ba phần của cái thân anh tranh luận vô cùng sôi nổi để lý giải, để tìm cho ra câu trả lời của tất cả.Chính sự đa chủ thể trong câu chuyện cũng khiến tôi đôi lần hoài nghi về bản ghi chép mà mình đang được đọc. Anh nhà văn nói rằng đó là nhật ký của Dưỡng, là những đoạn phỏng vấn những người liên quan đến sự kiện. Nhưng liệu đó có là 100% ‘lời khai’, liệu có gì đã được khéo léo thêm thắt, được lược bớt hay bóp méo? Hay chính các nhân vật, họ có nói thật hoàn toàn không? Có phần nào trong lời kể của họ là sự sắp đặt có chủ đích? Suốt cả cuốn sách, tôi tin vào những gì đang diễn ra, để rồi đến trang cuối cùng, tôi lại tự vấn, đây có phải là sự thật chưa? Hay vẫn còn một sự thật nằm sau bức màn che chắn kia. Cũng như Dưỡng, cả một thời gian dài tìm kiếm sự thật. Cho tới khi tên “Nhọn-cằm” đã bị bắt, anh đã tin đó là đúng, là không thể chối cãi, để rồi chỉ vì một chi tiết nhỏ, một mắt xích sứt mẻ, mà anh bỗng hoài nghi mọi thứ. Có chăng anh đã làm chủ được cuộc chơi thám tử của mình, là kẻ đã chiến thắng cái sai trái, hay đơn thuần là một con tốt, một mắt xích trong ‘trò chơi’ lớn hơn anh nghĩ nhiều.

Cái đẹp của "Những ngã tư và những cột đèn" nằm ở những đoạn, trường đoạn miêu tả cảnh và nội tâm nhân vật tài tính. Thí dụ như cảm xúc của Dưỡng vào ngày Tiếp quản thủ đô. Đối nghịch với tâm trạng lo âu, chờ đợi của Dưỡng trong cái đêm định mệnh trốn dưới hầm, anh bước ra đường như một kẻ vừa được tái sinh. Với anh ngày đó là Mồng một Tết, trước mắt anh là cờ hoa rợp trời, là dòng người vui mừng cười nói. Anh tưởng tượng ra một ngày Xuân thực sự. Anh đi giữa trời Thu tháng 10, nhưng trong tay lại như có một cành đào. Người ta mừng ngày Giải phóng, anh vui một niềm riêng khi được nếm mùi tự do. Tự do của anh và tự do cũng người trên phố tuy là một nhưng hai.Một đoạn tả cảnh đậm chất thơ còn nằm ở phân cảnh Dưỡng chia tay Lily. Cái cảnh anh chạy với theo đoàn tàu Nam tiến, cảnh cô Nàng ve vẩy chiếc khăn mùi soa trong đêm, hư hư ảo ảo.“Tôi chạy theo, tôi gào: “Lily! Lily!” Cánh tay Lily vẫy mạnh. Tàu đã xa, để lại chiếc mùi soa, như cánh bướm trong đêm. Màu trắng, nhạt nhòa. Tôi chạy, đuổi theo chiếc mùi soa, trong bóng tối. Chạy mãi. Thế là hết. Không bao giờ còn gặp Lily nữa. Còi tàu rít, nghe xa lắm rồi.”Xuất thân là một nhà thơ, nên Trần Dần ít nhiều vẫn đưa vào truyện dài của ông những tính chất của một bài thơ. Đó là những nhịp ngắt câu bằng cách sử dụng dấu phẩy. Khi mới đọc tác phẩm, ta dễ ngán ngẩm vì dấu phẩy được sử dụng rất nhiều, cả ở những nơi không cần thiết. Nhưng đó là chủ ý của tác giả, nhằm dẫn dắt chúng ta đọc tác phẩm theo nhịp điệu của riêng ông. Và cũng là một biện pháp làm tăng sự hồi hộp và nghẹt thở của truyện trinh thám. Với mỗi trường đoạn của tác phẩm, Trần Dần lặp lại hình ảnh anh nhà văn ngồi bên cạnh cửa sổ tím, với lọ mực tím, ngồi chép những dòng nhật ký của Dưỡng. Đây là một tác phẩm hay, bạn đừng bỏ lỡ nhé! Tôi đến với Những ngã tư và những cột đèn cũng là vô tình thôi. Nhưng tôi đã bị cuốn theo câu chữ của Trần Dần, tôi lặn ngụp trong trang sách và được tận hưởng một trải nghiệm văn chương đáng trân trọng. Cuốn sách sẽ kén người đọc vì ngữ pháp ‘khó xơi’ nhưng sẽ là một ly rượu mạnh cho những độc giả thích trinh thám.

Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là "Những ngã tư và những cột đèn" của nhà văn Trần Dần.

Chuyện rằng: vào giữa những năm 1960, nhà văn Trần Dần, khi đang trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo của bản thân đã được một vài cán bộ công an hảo tâm tìm cách cho đi thâm nhập một số trại giam do Bộ Công an quản lý đang giam giữ những ngụy quân thời Pháp sau ngày tiếp quản Thủ đô. Kiểu đi như thế gọi là “đi thực tế” để khi về viết văn trên những cứ liệu của thực tế chuyến đi đó. Công thức ở đây là: cơ sở cung cấp tài liệu về một vấn đề cụ thể, nhà văn đi cho thấy, tiếp xúc cho biết, và cái viết ra thường chỉ là một báo cáo, một sơ đồ, dù có được vẽ vời thêm cho có vị văn chương.

Vậy, với Trần Dần, bài toán đặt ra là: viết về hoàn cảnh của những người ngụy quân Pháp ở Hà Nội khi chiến tranh kết thúc, phần thắng thuộc về đội quân cách mạng, với định hướng viết đã rõ ràng là họ phải quy phục chế độ mới.

Đề bài này không khó đối với ngòi bút Trần Dần. Nếu an phận, viết theo lối trả bài (trả cả ơn nghĩa nữa, nếu có), ông dễ phóng bút viết được nhanh, được trơn tru, nộp quyển, và quên đi nhanh chóng cái viết ra đó. Nhưng ông đã không làm thế, vì nhân cách là văn cách của ông không cho phép làm thế. Trần Dần, nhà văn luôn táo bạo quyết liệt trong từng câu chữ, hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng, trong từng cái viết. Viết, với ông, bao giờ cũng là phải mới, phải khác, phải cách tân. Vì vậy, kết quả chuyến thực tế ấy, dưới tay ông đã thành tiểu thuyết "Những ngã tư và những cột đèn". Trần Dần đã giải được bài toán văn chương một cách xuất sắc.

Câu chuyện của anh ngụy binh Dưỡng và mấy người bạn cùng cảnh ngộ trong những ngày đầu tiếp quản Thủ đô nếu kể ở ngôi thứ ba khéo lắm cũng chỉ được một truyện kể. Trần Dần đã chuyển nó thành ngôi thứ nhất thông qua hình thức cuốn nhật ký của Dưỡng, xen kẽ là lời kể của một vài nhân vật khác có tham dự vào đường dây hoạt động của nhân vật được kể ở ngôi thứ ba. Bằng hình thức này, Dưỡng đã được phát tiết tất cả những suy tư lời lẽ, hành vi của một thanh niên Hà Nội tạm chiếm, của một người lính lái tàu bò, và được bộc bạch tự nhiên nhất toàn bộ trạng thái tâm lý của mình vào một thời điểm hệ trọng của thời cuộc và số phận. Nhưng cái chính ở đây không phải chỉ ở nội dung cuốn nhật ký, mà ở cái cách ghi nhật ký của Dưỡng. Cái cách ghi ấy mới là một nội dung chính của cuốn tiểu thuyết của Trần Dần, nó thể hiện rõ trạng huống của một thành phố từ chiến tranh sang hòa bình và trạng thái của những con người bị mắc kẹt trong trạng huống ấy. 

“Nhật ký của Dưỡng, dường như, không đi theo mọi quyển lịch thân quen, bởi vì tôi luôn vấp phải những nhầm lẫn ghê gớm, của thời tiết, của thời gian, và mọi cái gì, của thời sự. Đường tuyến tính của thời gian, mà tôi đã nhìn thấy, ở đâu đó, bắt đầu từ một nơi vô định, kết thúc cũng ở một nơi vô định, chạy từ trái sang phải, theo chiều mũi tên. Thời điểm ghi nhật ký sẽ nằm vào một dấu chấm, nhỏ xíu trên đường tuyến tính, giữa hai vô cực, của dĩ vãng và dự cảm. Điểm nhỏ xíu này nhỏ lắm, nên chẳng là cái gì cả, trong thời gian. Có thể vì vậy, động tác bắt đầu mỗi trang nhật ký, vào một thời điểm hiện hữu, không phải là mối quan tâm lớn nhất của Dưỡng. Hiện tại, nếu nhắc lại theo nguyên lý này, vừa hiện hữu vừa không, vừa nhầm lẫn cố tình, vừa nhầm lẫn vô tình. Nhật ký do vậy cũng xô lệch theo. Động tác ghi nhật ký, do vậy có vẻ mang tính chất tự nghiệm, hơn là mục đích can thiệp vào thời gian (nhưng có thể không phải như thế). Bên cạnh đấy, ngôn ngữ của nhật ký cũng còn là một bí ẩn”. Đây là nhận xét của nhân vật nhà văn không tên trong tiểu thuyết, người đọc cuốn nhật ký của Dưỡng 11 năm sau. 

Như vậy, nội dung tiểu thuyết lại không phải chỉ là nhật ký của anh ngụy binh Dưỡng vì nó không được trình bày trực tiếp mà thông qua sự đọc, sự bình luận, suy ngẫm của anh nhà văn. Khi anh nhà văn đọc nhật ký của Dưỡng sau 11 năm nó được viết ra ở vị thế của một ngụy binh thì Dưỡng lại đang ở miền Trung trong vị thế của một nhân viên biệt phái của nhà máy ô tô tại vùng tuyến lửa. Anh nhà văn đọc nhật ký của Dưỡng để viết tác phẩm của mình và cũng như nhân vật của mình, anh bị mắc kẹt trong thời gian, lẫn lộn ngày tháng. Có thể nghĩ anh nhà văn đó là chính tác giả, và quá trình anh ta đọc nhật ký của Dưỡng và gặp gỡ các nhân chứng quanh Dưỡng để viết tác phẩm cũng chính là quá trình Trần Dần tìm cách giải bài toán văn chương của mình. Như vậy, cuốn tiểu thuyết "Những ngã tư và những cột đèn đường" còn là tiểu thuyết nói về cách viết một tiểu thuyết.

Thời gian, rốt lại, đó là lời giải nghệ thuật của Trần Dần cho bài toán văn chương này. Con người, dù là ai, cũng luôn ở thì hiện tại, nhưng “hiện tại được coi, như biên giới của hai KHÔNG. Cái KHÔNG thứ nhất là dĩ vãng, vốn đã có, bây giờ không có nữa. Cái KHÔNG thứ hai là tương lai, bây giờ chưa có, vì vậy bây giờ cũng không. Hiện tại chính là khoảng sột soạt giữa hai bờ vực ấy, giữa hai cái KHÔNG ấy. Cho nên hiện tại cũng không là gì cả”. Trần Dần để cho hai nhân vật của mình rối bời thời gian: anh ngụy binh gọi mùa Thu là mùa Đông, coi ngày tiếp quản thành phố vào tháng 10 là mồng 1 Tết; anh nhà văn thì cứ nhầm lẫn tuần lễ bảy ngày và Chủ nhật. Sự rối bời thời gian này có phải là biểu hiện của sự bất ổn, bất định trong cuộc sống và trong tâm trạng? Và hành động ghi nhật ký là một gắng gỏi níu giữ cái khoảnh khắc hiện tại cho KHÔNG thành CÓ, đó mới là thực hữu nhất, hiện hữu nhất của cái sống con người. 

Còn có thể nói được rất nhiều về và từ cuốn tiểu thuyết "Những ngã tư và những cột đèn đường" của Trần Dần. Trên đây tôi chỉ nói nhanh nói sơ về giải pháp nghệ thuật mà nhà văn đã đưa ra để thực hiện sáng tạo văn chương của mình. Đấy chính là cách viết nội dung chứ không phải kể nội dung, như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã từng chuyển dẫn từ lý thuyết văn học của Nga về. Cho nên không phải câu chuyện kể làm nên nội dung, mà là cách kể câu chuyện, hay hình thức đó cũng chính là nội dung. Điều đáng kinh ngạc là 45 năm trước, trong hoàn cảnh bị vây bủa của bản thân và sự bít bùng của một xã hội thời chiến, Trần Dần đã độc hành mở cho mình một con đường tiểu thuyết mà bây giờ ngoái lại sau lưng ông vẫn hầu như chưa có ai tiếp bước. May mắn bản thảo được giữ lại để bây giờ in ra. Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là "Những ngã tư và những cột đèn đường"

Đó là Trần Dần từ 45 năm trước, khi cuốn sách mới được viết ra. 

Đó là Trần Dần ở 45 năm sau, khi cuốn sách đã được in ra, trở thành một hiện tượng của văn học nước nhà năm 2011. 

Kinh ngạc vì sức sáng tạo đột khởi và đột biến của một gương mặt văn chương quyết liệt nhất Việt Nam, nhưng cũng chính vì thế lại thấy buồn cho văn học Việt Nam sau nửa thế kỷ vẫn thấy là cũ mòn so với tác phẩm này.

Do vậy, Trần Dần, bằng thơ và văn của ông để lại, vẫn mãi còn thách thức các nhà văn, nhà thơ Việt Nam. 

Tác giả và tác phẩm có bao giờ chia nhau cùng số phận? Có bao giờ đi bên nhau suốt hành trình cuộc đời? Trần Dần và "Những ngã tư và những cột đèn" của ông có lẽ là những ngoại lệ, có xa cách, có hội ngộ, và mỗi bên theo đuổi một số phận khác thường.

Trần Dần viết "Những ngã tư và những cột đèn" sau một thời gian tiếp xúc với nhiều ngụy binh cũ thời Pháp thuộc. Sở Công an Hà Nội đã cấp giấy phép ra vào trại giam, để sau đó bản thảo được gửi lên Sở Công an, khi đã hoàn thành. Đây là bản viết tay duy nhất, đề năm 1966.

Cuộc chia tay của tác giả và tác phẩm kéo dài 22 năm. Một ngày năm 1988 Sở Công an Hà Nội mang bản thảo trả lại Trần Dần, tại nhà riêng, cùng tập thơ chép tay Cổng tỉnh. Tất cả vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng toàn bộ các nhà xuất bản đều từ chối ông, cùng Những ngã tư và những cột đèn, mặc dù trên danh nghĩa, Trần Dần và các bạn của ông thời Nhân văn-Giai phẩm đã được Hội Nhà văn chính thức ra quyết định phục hồi năm 1987.

"Những ngã tư và những cột đèn" cùng mọi tác phẩm khác, lại bị trả vào ngăn kéo. Phải chờ thêm bốn năm sau ngày nhận lại hội tịch, tác phẩm đẩu tiên của Trần Dần mới được xuất bản, năm 1990, là cuốn Bài thơ Việt Bắc.

Trước khi Trần Dần mất hẳn khả năng làm việc, vì bệnh tật, ông đã quay trở lại với Những ngã tư và những cột đèn một lần nữa, lần cuối cùng. Ông chép lại, và sửa chữa chủ yếu về văn phong. Trong nhật ký 1989, ông nhắc nhiều lần về tiểu thuyết này, ông còn muốn viết một tiểu thuyết nữa. Thế rồi một "Những ngã tư và những cột đèn khác" ra đời, nhưng cũng là lúc ông khép lại nhật ký đời ông, khép lại những Sổ bụi, cùng toàn bộ sáng tác. Đấy là những ngày giao thừa giữa năm 1989 và 1990.

Lần xuất bản thứ nhất này, của Những ngã tư và những cột đèn, sẽ đánh dấu 21 năm nữa, từ ngày bản thảo được sửa chữa. Và 44 năm, sau ngày tiểu thuyết được hoàn thành.

Những ngã tư và những cột đèn có thể là một tiểu thuyết về chiến tranh, như lời thông báo của anh nhà văn không tên, ở trang đầu cuốn sách? Những tình bạn, những tình yêu, đã đi qua chiến tranh, đi qua hòa bình, rồi lại rơi vào chiến tranh, có còn nguyên vẹn? Và những tính cách, thói quen con người, có thể nào không thay đổi cùng hoàn cảnh? Không một cảnh chiến tranh, nhưng hai chữ chiến tranh đi vào tiểu thuyết ngay từ trang một và trôi theo nhật ký, như một ám ảnh, cho đến trang cuối cùng. Chiến tranh do vậy, tồn tại như một bè đệm. Để “con người TOÀN PHẦN và CỤ THỂ vẫn tiếp tục trong chiến tranh. Và mạnh hơn chiến tranh”, Trần Dần kể như vậy, về Những ngã tư và những cột đèn, trong nhật ký 1989.

Nhưng bản thảo lần thứ hai còn mang thêm một bè đệm khác, cả anh ngụy binh cũ tên Dưỡng, cả anh nhà văn không tên, đều chia nhau cùng một suy tư, về hiện tại, về quá khứ. Họ xử sự với thời gian cùng một cách. Dưỡng tính thời gian theo lối của riêng anh: để gọi tên mùa thu là mùa đông, để ngày tiếp quản tháng Mười trở thành mồng một Tết. Anh nhà văn đi tìm những định nghĩa về thời gian, luôn luôn nhầm lẫn giữa tuần lễ bảy ngày và chủ nhật. Thời gian của toàn bộ tiểu thuyết di chuyển liên tục, từ 11 năm trước, đến 11 năm sau, rồi lại về 11 năm trước, vậy thì đâu sẽ là hiện tại thực? Dường như những nghi vấn của họ với thời gian, thực chất để đòi những câu hỏi khác về trách nhiệm của người đang sống, đối với hiện tại, và quá khứ.

Trong một trang nhật ký 1989 Trần Dần viết: “Người ta nói nhiều, đến bố cục, chủ đề, í đồ không rõ… Xong người ta bàng hoàng và bảo: in cái này hơn Người người lớp lớp. Vâng, đúng là xa lạ. Tôi tuyên ngôn: tào lao – xông xênh – bàng hoàng. Vô hình, nhưng rõ rệt. Hiện hữu vô hình ấy, là một thực thể. Bàng hoàng ở đó. Bàng hoàng ở những ngã tư. Ai chẳng luôn gặp, những ngã tư. Để rẽ đường nào?” Rồi ở một trang khác, ông lại quay về Những ngã tư và những cột đèn: “Đời lắm ngã tư? Rẽ một ngã tư là trách nhiệm sinh tử, phải cẩn thận, kẻo hối bất kịp. Nhưng cẩn thận, không có nghĩa tính toán, chi li, chi hoe, mà trực cảm mang hết mình, ngửi ngửi ngã tư cẩn trọng rồi hãy rẽ”. 45 năm, kể từ ngày nhà văn bắt đầu chép lại cũng bằng mực tím “250 trang nhật kí, lem nhem mực tím” của anh ngụy binh Dưỡng, cho đến hôm nay, những ngã tư của tiểu thuyết vẫn đóng kín. Đây là “những ngã tư đời láo nháo nốt chân. Láo nháo cột đèn láo nháo đèn” của thế kỷ đã qua. Hôm nay, một ngày năm 2010, chúng mở cửa nằm chờ những bước chân độc giả, để gặp gỡ một thế hệ mới

Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là Những ngã tư và những cột đèn của nhà văn Trần Dần.

Chuyện rằng: vào giữa những năm 1960, nhà văn Trần Dần, khi đang trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo của bản thân đã được một vài cán bộ công an hảo tâm tìm cách cho đi thâm nhập một số trại giam do Bộ Công an quản lý đang giam giữ những ngụy quân thời Pháp sau ngày tiếp quản Thủ đô. Kiểu đi như thế gọi là “đi thực tế” để khi về viết văn trên những cứ liệu của thực tế chuyến đi đó. Công thức ở đây là: cơ sở cung cấp tài liệu về một vấn đề cụ thể, nhà văn đi cho thấy, tiếp xúc cho biết, và cái viết ra thường chỉ là một báo cáo, một sơ đồ, dù có được vẽ vời thêm cho có vị văn chương.

Vậy, với Trần Dần, bài toán đặt ra là: viết về hoàn cảnh của những người ngụy quân Pháp ở Hà Nội khi chiến tranh kết thúc, phần thắng thuộc về đội quân cách mạng, với định hướng viết đã rõ ràng là họ phải quy phục chế độ mới.

Đề bài này không khó đối với ngòi bút Trần Dần. Nếu an phận, viết theo lối trả bài (trả cả ơn nghĩa nữa, nếu có), ông dễ phóng bút viết được nhanh, được trơn tru, nộp quyển, và quên đi nhanh chóng cái viết ra đó. Nhưng ông đã không làm thế, vì nhân cách là văn cách của ông không cho phép làm thế. Trần Dần, nhà văn luôn táo bạo quyết liệt trong từng câu chữ, hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng, trong từng cái viết. Viết, với ông, bao giờ cũng là phải mới, phải khác, phải cách tân. Vì vậy, kết quả chuyến thực tế ấy, dưới tay ông đã thành tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn (NNTVNCĐ). Trần Dần đã giải được bài toán văn chương một cách xuất sắc.

Câu chuyện của anh ngụy binh Dưỡng và mấy người bạn cùng cảnh ngộ trong những ngày đầu tiếp quản Thủ đô nếu kể ở ngôi thứ ba khéo lắm cũng chỉ được một truyện kể. Trần Dần đã chuyển nó thành ngôi thứ nhất thông qua hình thức cuốn nhật ký của Dưỡng, xen kẽ là lời kể của một vài nhân vật khác có tham dự vào đường dây hoạt động của nhân vật được kể ở ngôi thứ ba. Bằng hình thức này, Dưỡng đã được phát tiết tất cả những suy tư lời lẽ, hành vi của một thanh niên Hà Nội tạm chiếm, của một người lính lái tàu bò, và được bộc bạch tự nhiên nhất toàn bộ trạng thái tâm lý của mình vào một thời điểm hệ trọng của thời cuộc và số phận. Nhưng cái chính ở đây không phải chỉ ở nội dung cuốn nhật ký, mà ở cái cách ghi nhật ký của Dưỡng. Cái cách ghi ấy mới là một nội dung chính của cuốn tiểu thuyết của Trần Dần, nó thể hiện rõ trạng huống của một thành phố từ chiến tranh sang hòa bình và trạng thái của những con người bị mắc kẹt trong trạng huống ấy.

Còn có thể nói được rất nhiều về và từ cuốn tiểu thuyết NNTVNCĐ của Trần Dần. Trên đây tôi chỉ nói nhanh nói sơ về giải pháp nghệ thuật mà nhà văn đã đưa ra để thực hiện sáng tạo văn chương của mình. Đấy chính là cách viết nội dung chứ không phải kể nội dung, như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã từng chuyển dẫn từ lý thuyết văn học của Nga về. Cho nên không phải câu chuyện kể làm nên nội dung, mà là cách kể câu chuyện, hay hình thức đó cũng chính là nội dung. Điều đáng kinh ngạc là 45 năm trước, trong hoàn cảnh bị vây bủa của bản thân và sự bít bùng của một xã hội thời chiến, Trần Dần đã độc hành mở cho mình một con đường tiểu thuyết mà bây giờ ngoái lại sau lưng ông vẫn hầu như chưa có ai tiếp bước. May mắn bản thảo được giữ lại để bây giờ in ra. Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là NNTVNCĐ.

Đó là Trần Dần từ 45 năm trước, khi cuốn sách mới được viết ra.

Đó là Trần Dần ở 45 năm sau, khi cuốn sách đã được in ra, trở thành một hiện tượng của văn học nước nhà năm 2011.

Kinh ngạc vì sức sáng tạo đột khởi và đột biến của một gương mặt văn chương quyết liệt nhất Việt Nam, nhưng cũng chính vì thế lại thấy buồn cho văn học Việt Nam sau nửa thế kỷ vẫn thấy là cũ mòn so với tác phẩm này.

Do vậy, Trần Dần, bằng thơ và văn của ông để lại, vẫn mãi còn thách thức các nhà văn, nhà thơ Việt Nam.

Những ngã tư và những cột đèn, tôi chú ý đến lần đầu tiên vì tác giả. Trần Dần, một tác giả mà tôi được biết thông tin là ở trong nhóm khởi xướng phong trào nhân văn giai phẩm. Về phong trào này có thể có người biết rõ, có người biết sơ sơ. Nhưng có một điều tôi được nghe mẹ tôi và nhiều người lớn nói lại, đó là các văn nghệ sỹ trong phong trào này ai cũng giỏi và tài năng trong lĩnh vực của mình, trong đó nổi tiếng và được biết đến nhiều hơn cả có lẽ là nhạc sỹ Văn Cao. Biết vậy nên thấy tên tác giả là tôi mua ngay mà chưa cần biết đến nội dung cuốn sách như thế nào.

Cuốn sách ngay từ đầu đã hấp dẫn tôi bởi lời “nhắn nhủ” của tác giả:

[ Kính gửi đồng chí đánh máy. Đề nghị đồng chí, nếu có thể, chú í cho mấy điểm:

1. Về trình bày, cứ đánh liền không xuống dòng, Chữ đầu đánh luôn từ đầu dòng, không thụt vào. Coi như cuốn sách gồm từng ô, như ô ruộng đầy chữ. Giữa các ô có những vệt trắng, 1 dòng, 3 dòng, 5 dòng, tùy theo, như những bờ vùng, bờ thửa. Những vệt trắng này, xin để trắng, đừng đánh sao.

2. Chỗ nào đề bằng con số, xin cứ đánh con số. Ví dụ: 8 giờ 30, mùa đông 1959, v.v…

3. Chữ y, trong cuốn sách này, đa trường hợp viết lại là i, xin cứ đánh i.

4. Có những chứ dính liền, ví dụ Cônhăc, Cootab, Lily, xin cứ để dính liền.

5. Những chứ điệp nhiều nguyên âm, ví dụ xìì, khèè, v.v…, xin cứ để như thế.

Tôi đề nghị như vậy, không phải vì tôi muốn lập dị. Tôi rất cám ơn.

Hà Nội 1965, TRẦN DẦN ]

Đọc xong cảm thấy rất buồn cười và hài hước, nghĩ là bác viết thế mà bảo không lập dị thì là gì nữa.

Nhưng đến khi đọc vào nội dung chính của cuốn truyện, ngay từ những trang đầu tiên cảm thấy đúng là “khó nhằn” thật, chuyện mà đánh liền không xuống dòng, y dài thành i ngắn thì ban đầu đúng là không quen thật, nhưng nhìn mãi cũng quen, còn thấy vui nữa. Nhưng cách bỏ dấu chấm dấu phẩy, cách hành văn và nội dung, nhất là những đoạn về thời gian thì mới đầu tôi không thể hiểu và tiếp thu ngay được. Tác giả viết mạch truyện theo ý tưởng “thời gian tuyến tính” (là tác giả có nhắc đến trong truyện nên tôi mới biết) dưới dạng một cuốn nhật ký, vì thời gian là tuyến tính, như một dòng chảy như vậy cho nên ngoài nội dung thì cả hình thức truyện cũng thể hiện như một dòng chảy luôn.

Không biết, tôi đã đọc ở đâu, một í kiến về thời gian, như thế này: hiện tại được coi, như biên giới của hai KHÔNG. Cái KHÔNG thứ nhất là dĩ vãng, vốn đã có, bây giờ không có nữa. Cái KHÔNG thứ hai là tương lai, bây giờ chưa có, vì vậy bây giờ cũng không. Hiện tại chính là khoảng sột soạt giữa hai bờ vực ấy, giữa hai cái KHÔNG ấy. Cho nên hiện tại cũng không là gì cả. Í kiến này giúp đỡ tôi, trong nhiều năm dài, và giải thích vì sao, có động từ hi vọng, vì sao, có động tác ghi nhật kí. Cả hai đều xảy ra, vào một thời điểm, mang tên hiện tại, nhưng trong một khoảnh khắc nhất định. Khoảng khắc này có thể đo được, bằng những giọt đồng hồ, bằng những quyển lịch, tức là bằng những đồ vật hiện hữu. Những đồ vật hiện hữu, do đó, đã giúp cho hiện tại, từ KHÔNG trở thành CÓ. Chính vì vậy mà người đời ghi nhật kí, và cũng chính vì vậy, nhật ký bắt buộc phải bắt đầu, bằng những con số hiện hữu, là ngày, là giờ, là thứ tự của tuần, của tháng, của năm, của mùa. Dường như làm vậy, hiện tại sẽ được khẳng định rõ ràng, vào một chỗ í nghĩa, trên đường tuyến tính của thời gian từ trái sang phải theo chiều mũi tên bay.

Đọc đoạn đầu thấy nản, nhưng cứ định bỏ thôi không đọc nữa mà không bỏ được, vẫn muốn cầm cuốn sách lên đọc tiếp xem nó như thế nào. Đọc một hồi rồi thì cũng quen với style của bác Trần Dần, quen rồi thì cũng dễ hiểu dễ tiếp thu hơn. Ban đầu tôi tưởng câu chuyện mang nặng nội dung “chính trị”, nhưng hóa ra đó lại nghiêng về thể loại “trinh thám”, nói về một vụ án gián điệp xảy ra vào giai đoạn chuyển đổi chế độ.

Phần trinh thám trong truyện rất xuất sắc và hấp dẫn (tôi hơi ngạc nhiên về điều này), nhưng xuất sắc hơn cả là phần mô tả nội tâm nhân vật Dưỡng, nhân vật chính trong truyện và là tác giả cuốn nhật ký. Tất cả kết hợp lại làm cho độc giả nhìn thấy toàn cảnh xã hội và con người miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1956.

Anh có biết giặc Phạm Nhan không? Tôi nói: “Không”. Ông Trung trố nói: “Im! Không được hỗn. Hay anh muốn hỗn thì bảo tôi. Anh im. Bao giờ tôi cho nói, anh mới được nói. Giặc Phạm Nhan, chặt đầu này, mọc đầu kia. Rốt cuộc nhân dân được hay Phạm Nhan được? Đế quốc Pháp của bọn anh với một bọn tàu bay, tàu bò, hùng hùng, hổ hổ. Rốt cuộc nhân dân được hay đế quốc Pháp được?” Tôi nói: “Nhân dân được”. Ông Trung trố nói: “Ai cho phép anh nói?” Tôi nói: “Tôi tưởng ông hỏi tôi”. Ông Trung trố đập bàn. Ông quát:Imm! Không tưởng gì hết! Không phải vấn đề tưởng! Đây là vấn đề trấn áp! Hiều chưa?”

Càng đọc Những ngã tư và những cột đèn, tôi càng ngạc nhiên về tác giả, ông sống ở thời đó và được biết đến là một nhà thơ, nhưng ông viết văn theo một cách hoàn toàn khác, khác xa với những nhà văn cùng thời mà tôi được học trong sách giáo khoa. Cách viết đó, ngay cả thời bây giờ mà mang đi học có lẽ cũng bị nhà trường “đuổi học” mất rồi. Thế nhưng cũng chính “style” này đã tạo cho cuốn truyện một sự đặc biệt không lẫn vào ai và một sức hấp dẫn và lôi cuốn kỳ lạ. Tôi không giải thích được điều này, chỉ biết đọc từ đầu đến cuối.

Cuốn truyện này ban đầu đọc tôi còn thấy buồn cười, về sau càng đọc càng thấy thương cho nhân vật chính là anh Dưỡng. Và thực sự là khi đọc xong cuốn truyện, bất cứ ai cũng sẽ phải suy nghĩ nhiều điều.

“Tội phạm, và các thứ tội phạm, phải tự gánh lấy tội lỗi của mình”.

* Lời người viết: Chắn hẳn rồi đây sẽ có nhiều bài viết về Những ngã tư và những cột đèn vì Nhã Nam vừa tái bản. Mình rất thích cuốn này và post lại review cũ. Lại nhớ lúc trước khi post ở group khác, các bạn teen thả ha ha quá trời quá đất, mình không hiểu vì sao, hoá ra hạ hồi mới biết các bạn tưởng nhà tiên tri vũ trụ Trần Dần của các bạn hay chém gió trên mạng xã hội. Đây là một Trần Dần khác các bạn nhé, một nhà thơ, nhà văn với cách viết và dụng ngôn độc nhất vô nhị. Khả năng thứ nhất: nếu bạn đã biết về ông, có thể bạn sẽ tìm đọc nhiều hơn, khả năng thứ 2: nếu bạn chưa biết, thì có thể qua Những ngã tư và những cột đèn bạn sẽ biết, và quay về khả năng số 1.

NHỮNG NGÃ TƯ VÀ NHỮNG CỘT ĐÈN - TRẦN DẦN 

“Tôi ngồi một ngày không rõ thứ hai hay chủ nhật. Bên này cửa sổ tôi tím: có nhật kí và bản sao nhật kí, có lọ mực tím và bản thảo lem nhem mực tím. Bên kia cửa sổ tôi xanh: có sáu cây bàng lá xanh và nhiều căm nhông xanh quân sự đậu, có tháng sáu vắng và phố thời chiến vắng lặng”

“Tôi ngồi một ngày không rõ thứ năm hay thứ sáu, thứ bảy hay chủ nhật”

Cảm giác mơ hồ, ý niệm thời gian lẫn lộn là thứ cảm giác mà Dưỡng, nhân vật chính trong Những ngã tư và những cột đèn trải qua xuyên suốt những trang nhật ký của mình, như những khúc điệp được lặp lại đều đặn trên đường tuyến tính thời gian mà tác giả Trần Dần khéo léo xây dựng trong Những ngã tư và những cột đèn.

Dưỡng cùng bốn người bạn của mình: Chắt, Ngỡi, Tình bốp, Đoành là những cựu nguỵ binh kẹt giữa hai cuộc chiến tranh, là một người mê trinh thám bị kẹt giữa câu chuyện sặc mùi trinh thám của chính mình, giữa bốn bề thành kiến của cán bộ đối với cựu nguỵ binh, tình yêu thứ nhứt - vợ, tình yêu thứ nhì - người tình, những tình bạn và đáng sợ nhất là những ngã tư với “những cột đèn không điện và những cột điện không đèn”.

Nhà văn Trần Dần chọn một cách tiếp cận và kể chuyện độc đáo khi tung tẩy đan xen trên 2 cột mốc thời gian và để nhật ký của Dưỡng trở thành chất liệu bao gồm cả thực tế, cả cảm xúc, và chấm phết những dấu mốc hiện tại, mà quay lui là bóng lưng của quá khứ còn hướng tới là bóng lưng khác của tương lai. Ở giữa là khuôn mặt hiện tại - mông lung và thách thức.

Có thể gọi Những ngã tư và những cột đèn là một tiểu thuyết trinh thám có lẽ cũng không sai lắm. Ngôn từ mới mẻ, sáng tạo, táo bạo và giàu sức gợi, những góc khuất tâm lý được khai thác sâu, đặc biệt những đoạn độc thoại giữa “sọ tôi, tôi và bóng tôi trong gương” của nhân vật Dưỡng, sẽ khiến người đọc khó lòng dứt ra cho đến những dòng cuối cùng.

Hình ảnh những ngã tư và những cột đèn xuất hiện dày đặc trong cuốn tiểu thuyết, những mỗi một lần xuất hiện, là lại ở một cảnh giới xúc cảm khác, thách thức khác, thôi thúc khác.

Bạn bè Dưỡng: người hoà mình vào dòng chảy thời cuộc, người trượt dài trong những mắc mớ cũ, người luồn cúi để tồn tại, người trở thành Cuội của chính mình, chỉ có Dưỡng là loay hoay lâu nhất giữa những ngã tư đời.

Tôi không biết điều gì cứu vớt và dẫn lối con người mạnh mẽ hơn: lương tâm của chính họ hay tình yêu thương của người khác. 

Với Dưỡng, dường như anh may mắn có cả hai, khi mọi thứ tưởng chừng sắp bùng nổ thì anh lại được cứu vớt, trong một chấm nhỏ hiện tại nào đó, trên đường tuyến tính thời gian.

Bằng cách kể chuyện thông qua nhật ký của Dưỡng, tác giả Trần Dần khéo léo bóc tách và đi sâu vào đời sống tâm lý, những khúc mắc về tinh thần, những thách thức trước vấn đề thời cuộc. Vẫy vùng trong chới với, đứng trước bao ngã tư và những cột đèn, những chọn lựa khó khăn và không có quyền được chọn lại, bạn bè dần dần bộc lộ nhiều mặt khác nhau, tình yêu thương của Mẹ và vợ, và tiếng nói của lương tri đã giúp Dưỡng vượt qua được thách thức, có chăng, Dưỡng không còn là con người cũ nữa.

Những chấm đen hiện tại nằm bên lề của đường tuyến tính thời gian là những thời khắc Dưỡng sống trọn trong tâm thức của chính mình, trong những cuộc đối thoại nội tâm của “bản thân tôi, sọ tôi và bóng tôi trong gương” để từng bước, từng bước tự cứu lấy chính mình.

“Những ngã tư và những cuộc đời

Rẽ thế nào trên thời gian tuyến tính

Dẫu chọn lựa hay bước trong vô định

Nẻo quay về có chừa lối ta không!?…

Chín giờ khói, giăng đầy trời mưa bụi

Những cột đèn tiếp nối những ngã tư

Tôi, sọ, bóng thôi không trầm ngâm nữa

Thực tại, nằm trong tỉnh thức đây rồi”

Khép quyển sách lại, những câu hỏi về những lựa chọn trong đời và hình ảnh những ngã tư dường như vẫn văng vẳng trong đầu độc giả, và những câu hỏi ấy có lẽ cũng đã hằn lên số phận của chính tác giả, nhà thơ, nhà văn Trần Dần.

Câu hỏi muôn đời của chọn lựa và không chọn lựa, đứng trước những ngã tư, có thể tham khảo lời nhà văn Trần Dần:

“Đời lắm ngã tư? Rẽ một ngã tư là trách nhiệm sinh tử, phải cẩn thận, kẻo hối bất kịp. Nhưng cẩn thận, không có nghĩa tính toán, chi li, chi hoe, mà trực cảm mang hết mình, ngửi ngửi ngã tư cẩn trọng rồi hãy rẽ”.

P.s: Phần giới thiệu đầu sách về hoàn cảnh sáng tác và số phận của cuốn tiểu thuyết rất đầy đủ và rất hay (dường như cũng gắn chặt với số phận tác giả Trần Dần). Tôi cũng muốn trích dẫn vào đây nhưng lại thôi, để bạn trải nghiệm trọn vẹn khi đọc.