Nghệ Thuật Yêu (tên tiếng anh là The Art of Loving) được nhà phân tâm học Erich Fromm xuất bản năm 1957. Đây có lẽ là tác phẩm nổi tiếng hơn cả của Erich Fromm, được tái bản nhiều nhất bằng nhiều thứ tiếng. Ở thời điểm đó khi Erich Fromm cho ra mắt cuốn sách này, ông đã trở thành học giả đầu tiên nghiên cứu về “tình yêu” và “năng lực yêu” như một đề tài nghiêm túc để nêu ra trước công luận. Đáng nói hơn là, hiếm khi những cuốn sách đó sống lâu hơn tác giả của chúng. Nhưng ở trường hợp này, hơn 25 năm sau khi ông mất, cuốn sách đã được dịch ra 34 thứ tiếng với hàng triệu bản in. Ngày nay, với rất nhiều độc giả, đặc biệt là những độc giả trẻ, quyển sách này đã trở thành một phát hiện. Những độc giả đã có nó trên giá sách thì thường xuyên đọc lại. Tác phẩm hấp dẫn không hẳn là vì nhan đề mà còn vì cuốn sách cung cấp những hiểu biết sâu về bản tính người liên quan đến vấn đề có lẽ là “vấn đề của mọi vấn đề”: Lòng yêu thương. Fromm viết về một chủ đề mà ta đã quá quen thuộc: Tình yêu. Tuy nhiên, như chính Fromm bộc bạch: «Bất cứ ai trông đợi sự chỉ dẫn dễ dãi về nghệ thuật yêu sẽ thất vọng khi đọc cuốn sách này. Cuốn sách, ngược lại, muốn cho thấy tình yêu không phải một thứ tình cảm mà bất cứ ai cũng có thể dễ dàng đắm chìm vào, dù người đó đạt tới mức độ trưởng thành nào.» Fromm nhận định «Yêu là một nghệ thuật, giống như sống cũng là một nghệ thuật vậy». «Quá trình học hỏi một nghệ thuật có thể được chia thành hai phần: một là tinh thông lý thuyết; hai là tinh thông thực hành […] Nhưng, ngoài học kiến thức lý thuyết và kiến thức thực hành, còn có một yếu tố cần thiết thứ ba để trở thành người tinh thông – đó là phải coi việc tinh thông nghệ thuật là mối quan tâm tối hậu…» Từ đây, cuốn sách của Fromm đã đi vào phân tích cặn kẽ lý thuyết về tình yêu, lý giải tình yêu như lời giải đáp cho sự tồn tại người và nhu cầu sâu xa nhất của con người là vượt qua sự chia cách, để rời khỏi ngục tù cô độc của mình, để có được “sự hòa giải bằng tình yêu” ; Fromm phân tích những hình thái khác nhau của tình yêu dựa trên đối tượng của tình yêu, như tình yêu đồng loại, tình mẫu tử, lòng tự yêu bản thân, tình yêu Thượng đế và tình yêu nhục cảm; cũng như phân tích «hình thái tình yêu giả tạo, mà trên thực tế, phần lớn chúng là những hình thức tan rã của tình yêu» trong xã hội chúng ta hiện nay. Cuối cùng, để thực sự làm chủ được nghệ thuật yêu, Fromm đi đến những bàn luận về các tiền đề của nghệ thuật yêu, các phương pháp tiếp cận, và thực hành những điều ấy: kỷ luật, sự tập trung, kiên nhẫn và hết lòng quan tâm đến nghệ thuật ấy. Fromm nói về tình yêu, nhưng không phải “thuyết giáo”. Fromm nói về tình yêu dựa trên chính bản chất của con người, với niềm tin rằng, dù đầy những khó khăn, « tình yêu không chỉ là một hiện tượng cá nhân hiếm có mà sẽ trở thành hiện tượng xã hội ». Một cuốn sách nhỏ của Fromm, nhưng đúng như Peter D. Kramer nhận xét, «nhờ cuốn sách mỏng Nghệ Thuật Yêu này, chúng ta đã có sự thay đổi sâu sắc về nhận thức, sự hy vọng lạc quan và niềm an ủi. […] Và đây chính là bằng chứng cho lập luận của ông: được chuyện trò với một con người như vậy tức là cảm thấy được thách thức, cảm thấy được nâng đỡ và cảm thấy được yêu.» Ở Việt Nam, trước năm 1975, chúng ta đã từng có hai bản dịch tác phẩm này, của người dịch Tuệ Sỹ với nhan đề “Tâm thức luyến ái”, và của Giáo sư Thụ Nhân với tên gọi “Phân tâm học về tình yêu”. Bản dịch Việt ngữ này được Omega+ mua bản quyền và xuất bản theo ấn bản năm 2006 có bổ sung Lời giới thiệu của Peter D. Kramer và một phần Phụ lục nói về các mẫu chuyện tình yêu trong cuộc đời ông, do dịch giả Lê Phương Anh chuyển ngữ và dịch giả Phạm Anh Tuấn góp ý, hỗ trợ về các thuật ngữ.
Xem thêm

Một trong những cuốn sách yêu thích của tôi. Tôi đã đọc nó ba lần rồi và có lẽ tôi sẽ đọc nó thêm vài lần nữa trong tương lai. Tôi thực sự đánh giá cao cách xử lý chủ đề của anh ấy một cách "thực tế" mà Fromm có. Anh ấy nhận ra rằng không cuốn sách nào có thể khiến bạn trở thành một người đáng yêu hơn, nhưng anh ấy nhận ra rằng bằng cách thu hút sự chú ý của chúng ta đến vô số cách mà chúng ta hiểu lầm và tự lừa dối mình về tình yêu, chúng ta có thể bắt đầu hiểu rõ hơn về những gì có thể xảy ra đối với bạn. trở thành người yêu tốt hơn. Anh ấy ám chỉ mọi thứ, từ những giả định triết học của chúng ta đến cách chúng ta làm việc trong một xã hội tư bản cho đến cách chúng ta không ngừng theo đuổi niềm vui nhàn rỗi trong việc phát triển loại tính cách giúp con người có thể hành động một cách yêu thương hơn trên thế giới. Về cơ bản là một nhà phân tâm học, Fromm cũng cực kỳ hữu ích trong việc giúp chúng ta thấy được mối liên hệ giữa cách chúng ta hành động, cách chúng ta suy nghĩ và những gì chúng ta đã học được từ sớm về ý nghĩa (hoặc ảo tưởng/ảo tưởng/thất vọng) của tình yêu. Một cuốn sách khác mà tôi nghĩ rằng tôi có thể được hưởng lợi từ việc đọc mỗi năm.

Vậy câu hỏi đặt ra là tôi có tin vào tình yêu không? Tôi đoán câu trả lời phụ thuộc vào ý nghĩa thực sự của câu hỏi đó. Nếu tin vào tình yêu mà ám chỉ hành động ngay lập tức thấy mình bị thu hút bởi một người khác mà không cần lý do hay vần điệu thì tôi phải trả lời là không. Tuy nhiên, nếu tin vào tình yêu, nó ám chỉ hành động xác định xem một cá nhân có mang lại lợi ích cho bản thân hay không, rằng mặc dù một người có thể tự mình tồn tại nhưng người ta đã xác định rằng hệ thống có thể được cải thiện bằng cách bao gồm người khác, và do đó theo đuổi người đó thì câu trả lời của tôi là có. Tình yêu đối với tôi là một hành động ích kỷ: đó là một hành động cải thiện hệ thống. Đó là một hành động kinh tế, lấy thứ này từ người khác để đổi lấy thứ khác. Vì vậy, một mối quan hệ thành công xảy ra khi có hai người cùng thỏa mãn nhu cầu của nhau. Vì vậy, ở đây tôi đã đưa ra một lời giải thích ngược lại về hiện tượng tình yêu. Tôi tin rằng đó là một lời giải thích đơn giản hơn, thỏa mãn Occam's Razor. Tôi có ít giả định hơn: hạn chế sự hài lòng và tính ích kỷ. Tôi chỉ cho rằng đó là hai yếu tố lớn và sự thay đổi trong hành vi của con người có thể được giải thích bằng cách điều chỉnh các ràng buộc khác nhau trên diện rộng. Tôi tin rằng luận điểm của tôi ở đây cũng có thể kiểm chứng được: tôi có thể dễ dàng tưởng tượng ra một cách để lấy mẫu và người ta có thể chạy mô hình hồi quy và xem liệu các yếu tố có thực sự quan trọng hay không. Không cần phải nói, tôi thuộc phe tâm lý học thực nghiệm hơn là Trường phái Frankfurt. Và không cần phải nói, tôi không hài lòng với cuốn sách này. Tôi đang cho nó 0,5 trên 5 sao.

Fromm cũng có một phần nói về tình yêu đối với Chúa. Một lần nữa, tôi có thể giải thích điều này bằng sự ích kỷ. Tình yêu của Chúa đối với tôi chỉ đơn giản là một thuật ngữ khác để chỉ sự ảo tưởng trị liệu. Con người đôi khi cần cảm thấy rằng họ không hoàn toàn kiểm soát được cuộc sống của mình, để quan điểm là họ xây dựng một thực thể "cao hơn" so với họ. Điều này trên thực tế giúp họ loại bỏ sự đổ lỗi, bất cứ khi nào có một sự kiện bi thảm xảy ra. Những điều dường như nằm ngoài tầm kiểm soát của họ được đưa ra lời giải thích bằng cách viện dẫn khái niệm về Chúa. Đối với tôi đây là một hành động ích kỷ, vì về cơ bản nó là một dạng của cơ chế sinh tồn. Con người về cơ bản là tự biến mình thành nạn nhân và rũ bỏ trách nhiệm rồi giao lại cho Chúa. Tin vào Chúa còn có chức năng thứ hai, đó là cho đi hy vọng, hy vọng rằng thế giới bên kia tốt hơn hiện tại, đây cũng là một cơ chế sinh tồn, vì nếu không, con người có thể không tồn tại được ở hiện tại. Tôi tin rằng hành vi của con người có thể được tóm tắt thành hai thuật ngữ: ích kỷ và tò mò. Tình yêu không bao giờ là sự hy sinh. Có người nói với tôi rằng chúng ta chỉ tiếp tục yêu nếu được yêu lại: chúng ta yêu bạn đời của mình chừng nào bạn đời còn yêu chúng ta. Nếu không thì mối quan hệ sẽ tan vỡ.

Một giả định khác mà anh đưa ra là tính trung tâm của sự đối lập nam-nữ. Anh ấy tuyên bố rằng hai cực này là cần thiết để tình yêu khiêu dâm thực sự xảy ra. Bằng ngụ ý, ông tuyên bố rõ ràng rằng những người đồng tính luyến ái không có khả năng yêu. Tôi có xu hướng không đồng ý. Cá nhân tôi tin rằng con người có thể hậu giới tính và có khả năng bị thu hút bởi người khác, bất kể giới tính của người đó là gì, nếu những ràng buộc của họ được thiết lập theo cách đó. Vì vậy, sự khác biệt về giới tính đối với tôi chỉ là vấn đề đặt ra những hạn chế. Tôi không thích việc Fromm loại bỏ một cách rõ ràng khả năng yêu của những người không dị tính. Có lẽ đó chỉ là dấu hiệu của thời đại ông đang sống (cuốn sách được xuất bản năm 1956), và những nghiên cứu quan trọng của Alfred Kinsey và Evelyn Hooker vẫn chưa xuất hiện. Tính đến năm 1956, đồng tính luyến ái vẫn được liệt kê là một bệnh tâm thần theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, và mãi đến năm 1974 mới bị xóa khỏi danh sách. Alfred Kinsey đã xuất bản hai tập sách quan trọng về hành vi tình dục của con người nam và nữ, và Evelyn Hooker đã thực hiện một số loạt thí nghiệm cung cấp bằng chứng cho thấy những người tự nhận là đồng tính luyến ái cũng không kém hơn trong việc điều chỉnh xã hội so với dân số nói chung. Tôi thực sự thấy thí nghiệm của cô ấy khá gọn gàng, trong đó cô ấy lấy hai nhóm mẫu: người đồng tính và người dị tính. Cô đã thực hiện ba bài kiểm tra cho hai nhóm: bài kiểm tra nhận thức theo chủ đề; bài kiểm tra vẽ một bức tranh; và bài kiểm tra vết mực Rorschach. Sau đó, cô yêu cầu các chuyên gia khác xác định xem liệu có sự khác biệt đáng kể giữa hai mẫu dựa trên hiệu suất thử nghiệm của chúng hay không. Trong tất cả các thử nghiệm, khả năng phân biệt của các chuyên gia không tốt hơn ngẫu nhiên, cho thấy rằng không có sự khác biệt đáng kể giữa người đồng tính và người dị tính khi nói đến hoạt động xã hội.

Một giả định khác mà anh đưa ra là tính trung tâm của sự đối lập nam-nữ. Anh ấy tuyên bố rằng hai cực này là cần thiết để tình yêu khiêu dâm thực sự xảy ra. Bằng ngụ ý, ông tuyên bố rõ ràng rằng những người đồng tính luyến ái không có khả năng yêu. Tôi có xu hướng không đồng ý. Cá nhân tôi tin rằng con người có thể hậu giới tính và có khả năng bị thu hút bởi người khác, bất kể giới tính của người đó là gì, nếu những ràng buộc của họ được thiết lập theo cách đó. Vì vậy, sự khác biệt về giới tính đối với tôi chỉ là vấn đề đặt ra những hạn chế. Tôi không thích việc Fromm loại bỏ một cách rõ ràng khả năng yêu của những người không dị tính. Có lẽ đó chỉ là dấu hiệu của thời đại ông đang sống (cuốn sách được xuất bản năm 1956), và những nghiên cứu quan trọng của Alfred Kinsey và Evelyn Hooker vẫn chưa xuất hiện. Tính đến năm 1956, đồng tính luyến ái vẫn được liệt kê là một bệnh tâm thần theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, và mãi đến năm 1974 mới bị xóa khỏi danh sách. Alfred Kinsey đã xuất bản hai tập sách quan trọng về hành vi tình dục của con người nam và nữ, và Evelyn Hooker đã thực hiện một số loạt thí nghiệm cung cấp bằng chứng cho thấy những người tự nhận là đồng tính luyến ái cũng không kém hơn trong việc điều chỉnh xã hội so với dân số nói chung. Tôi thực sự thấy thí nghiệm của cô ấy khá gọn gàng, trong đó cô ấy lấy hai nhóm mẫu: người đồng tính và người dị tính. Cô đã thực hiện ba bài kiểm tra cho hai nhóm: bài kiểm tra nhận thức theo chủ đề; bài kiểm tra vẽ một bức tranh; và bài kiểm tra vết mực Rorschach. Sau đó, cô yêu cầu các chuyên gia khác xác định xem liệu có sự khác biệt đáng kể giữa hai mẫu dựa trên hiệu suất thử nghiệm của chúng hay không. Trong tất cả các thử nghiệm, khả năng phân biệt của các chuyên gia không tốt hơn ngẫu nhiên, cho thấy rằng không có sự khác biệt đáng kể giữa người đồng tính và người dị tính khi nói đến hoạt động xã hội.