Các “chiến lược quản trị” hiện đại (thuật ngữ của Michel Foucault) ăn sâu bám rễ vào trong hệ thống giáo dục của xã hội tri thức ở các nước phát triển – đang và sẽ ảnh hưởng không tránh khỏi đối với nước ta. Xin thử tiếp tục tìm hiểu những quan niệm nhất định về chủ thể vốn ẩn chứa trong cuộc nghị luận về giáo dục dưới sự tác động ngày càng mạnh mẽ của tư tưởng “tân tự do”.

“TỰ DO” VÀ “TÂN TỰ DO”

Trước hết là sự khác biệt giữa tư tưởng hay học thuyết tự do cổ điển và tân tự do, ảnh hưởng đến sự chuyển đổi của các chiến lược giáo dục. Với hình thức nhà nước, chủ nghĩa tự do cổ điển tạo điều kiện cho những cá nhân được “tự do”, theo nghĩa “tạo ra” sự tự do. Tất nhiên, sự tự do theo nghĩa này không phải và không thể là vô giới hạn, do đó cần được điều tiết bằng bài toán an toàn. Và đây chính là chỗ khác biệt với chủ trương tân tự do: khác với “lý tính” tự do cổ điển, nhà nước tân tự do không kiểm soát và điều tiết sự tự do của thị trường, trái lại, bản thân thị trường sẽ trở thành nguyên tắc tổ chức và điều tiết nhà nước. Nói cách khác, nguyên tắc duy lý điều khiển hành động của nhà nước không còn là quyền tự do tự nhiên cần phải tôn trọng, mà ở trong sự tự do được sắp đặt một cách nhân tạo. Nói cụ thể, nhà nước cổ điển giới hạn sự tự do nhằm bảo vệ nhà nước phúc lợi, ngược lại, nhà nước tân-tự do trong xã hội tri thức sử dụng sự giới hạn này để phục vụ cho sự tự do của thị trường và thu hẹp dần nhà nước phúc lợi. Tự do thị trường, trong cách hiểu mới, sẽ bảo đảm tốt nhất cho sự sống còn của xã hội tri thức. Tiến trình chuyển đổi ấy cần đến những “chiến lược quản trị” kiểu mới, nhằm tạo ra những “công nghệ tự quản”, gắn liền với các mục tiêu của nhà nước. “Trong khuôn khổ sự quản trị tân-tự do, sự tự quyết, trách nhiệm và sự tự do lựa chọn không nói lên những ranh giới của hoạt động nhà nước nữa, mà bản thân chúng trở thành công cụ để thay đổi mối quan hệ của chủ thể với chính mình và với người khác” (L.Pongratz, Giáo dục người lớn. Phân tích, phê phán và gợi ý, 2010).

“NHỮNG CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC”

Tiến trình chuyển hóa ấy ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống giáo dục và quan niệm sư phạm. Những người tham gia “thị trường giáo dục” được tái định nghĩa thành những nhà tự-quản lý tri thức, sẽ hứa hẹn đạt được thành công nếu thỏa ứng những phẩm chất quản trị hiện đại. Những phẩm chất ấy là: “học cách học” (chiếm lĩnh phương tiện sản xuất của nền sản xuất tri thức), “quản lý động cơ” (tự buộc mình thường xuyên kiểm tra và tối ưu hóa chất lượng); “tự quản lý” (vừa như là khách hàng, vừa như là kẻ chào hàng) và “tự tối ưu hóa” (sẵn sàng để được kiểm định và “ngã giá”). Như đã thấy trước đây, là “trung tâm dịch vụ”, “trung tâm kỹ năng”, con người phải không ngừng sở đắc kỹ năng mới, tự học và học suốt đời mới có thể tìm được chỗ đứng trong khu từng rậm của nền thị trường toàn cầu hóa. Sự kết nối giữa những “công nghệ tự quản” và những “chiến lược quản trị kỷ luật hóa” sẽ hình thành sự “tự kiểm soát tự nguyện” của từng cá nhân trong xã hội tri thức. Không lạ gì khi giáo dục ắt sẽ được tổ chức theo hình mẫu của việc thực thi đề án kinh tế-thương mãi, còn tri thức thì hành xử và được đối xử như là hàng hóa. Là một món hàng, người tốt nghiệp có một “thương hiệu”, và luôn phải đối diện với “tòa án chất lượng”, được nhìn nhận như là điều tự nhiên và không thể tránh được. Ta thấy ở đây sự phối hợp tinh vichưa từng có giữa sự tự trị và ngoại trị, giữa quyền tự quyết và sự tuân phục không có khe hở và lối thoát!

“CHỦ THỂ HÓA” TRONG XÃ HỘI TRI THỨC “TÂN TỰ DO”

Foucault gọi việc hình thành định chế mới ấy cho chủ thể hiện đại là những “công nghệ của cái Tôi”, thông qua những nghi thức và thói quen thực hành ngày càng thuần thục. Vừa là “khách hàng”, vừa là kẻ “chào hàng”, cá nhân xuất hiện dưới hai danh nghĩa: “nhà kinh doanh sức lao động” và “nhà kinh doanh một thành viên”. Một tác giả khác định nghĩa không kém… ấn tượng: đó là “kinh tế hóa chủ thể” và “chủ thể hóa kinh tế”. Nói dễ hiểu, cá nhân, trong xã hội tri thức, với tư cách “nhà kinh doanh sức lao động”, không chỉ làm vai trò của kẻ thực thi hợp đồng, mà còn tự chịu trách nhiệm về quy trình lao động, đề nghị những cải tiến, trao đổi trong nhóm, phát huy năng lực đến cực độ, truyền thông đa dạng, xóa nhòa trật tự thứ bậc. Người lao động truyền thống (làm công ăn lương, có chỗ làm lâu dài, ổn định) được thay thế bằng người làm việc luôn phải năng động và sẵn sàng… cơ động.

Trong thực tế, ai cũng biết số“nhân công tri thức” thực sự thỏa ứng được những yêu cầu rất cao về chuyên môn và điều kiện sinh hoạt (di chuyển và thay đổi thường xuyên chỗ ở, với mối đe dọa thất nghiệp thường trực…) bao giờ cũng chiếm tỉ lệ nhỏ trong xã hội, nhất là ở các nước đang phát triển. Và ngay cả hệ thống nghề nghiệp kiểu cũ với đủ loại bằng cấp tốt nghiệp cũng không còn là chỗ dựa vững chắc nữa.

Rồi với tư cách là “nhà kinh doanh một thành viên”, lấy chính mình làm vốn liếng, người sản xuất lẫn nguồn thu nhập (Foucault), cá nhân trở thành pháp nhân như một “giả tưởng có thật”, luôn lo sợ trong cuộc cạnh tranh khốc liệt trước khả năng bị loại trừ và loại bỏ trong cơ chế thị trường.

Nếu lao động chuyên sâu đến mức vụn vặt trong trường hợp trước khó đồng nghĩa với việc phát huy một cách tự do tính chủ thể cá nhân, thì, trong trường hợp sau, sự tự chủ, tự trị có khi chỉ là một vẻ ngoài ảo tưởng. Ảo tưởng còn ở chỗ: làm lợi cho đại công ty, đại tập đoàn và các cổ đông, trong khi vẫn tưởng rằng vì lợi ích và sở thích của chính mình!

NHIỀU CHỦ ĐỀ CÒN NGẦM ẨN

Năng lực tự tổ chức là yếu tố cơ bản cho sự tồn tại của xã hội tri thức. Nếu trước đây việc thành bại đặt trên vai doanh nghiệp, thì ngày nay trách nhiệm ấy chuyển dần sang cho việc đào tạo của cá nhân. Nhưng, sự tự định hướng ngày nay chỉ nhắm đến một phân mảnh của điều trước đây được hiểu là sự tự quyết: đó chỉ còn là cách hành xử hiệu quả đúng theo chức năng trong hệ thống. Trong bối cảnh ấy, liệu khái niệm giáo dục có đánh mất yêu cầu và lý tưởng khai minh của mình? Nếu mục tiêu của giáo dục trước đây là nỗ lực đưa con người thoát ra khỏi sự “không trưởng thành” (Kant), thì sự chuyển hóa tinh vi của những “công nghệ quản trị” hiện đại có nguy cơ đưa con người về lại tình trạng ấy?

Sau khi đã lược qua vấn đề “tính chủ thể” trong viễn tượng hiện đại, hậu hiện đại và xã hội tri thức, bài cuối – tạm khép lại chuyên mục “Câu chuyện giáo dục” lâu nay – sẽ đi vào câu hỏi: liệu con người trong xã hội tri thức (đang ló dạng ở nước ta) có thể trở thành chủ thể tự do được không? Câu hỏi cốt lõi và là cứu cánh (mục đích tối hậu) của triết học giáo dục!

 

Nguồn: Bookhunterclub.com

---------

Trở thành CTV viết reviews sách để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị cùng Bookademy, gửi CV (tiếng Anh hoặc Việt) về: [email protected]

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về các cuốn sách haytạilink:https://www.facebook.com/bookademy.vn

Xem thêm

Đó chính là xu hướng “thương mại hóa, dịch vụ hóa nền GDĐH” và điều đáng lưu ý là những ý kiến trên còn khẳng định rằng nền GDĐH Việt Nam cũng sẽ phải theo xu hướng ấy bởi đây là xu hướng chung của thế giới và có tính tất yếu (?). Trước khi có thể khẳng định điều đó, chúng ta cần phải trả lời được những câu hỏi sau: Tại sao lại xuất hiện xu hướng thương mại hóa GD? Ai đứng sau thúc đẩy một cách nhiệt tình xu hướng đó? Liệu đây có là xu thế được chấp nhận trên toàn thế giới hay không? Liệu nền GD Việt Nam nói chung và GDĐH Việt Nam nói riêng, theo định hướng XHCN, có bắt buộc phải theo xu thế này không? 1.Sự xuất hiện của xu hướng xem GD là hàng hóa Hiện nay, dịch vụ là lĩnh vực có mức tăng trưởng mạnh nhất của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là trong y tế và giáo dục. Theo đánh giá chung, chi phí hằng năm của toàn thế giới cho y tế vào khoảng 3.500 tỉ USD, cho giáo dục khoảng 2.000 tỉ USD và phần lớn những chi phí này đều do nhà nước đảm nhận. Vào tháng 12-1994, các nước thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã ký kết một hiệp ước chung về thương mại và dịch vụ (AGCS: l’Accord Général sur le Commerce et les Services) được áp dụng vào năm 1995. Mục tiêu muốn loại bỏ vai trò của nhà nước và thúc đẩy tiến trình tư nhân hóa, thị trường hóa mọi lĩnh vực dịch vụ của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Dễ nhận thấy rằng hiệp ước này đã được xây dựng trên quan điểm “tân tự do” (néolibéralisme) và ba nước bảo trợ nhiệt tình nhất cho bản hiệp ước là Mỹ, Úc và New Zealand, những quốc gia xuất khẩu giáo dục nhiều nhất trên thế giới. 2.Thương mại hóa GDĐH là một xu thế tất yếu? Cần phải khẳng định một điều rằng xu thế thương mại hóa GDĐH không phải là một xu thế chung trên thế giới và càng không phải là một xu thế tất yếu như nhiều người vẫn quả quyết. Xin hãy điểm lại những sự kiện này: - Hội nghị các bộ trưởng giáo dục tại Prague (CH Czech) vào tháng 5-2001 đã tái khẳng định nguyên tắc: “Giáo dục đại học là một dịch vụ công, là trách nhiệm chung của tất cả mọi người...”. - Hội thảo quốc tế về giáo dục được tổ chức trong khuôn khổ của Diễn đàn xã hội quốc tế Porto Alegre ngày 1 và 2-2-2005? đưa ra tuyên bố 19 điểm chống lại việc thương mại hóa giáo dục, vì đã biến một quyền căn bản và phổ quát của con người thành một hàng hóa dành cho những tầng lớp có ưu thế trong xã hội. Vào tháng 5-2003, vương quốc Bỉ tuyên bố từ chối áp dụng các qui tắc của nền thương mại quốc tế vào lĩnh vực giáo dục được thể hiện trong AGCS vì những nguy hiểm mà việc đó gây ra lớn hơn nhiều những lợi ích mà nó có thể mang lại... Và tuyên bố này nhận được sự đồng thuận của Phần Lan, Áo và Thụy Điển. Như vậy, không phải quốc gia nào trên thế giới cũng muốn xem GD như một hàng hóa, bởi một lý do hết sức cơ bản: giáo dục là một quyền của con người và trách nhiệm của các quốc gia, các chính phủ là phải bảo đảm quyền đó cho mỗi công dân. 3.Thương mại hóa nền GD Việt Nam được không? Trong thời gian qua, những bất bình đẳng trong GD của nước ta đã ngày càng gia tăng. Các số liệu của cuộc điều tra về mức sống năm 2002 cho thấy càng lên bậc học cao thì tỉ lệ người đi học thuộc các nhóm nghèo càng giảm (báo SGGP, 15-4-2004). Như vậy, bình đẳng về cơ hội học tập sẽ càng xa vời hơn nữa khi chúng ta thực hiện thương mại hóa giáo dục, bởi nguyên lý cơ bản của thương mại là mua bán, cạnh tranh và lợi nhuận. Người ta sẽ chỉ tập trung “làm” GD ở những nơi nào có khả năng mang lại lợi nhuận nhiều và cũng sẽ chỉ chú trọng đến những khách hàng có khả năng mua sản phẩm mà thôi. Nền giáo dục ĐH của chúng ta còn phải học hỏi thế giới rất nhiều nhưng khi nào chúng ta xem GD nói chung và GDĐH nói riêng như hàng hóa thì lúc đó bản chất của nền GD theo định hướng XHCN sẽ không còn tồn tại. Cần suy nghĩ các bước đi khác để cải thiện chất lượng giáo dục, tránh rơi vào vòng xoáy của chủ thuyết tân tự do vốn chỉ biết có lợi nhuận và mạnh được yếu thua.

Đạo lý” ấy thì ai cũng dễ dàng đồng ý và tán thưởng. Nhưng không ít vấn đề nảy sinh khi suy nghĩ sâu hơn về “kịch bản” này. Bởi xã hội tri thức, như đang được thực hành tại các nước phát triển, có cách hiểu mới về việc học suốt đời và tự học, như là hai cột trụ bên cạnh việc sở đắc kỹ năng như đã bàn trước đây. 1.Học suốt đời như là công cụ sở đắc kỹ năng Học suốt đời được định nghĩa chính thức như sau: là việc học do mỗi cá nhân tự chịu trách nhiệm, tức người học tự lựa chọn trong mạng lưới đa dạng của những cơ hội và nội dung học tập. Điều này cũng đúng ngay từ tuổi ấu thơ khi phụ huynh định hướng việc học của con cái mình. Tự định hướng việc học bao hàm tận dụng cơ hội học tập do bên ngoài mang lại cũng như tự tổ chức lấy việc học của mình. Tiền đề của nó là phải có sự bình đẳng về cơ hội học tập và sự tư vấn có thẩm quyền (“Chiến lược học tập suốt đời của Hội đồng Giáo dục Liên bang Đức”). “Tự định hướng” và “tự chịu trách nhiệm” là tính chất cơ bản của việc học trong xã hội tri thức, mặc dù chưa ai biết rõ phải học những gì. Nghĩa là, bên cạnh việc sở đắc nhiều kỹ năng, ta cần có “kỹ năng học” trước đã! Các mục tiêu giáo dục không còn được đặt ra rành mạch như trước, vì chỗ tinh tế của khái niệm học suốt đời ngày nay là ở chỗ không xác định cứng nhắc mục tiêu học tập. Bản thân việc học chính là mục tiêu. Sự cần thiết phải học suốt đời xuất phát từ thực tế: thị trường, công nghệ và truyền thông phát triển quá nhanh và con người không có cách nào khác là phải chạy theo để thích ứng. Họ luôn phải “fit for the job” nếu không muốn bị gạt sang bên lề! Vì thế, khó có thể nói ngay từ đầu rằng học như thế đã đủ chưa và có “đúng” không. Tốn nhiều thời gian và tiền bạc vẫn có thể là “sai” hay “quá ít”. Rủi ro của việc học suốt đời hoàn toàn đặt trên vai người học, bởi họ tự định hướng và tự chịu trách nhiệm. Từ “thành tài” ngày càng trở nên mơ hồ, bất định! Tình trạng luôn dang dở, chưa hoàn tất, chưa thể hài lòng tác động tích cực lên các yêu cầu của xã hội tri thức, bởi nó luôn đặt con người trong tình thế bấp bênh, cả về kỹ năng lẫn trong cuộc sống, để buộc phải... học suốt đời. Sự tự nguyện ấy là điều kiện sinh tử của khái niệm “học suốt đời” cũng như của khái niệm xã hội tri thức. 2.“Tự” học Tự học không chỉ có nghĩa hiền lành, vô hại như trước nay là tự đào tạo bên ngoài trường lớp chính quy. “Tự” bây giờ là... mệnh lệnh của cuộc sống: tự lựa chọn, tự quyết, tự tổ chức, tự chịu trách nhiệm, hay nói gọn, tự lo lấy thân! “Tự” là khái niệm mơ hồ, nhưng không thiếu phần hấp dẫn. Helmut Bremer, trong bài Tự học (2005), viết không phải không có ý mỉa mai: “Còn muốn gì hơn: trong ý nghĩa khai phóng, tự học là giải phóng cá nhân khỏi những sự lệ thuộc và cưỡng bức; nó mang dư âm của sự trưởng thành, tự trị và tự phát huy”. Dường như chưa bao giờ khát vọng tự do có cơ trở thành sự thật. Bởi về lý thuyết, tri thức - phương tiện sản xuất quan trọng nhất của xã hội tri thức - sẵn sàng dành cho tất cả mọi người. Người lạc quan nhìn thấy ở đây sự tiêu biến của mọi rào cản và phân biệt đối xử. Ai cũng biết, trên thực tế, mọi việc không “thơ mộng” như thế! Không phải ai cũng có “lợi thế cạnh tranh” trong việc tự học với những khóa học đắt tiền, những cơ hội du học về ngoại ngữ hay chuyên môn, kể cả đối với người dân các nước phát triển. Vì thế, không ít nhà giáo dục học băn khoăn về sự “không tưởng” của việc mọi người đều có thể tự do tham gia vào các nguồn lực quyết định của xã hội tri thức hiện đại. Tự học hiển nhiên trở thành đòi hỏi bức thiết để thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế và kỹ thuật - công nghệ, và hầu như đồng nghĩa với học tập suốt đời. Tuy nhiên, trong dòng chảy khó cưỡng lại ấy, tư tưởng giáo dục cổ điển về sự khai phóng cá nhân thường được tái diễn giải như là sự năng động và sẵn sàng chạy theo năng suất. Việc tự học - thoát ly khỏi hoàn cảnh xã hội - trở thành gánh nặng trách nhiệm cô đơn của mỗi cá nhân về thành bại của chính mình. Đồng thời, đàng sau sự tự do, tự quyết được tái diễn giải như là “tự lo lấy thân” ẩn giấu những áp lực ghê gớm của việc kiểm soát và kỷ luật hóa ngày càng tinh vi, thông qua sự so sánh, đánh giá và trắc nghiệm, nhằm tạo nên sự nhất thể hóa và đồng phục hóa trong hệ thống giáo dục. Sự bình đẳng không hẳn đồng nghĩa với giải phóng mà là buộc phải phục tùng những tiêu chuẩn chung và cả sự loại trừ. Khi mọi người đều như nhau, nhưng không ai muốn mình ngang hàng với người khác thì phải tạo ra sự khác biệt bằng sự phân loại và sắp hạng. Những người tham gia hệ thống giáo dục sớm muộn sẽ phải làm quen với việc tự nguyện phục tùng những biện pháp và thể thức kỷ luật hóa để duy trì hệ thống. Vậy, xã hội tri thức tiếp thu, đồng thời cải biến những ý niệm dẫn đạo của truyền thống nhân văn cổ điển (tiêu biểu là sự tự do và tự trị của chủ thể) như thế nào? Ta sẽ trở lại với khái niệm “quản trị”(gouvernementalité) của Michel Foucault để tìm hiểu xem việc thực hành “quản trị” được thiết lập như thế nào trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt dưới ảnh hưởng thống trị của “chủ nghĩa tân tự do” trong xã hội tri thức ngày nay. Sự kết hợp giữa sở đắc kỹ năng, tự học suốt đời với những chiến lược kỷ luật hóa của sự “quản trị” sẽ hình thành nên sự “tự kiểm soát tự nguyện” của những cá nhân. Ta có thể nhận diện sự tự kiểm soát tự nguyện này trong mọi cấp độ của hệ thống giáo dục hiện đại. Ở cấp độ định chế, đó là việc tái cơ cấu các thiết chế giáo dục thành những “trung tâm dịch vụ”, mà chức năng chủ yếu của nó là thương mãi hóa tri thức. Giáo dục, qua đó, ngày càng hướng đến thị trường và hiệu quả kinh tế như là điều tự nhiên và bình thường. Nhưng, những hệ quả nào sẽ xảy ra cho chủ thể khi giáo dục được vận hành theo hình mẫu của doanh nghiệp và theo cách xúc tiến một đề án kinh tế?

Trong đời sống xã hội, giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trò quan trọng đối với mọi quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Trong xu thế phát triển tri thức ngày nay, giáo dục - đào tạo được xem là chính sách, biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, muốn phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh thần, nhất là về học vấn, nhận thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp phần xây dựng và cải tạo xã hội. Bác Hồ đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” bởi không có tri thức, hiểu biết về xã hội, tự nhiên và chính bản thân mình, con người sẽ luôn lệ thuộc, bất lực trước những thế lực và sức mạnh cản trở sự phát triển của dân tộc, đất nước mình. Giáo dục góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc. Ngày nay, giáo dục và đào tạo còn góp phần tạo ra hệ thống giá trị xã hội mới. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, tri thức là sản phẩm của giáo dục và đào tạo, đồng thời là tài sản quý giá nhất của con người và xã hội. Sở hữu tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất được các nước thừa nhận và bảo hộ. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc từ tài nguyên, sức lao động cơ bắp là chính chuyển sang nguồn lực con người có tri thức là cơ bản nhất. Giáo dục và đào tạo góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc bởi giáo dục - đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao làm giàu của cải vật chất cho xã hội đồng thời có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ sức đề kháng chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong chính quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu. Giáo dục - đào tạo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang tiến hành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, trình độ lao động phổ thông còn thấp, ít được đào tạo nghề, vẫn còn khoảng gần 60% lao động nông nghiệp, nên hiện mới bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Giáo dục - đào tạo nhằm phát huy năng lực nội sinh “đi tắt, đón đầu” rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam khẳng định giáo dục - đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là điều kiện phấn đấu để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Giáo dục - đào tạo bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao. Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần quan trọng phát triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định của kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức được hiểu là kinh tế trong đó có sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tất cả các quốc gia phát triển đều có chiến lược phát triển giáo dục. Trong “Báo cáo giám sát toàn cầu giáo dục cho mọi người”, tổ chức UNESCO cũng đã khuyến khích các nước phải chi tiêu ít nhất 6% GDP cho giáo dục. Nhận thức rõ vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển, Đảng và Nhà nước ta khẳng đinh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Việc đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay đang là mối quan tâm của các cấp, ngành, các nhà khoa học và toàn xã hội. Chọn khoa học và giáo dục làm khâu đột phá cho phát triển. Chọn giáo dục làm tiền đề, làm xương sống của phát triển bền vững là xác định đúng đắn và khoa học.

Theo chuyên gia, cách tiếp cận thị trường trong giáo dục phổ thông là một việc làm 'lợi bất cập hại' vì sẽ tạo ra một môi trường mà cả thầy và trò đều đứng trước các xung đột về giá trị. 1.Các phi giá trị sẽ lên ngôi Ông Phạm Đỗ Nhật Tiến, nguyên trợ lý Bộ trưởng Bộ GD-ĐT, cho rằng VN đang có cách tiếp cận riêng về quyền tự chủ trong giáo dục phổ thông, đó là cách tiếp cận theo kiểu đánh đổi giữa quyền tự chủ với việc tự bảo đảm các khoản chi. Theo ông Tiến, về bản chất, đó là một cách tiếp cận mang tính thị trường. Nó khuyến khích và đòi hỏi nhà trường cố gắng tạo ra các khoản thu ngoài ngân sách và dùng các khoản thu này để “mua” lấy quyền tự chủ. Tuy nhiên, ông Tiến cho rằng cách tiếp cận thị trường trong giáo dục phổ thông là một việc làm “lợi bất cập hại”. Nó tạo ra trong nhà trường một môi trường mà cả thầy và trò đều đứng trước các xung đột về giá trị. Đó là các xung đột giữa một bên là các giá trị hướng tới phẩm chất người học mà chương trình giáo dục phổ thông phải thực hiện với một bên là các giá trị thị trường, mà dù muốn hay không nhà trường phải theo đuổi để tạo ra các khoản thu. Kết quả của những xung đột này là sự loang rộng và thậm chí lên ngôi của các phi giá trị như: sự giả dối, bệnh thành tích, bệnh hình thức, bệnh bè phái, bệnh đối phó, thói khôn vặt, thói tùy tiện, thói vô cảm, sự lười nhác… Trong một môi trường như vậy, khó mà hình thành thực chất các phẩm chất mong muốn của học sinh. Do vậy, ông Tiến đề xuất không nên có chuyện tự bảo đảm các khoản chi để được giao quyền tự chủ. Nhà trường vẫn được cấp ngân sách nhà nước đầy đủ và được giao quyền tự chủ khi đã được kiểm định và công nhận về chất lượng, có một hội đồng trường đủ mạnh, và thực hiện trách nhiệm giải trình một cách tin cậy. Đó là cách tiếp cận hướng tới văn hóa chất lượng. Nó sẽ tạo nên trong nhà trường phổ thông một môi trường văn hóa lành mạnh và trung thực để cả thầy và trò cùng vững tâm hướng tới các phẩm chất mà chương trình giáo dục phổ thông mong muốn. 2.Không thể phủ nhận vai trò của nhà nước Ông Nguyễn Khánh Trung, Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục - IRED, trong bài viết Khái niệm thị trường giáo dục và vai trò tác nhân, cũng cho rằng: "Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của nhà nước trong giáo dục. Tại bất kỳ quốc gia nào, thông qua những chính sách về giáo dục của mình, nhà nước đều ít nhiều tác động, lèo lái và ảnh hưởng trên giáo dục, ảnh hưởng trên sự điều tiết, trên hành vi, chiến lược của các tác nhân khác trên thị trường giáo dục". Theo ông Khánh Trung, tại các nước phương Tây, nhà nước là bên đầu tư chính cho giáo dục với mục đích là đảm bảo công bằng trong cơ hội, đảm bảo quyền được học hành của người dân. Nhà nước không những là nhà đầu tư chính cho các trường công, mà còn cho các trường tư. Tại Bỉ, nhà nước tài trợ cho các trường tư dựa vào số lượng học sinh, hay dựa vào kết quả học tập của người học. Khẳng định vai trò đầu tư, điều tiết của nhà nước trong giáo dục ở cả những nước như Bắc Âu, luật sư Chu Hồng Thanh, T.Ư Hội Luật gia VN, cho rằng dịch vụ giáo dục miễn phí phổ cập toàn bộ hệ thống giáo dục ở Bắc Âu đã giúp người học thuộc mọi tầng lớp và mọi hoàn cảnh phát huy tự chủ và khả năng sẵn có của từng cá nhân. 3.Xã hội hóa không có nghĩa “thảy” hết cho xã hội Ở một góc nhìn khác của thị trường giáo dục, nhiều ý kiến cũng cho rằng khái niệm “xã hội hóa giáo dục” không nên chỉ gắn liền với việc kêu gọi các thành phần xã hội bỏ vốn kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, mà thực ra đang làm cho giáo dục trở thành một thị trường “bát nháo”, “chụp giật” mà nạn nhân lại là người dân. Đồng thời, xã hội hóa giáo dục không có nghĩa là “thảy” hết cho người dân, người kinh doanh giáo dục khiến cho học sinh học ở trường tư thiệt thòi hơn nhiều so với ở trường công. Bà Nguyễn Thị Hiền, Chủ tịch hội đồng Trường Đoàn Thị Điểm (Hà Nội), thì cho rằng dù học sinh học ở trường công hay tư thì cũng đều phải được ngân sách nhà nước đầu tư công bằng như nhau. Ví dụ, học sinh đến tuổi đi học phổ cập là được phát “voucher” (tương tự như phiếu mua hàng) như nhau, còn lựa chọn trường công hay tư thì sẽ theo nhu cầu của phụ huynh và học sinh. Các trường tư có trách nhiệm nhận voucher đó và trừ vào học phí mà học sinh của mình phải đóng góp…

Như chúng ta đã biết trong thời đại hội nhập như hiện nay, khoa học công nghệ bùng nổ thì càng không thể thiếu vai trò của người dân có trình độ công nghệ cao. Theo Becker (1964), nhà kinh tế đoạt giải Nobel năm 1992, không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư vào giáo dục. Việc thực hiện những mục tiêu cải cách giáo dục đã thực sự đem lại những chuyển biến về trình độc học vấn trong cộng đồng người dân, đây là một yếu tố thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề cũng như giải quyết việc làm cho người dân. Điều đó cho chúng ta thấy khi người dân đạt được một trình độ học vấn nhất định họ sẽ có khả năng tiếp thu thông tin cũng như khả năng phát huy chuyên môn của mình một cách tốt nhất. Vì vậy, những người có trình độ học vấn càng cao thì cơ hội họ tìm được một công việc tốt và thích hợp sẽ dễ dàng hơn so với những người khác. Mặt khác, một điều mà chúng ta dễ dàng nhận ra đó là việc đầu tư cho giáo dục sẽ làm tăng năng suất cho chính bản than họ. Từ đó sẽ làm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân (Becker, 1964). Người dân là nhân tố sang tạo ra kỹ thuật công nghệ và trực tiếp sử dụng chúng vào quá trình phát triển kinh tế. Do đó ta có thể nhận thấy việc nâng cao trình độ học vấn và trang bị kiến thức chuyên môn cho người dân sẽ làm tăng năng suất và hiệu quả cao. Ở phạm vi vĩ mô, giáo dục làm tăng kỹ năng lao động, tăng năng suất và dẫn đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do vậy, giáo dục được xem như là một hoạt động đầu tư làm tăng vốn nhân lực, có ích cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (Trần Nam Bình, 2002). Chính vì thế, giáo dục được coi là quốc sách. Nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển chỉ ra rằng ở những quốc gia mà người dân có trình độ học vấn cao thường có trình độ phát triển cao hơn (Becker 1964, Mincer 1974, Krueger và cộng sự 2001, Aghion và cộng sự 2009). Các học giả đều cho rằng đào tạo là yếu tố sản xuất quan trong trong hàm sản xuất của nền kinh tế. Sự đầu tư cho giáo dục sẽ làm tăng chất lượng lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Phát triển giáo dục luôn là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, là điều kiện phát huy nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững “Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận của các nguồn lực, có khả năng huy động, tổ chức để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội” (Nguyễn Hữu Long, 2004). Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, biểu hiện ở sự hình thành và hoàn thiện từng bước về thể lực, kiến thức, kỹ năng, trình độ và nhân cách nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu hoạt động, lao động cá nhân và sự phát triển của xã hội. Giáo dục nâng cao chất lượng của lao động, được thể hiện qua việc tích lũy vốn, tăng thu nhập người lao động. Giáo dục cũng là công cụ để thế hệ trước truyền lại cho các thế hệ sau các tư tưởng và tiến bộ khoa học công nghệ. Giáo dục đào tạo thực hiện mục đích “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” hình thành đội ngũ có tri thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ năng động sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội. Giáo dục gắn liền với học hành, những điều học sinh học trong nhà trường sẽ gắn với nghề nghiệp và cuộc sống trong tương lai của họ. Giáo dục đào tạo lớp người có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, có ý thức vươn lên về khoa học, công nghệ, xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, đào tạo các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh quản lý nhằm phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Sự gia tăng trình độ học vấn dẫn tới mức năng suất cao, ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Vì vậy các nhà chính trị và hoạch định chính sách đều cố gắng hành động nhằm nâng cao trình độ học vấn của người dân. Các tranh luận rằng Chính phủ nên hỗ trợ nhiều cho giáo dục vì giáo dục cần và tốt cho tăng trưởng kinh tế và phát triển giáo dục.