Chỉ “rong chơi” trên trần thế 27 năm ít ỏi, đã 78 năm sau ngày rời xa cõi tạm, nhà văn Vũ Trọng Phụng vẫn kịp cho hậu thế những nhân vật đặc biệt, không chỉ tồn tại sinh động trên các trang sách, mà còn hiện hữu y như thật ngay giữa cuộc sống đương thời.
Những Xuân tóc đỏ, bà Phó Đoan, cậu em chã, những nghị Hách, Thị Mịch… đã định danh Vũ Trọng Phụng là một trong những nhà văn xuất sắc bậc nhất thế kỷ XX.
Đúng như nhà văn Ngô Tất Tố viết về Vũ Trọng Phụng trong số đặc biệt trên tạp chí Tao Đàn năm 1939: “Ông Phụng tuy chết, mười mấy tác phẩm của ông vẫn còn sống với mai sau. Thế cũng là thọ.”
“Ông Vua phóng sự Bắc Kỳ”
Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20-10-1912, quê làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, lớn lên tại Hà Nội trong một gia đình nghèo. Ông chỉ được học hết tiểu học và phải đi làm để kiếm sống
Năm 18 tuổi, Vũ Trọng Phụng làm thư ký tại nhà Gô-đa, sau bị đuổi việc, ông xin vào làm nhân viên đánh máy Nhà in Viễn Đông và bắt đầu cầm bút từ đó.
Từ năm 1930 đến lúc mất, ông cộng tác với nhiều báo hàng đầu lúc bấy giờ: Nhật tân, Ngọ báo, Hải Phòng tuần báo, Phụ nữ thời đàm, Loa, Tân thiếu niên, Tiểu thuyết thứ bảy, Tương lai, Hà Nội báo, Đông Dương tạp chí, Tao đàn… và cũng chính những phóng sự đầy thân phận về con người của ông đã góp phần làm nên thương hiệu những tờ báo lớn ấy.
Nếu như nhà văn, nhà báo Vũ Đinh Chí (1900-1986) với bút danh Tam Lang là người khởi đầu nghiệp phóng sự thì Vũ Trọng Phụng được xem như người đưa phóng sự Việt Nam giai đoạn 1930-1945 đến đỉnh cao.
Thiên phóng sự đầu tiên viết về cờ gian bạc lận có tên: “Cạm bẫy người” in đầu những năm ba mươi, ngay lập tức sớm khẳng định một lối viết hoàn toàn mới mang thương hiệu Vũ Trọng Phụng.
Tiếp đó là các tác phẩm: “Không một tiếng vang”, “Kỹ nghệ lấy Tây”, “Dứt tình”… càng khẳng định sức căng, độ nhạy bén và đặc biệt là lối hành văn sắc sảo, hài hước, vô cùng hiện đại và hiện thực của Vũ Trọng Phụng.
Kể từ đây, một ngòi bút vừa xuất hiện đã gây chấn động làng báo, làng văn nước ta trước cách mạng tháng Tám. Giới cầm bút thời ấy tấn phong Vũ Trọng Phụng là “ông vua phóng sự Bắc Kỳ” khi ông mới ở độ tuổi đôi mươi.
Trong bài “ Địa vị Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt nam cận đại” đăng trên báo “Tao đàn”, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng tháng 2-1939, Trương Tửu, một người bạn thân đã nhận xét về 4 thiên phóng sự nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng: “Cạm bẫy người”, “Cơm thày cơm cô”, “Kỹ nghệ lấy Tây” và “Lục sì” là 4 quyển kiệt tác đặt nền móng đầu tiên cho phóng sự Việt Nam.
Còn trong bài “Vũ Trọng Phụng – Người thư ký trung thành của thời đại” của tác giả Tôn Thảo Miên thì viết: “Vũ Trọng Phụng giống như một nhà chép sử, một người thư ký đã có công ghi lại một cách trung thành thực trạng xã hội những năm trước cách mạng…
“Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thày cơm cô, Lục sì, mỗi phóng sự là một nội dung phản ánh bộ mặt thực của xã hội đương thời với những mặt trái, những tệ nạn trầm kha nhức nhối..”.
Quả vậy, nếu Cạm bẫy người là là những khảo cứu công phu, tỉ mỉ về nghề bạc bịp, Kỹ nghệ lấy tây là những khảo cứu về nghề kinh doanh thân xác dưới cái vỏ hôn nhân Đông Tây, thực chất là một kiểu mưu sinh vừa quái gở, vừa thê thảm thì “Lục sì” có thể được coi là những tài liệu về vấn nạn của dục tính…
Ngoài ra, Vũ Trọng Phụng còn là một trong những nhà văn góp phần đáng kể vào việc hiện đại hóa văn xuôi quốc ngữ.
Nhà văn hiện thực xuất sắc
Ngoài các phóng sự thành công ngay ở buổi đầu cầm bút, Vũ Trọng Phụng còn viết 40 truyện ngắn, nhưng có lẽ giữa sự phong phú và đa dạng của nhiều thể loại ông thành công nhất là tiểu thuyết.
Các tiểu thuyết của ông luôn đề cập đến những vấn đề của xã hội, khái quát được một phạm vi cuộc sống hết sức rộng lớn mà ta không thể tìm thấy được ở những sáng tác khác của những nhà văn cùng thời.
Năm 1936, chỉ trong vòng một năm, bốn cuốn tiểu thuyết của ông lần lượt xuất hiện trên các báo, thu hút sự chú ý của công chúng. Cả bốn tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê và Làm đĩ đều hiện thực, đi sâu vào các vấn đề xã hội.
Nếu tiểu thuyết là phản ánh bức tranh xã hội, phản ánh hiện thực đời sống thì Giông tố, Vỡ đê là bức tranh vẽ đầy đủ chi tiết, chân thật đời sống người dân dưới thời nô lệ.
Bằng ngòi bút trào phúng độc đáo Số đỏ, Làm đĩ, Trúng số độc đắc là một nét khác xuất thần, bật lên những vết thương rướm máu của xã hội được che phủ bên ngoài lớp sơn văn minh Âu hóa…
Vũ Trọng Phụng căm hờn, phỉ báng sự giảo quyệt, đê tiện, bẩn thỉu, thối nát của một xã hội cũ cũng đồng nghĩa với sự tất yếu phải xây dựng một xã hội mới của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Hiếm thấy một nhà văn nào yêu mến nhân dân, yêu mến người lao động và trân trọng họ theo một cách riêng, nhân bản và hiệu quả như Vũ Trọng Phụng.
Cái sự yêu quý người lao động, dù họ là gái điếm, lưu manh, trộm cắp vẫn luôn được Vũ Trọng Phụng nâng lên thành điển hình văn học độc đáo, nếu không muốn nói là “độc nhất vô nhị”.
Trong toàn bộ các sáng tác của ông, đến hôm nay đã tìm được, chúng ta đều thấy rất rõ ý thức bênh vực người lao động của ngòi bút nhà văn và sự vạch trần đến bản chất của cái xấu, cái ác cùng với một thái độ lao động của nhà văn hiếm thấy trong từng con chữ.
Có thể nói Vũ Trọng Phụng hiểu cái đáy của xã hội không phải từ trên nhìn xuống, từ ngoài nhìn vào mà là người nhập cuộc để thấu hiểu và đưa vào trang viết.
Chưa phải là một nhà cách mạng, nhưng văn Vũ Trọng Phụng đứng về đồng bào mình, đem cái chất phê phán xã hội vào trong tác phẩm.
Nhà thơ Tố Hữu năm 1949 đã từng có câu đại tự tặng nhà văn Vũ Trọng Phụng: “Ông không phải là nhà cách mạng, nhưng cách mạng biết ơn ông”.
Trong các tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, Số đỏ” được xem là một tuyệt tác. Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu cho rằng: Vũ Trọng Phụng sáng tạo một loại tiểu thuyết mới, tiểu thuyết cười, tiểu thuyết đa thanh, đa âm, đa sắc diện.
Số đỏ là một siêu tiểu thuyết và nhân vật Xuân Tóc Đỏ là một siêu nhân vật. Nhân vật Xuân Tóc Đỏ đã vượt khỏi giới hạn của một hoàn cảnh, một thành thị mà trở thành một nhân vật phiêu lưu, có mặt ở nhiều cảnh ngộ.
Không riêng gì Số đỏ, các tác phẩm Giông tố, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng đều là những tác phẩm có giá trị trong thời kỳ mặt trận dân chủ.
Các tác phẩm Số đỏ, Giông tố đều được dựng thành phim. Cốt cách và giá trị văn học của các tác phẩm đã tạo cho các bộ phim nhiều nét đặc sắc.
Tác phẩm Số đỏ cũng được Giáo sư Zinoman dịch ra tiếng Anh và được xem là một trong số 50 sách dịch hay ở nước Mỹ.
Bệnh tật và làm việc quá sức, Vũ Trọng Phụng mất ngày 13-10-1939 tại Hà Nội, ở tuổi 27.
Những sáng tác để đời của Vũ Trọng Phụng được ghi nhận là những di sản đặc sắc của thế hệ vàng văn chương Việt Nam hiện đại. Rất nhiều vấn đề được ông đề cập tới nay vẫn còn nguyên giá trị hiện thực.
Nguồn: Vnwriter.net
-------------------------
Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link:https://www.facebook.com/bookademy.vn
Tham gia cộng đồng Bookademy để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị, đăng ký CTV tại link: https://goo.gl/forms/7pGl3eYeudJ3jXIE3
Ánh trời tà đã hết nhuộm vàng bãi bể. Bên trên dãy núi tím, vàng, xanh, xám mấy màu pha lộn nhau như nét bay miết dài của nhà họa sĩ, mây lồng thành hình vạn vật, cỏ cây. Giữa khoảng vô cùng, đó là một đàn voi… dần dần dồn nhau lên một cái cánh phượng, rồi, sau hết, lại bị gió dãi ra tản mạn thành chỗ này thì eo bể, vịnh, bán đảo, chỗ kia, cù lao, sông, núi – một bức địa đồ!
Bức tranh vân cẩu tuy lạ mắt nhưng không để cho người có đủ thời giờ ngắm nghía, cứ thay đổi hoài, vì từ phía bể, gió đã bắt đầu rít lên. Thoạt đầu, chân trời chỉ thấy chấm đen. Mới một lúc đã không biết bao nhiêu là mây đen ở đâu kéo về, nhanh chóng lạ thường, hình như ở bể đùn lên nặng nề bao phủ, đè ép cả mặt đất. Bể, mới lúc nãy còn lăn tăn sóng gợn, vô nghĩa lý như cô gái buồn tiu nghỉu thì bây giờ có bộ mặt của một bà mẹ chồng hành nàng dâu. Những làn sóng rờn nhau, đuổi nhau vào bờ, làm lùi cả bãi cát, làm những tảng đá như khóc lướt mướt.
Phía kia, tây phương, dãy Núi Đèo, mất mặt trời, mất cả những áng mây lồng, đã hiện nguyên hình đá đen, cỏ xác, hết khoe khoang.
Đám người đương nô đùa dưới nước mặn hoặc đương ung dung dạo chơi trên cát, lúc đó cũng tất tả rủ nhau ra về.
Một vài hạt mưa ném xuống lác đác… vài cơn gió, thế là cả vòm trời là một thác nước dữ dội.
Đồ Sơn giữa mùa hạ, và buổi bão rớt này đã hóa vắng vẻ chẳng khác gì ở cảnh chiều đông.
- Đấy nhé tôi đã biết mà! Nếu tắm hôm nay thì có phải khổ chạy mưa không? Ngồi nhà nghỉ ngơi trò chuyện với nhau thế này vẫn hơn chứ…
Tiết Hằng nói xong lim dim mắt nhìn Yvonne mỉm cười một cách đắc chí, đoạn ngửa cổ kề đầu vào thành chiếc ghế mây.
Hấp tấp Yvonne thêm:
- Phải lắm, chị ạ. Có phải ở nhà ngồi nói chuyện hơn là đi tắm không, me nhỉ?
Đương ngửa cổ uống bia, “me” bỗng cau mặt, đặt mạnh cốc xuống bàn…
- Đồ hỗn láo! Sao mày dám gọi bà ấy là chị? Hở! Ai cho phép mày thế? Bà ấy ngang hàng với tao, nghĩa là với mẹ mày, biết không?
Tức khắc Tiết Hằng ngồi ngay ngắn lên, nghiêm trang trách:
- Ồ ồ! Sao lại thế, bà Năm? Vẫn hay là tôi được cái hân hạnh ngang hàng với bà, nhưng bà bốn mươi mà tôi mới hai nhăm, tôi kém bà những mười lăm tuổi! Tôi chả thích được ngang hàng với bà vì tôi chỉ hơn Yvonne có sáu năm. Tôi mong bà để Yvonne và tôi, coi nhau như chị em, hạng trẻ trung với nhau, chúng tôi phải tự do mới được!
Rồi nàng quay lại, ái ngại nhìn Yvonne, lúc đó mặt cúi gằm. Bà Năm không đáp, lại điềm nhiên tu nốt cốc bia khiến Hằng cứ ngồi chờ, tay gõ cái quạt xuống bàn và đủ thời giờ nhìn bà ta một cách tinh quái.
Đó là một người đàn bà to béo, có tướng đàn ông. Phấn không xóa nhòa những đường răn reo ở mặt. Sáp đáng lẽ phải tăng vẻ tươi cho cặp môi, lại chỉ khiến nó thêm có vẻ khôi hài. Đã thế, lúc nào cũng kèm bên mình một cái ví da nho nhỏ, một cái dù Nhật sặc sỡ và xinh xinh. Những cái tô điểm lặt vặt bé nhỏ đó khiến bà Năm đã to nhớn lại đẫy đà thêm độ mười phần. Trông đến bà rồi so sánh những đồ… phụ tòng, thiên hạ phải tưởng tượng đến một con voi đeo nhạc của miu con!
Mẹ thế nhưng con khác hẳn. Yvonne có trong huyết quản ba phần máu Pháp và bảy phần máu Việt Nam, bộ mặt xinh đẹp một cách ngây thơ; cử chỉ ngôn ngữ rất ôn tồn. Không hỗng hợm, không “đầm” một tí nào cả. Trong nàng, tạo hóa đã dung nạp cái đẹp phương Tây với cái đẹp phương Đông để kết nên cái đẹp hoàn mỹ. Mũi nàng là mũi dọc dừa, không tẹt, cũng không nhọn. Tóc màu hạt dẻ và cặp mắt phơn phớt xanh lúc sáng sớm, đen đen lúc chiều.
Khi bà Năm đẻ Yvonne được vài tháng thì ông chồng, đại tá De. S, phải về nước cầm quân. Chết trận, đại tá cũng đã để lại cho vợ con ở đây một chục nóc nhà. Sẵn tiền cho thuê nhà, lại thêm được tiền tuất quả rất hậu, bà Năm đã… thủ tiết nuôi con. Mấy phen đem bạc vạn góp vốn vào việc khai mỏ, xuất cảng gạo với Đào Quân chồng Tiết Hằng – bà đã thành giàu lớn. Tháng trước, bà mời vợ chồng Đào Quân lên nghỉ tại biệt thự của bà tại Chapa. Nay, Tiết Hằng cũng dùng cái biệt thự của mình tại Đồ Sơn để trả cái nợ lịch thiệp đó.
Trời mưa bão, nhưng vì hiên rộng, cả bọn vẫn ngồi ở hành lang. Tiết Hằng gặng một lần nữa:
- Thế nào, bà Năm? Bà có ưng cho chúng tôi tự do với nhau không, thưa bà?
Nghĩ hồi lâu bà Năm đáp:
- Bà tuy trẻ nhưng cái trẻ của bà là trẻ của người lớn. Nó cũng trẻ nhưng cái trẻ của nó là cái trẻ của trẻ con. Bà dễ dãi quá thế. Nếu Yvonne nó hư là tại bà, tôi chả biết đâu cả!
Nước đã muốn ngập lụt mặt đường. Những cây thông bị gió lay như tuốt cả về một chiều, hiện thành hình những cái roi tiên cầm ngược. Từ những biệt thự chung quanh đó, thỉnh thoảng lại có chiếc xe hơi mui buông kín mít chui ra, chạy hộc tốc về Hải Phòng, bốn bánh phun tóe nước ra hai bên đường đi.
Tiết Hằng để quạt lên mồm, ngáp và hỏi Yvonne:
- Xem hộ xem mấy giờ rồi? Sáu giờ năm. Bữa cơm chiều, ta ăn vào 8 giờ tối thì vừa vặn. Sáng sớm tôi đã đánh dây thép cho nhà tôi ở cảng ra cho vui. Có lẽ có cả mấy ông bạn ở Hà Nội xuống nữa.Thế thì vui lắm nhỉ? Cô rất thích được giao thiệp với nhiều người An Nam! Thích vì…? – Yvonne ngẩn ngơ, lúng túng:
– Thích vì…
Hằng cười tinh quái và nói luôn:
- Vì thích?
Yvonne cũng cười khanh khách mà rằng:
- Vì thích? Phải rồi, thế lại gọn. Thích vì thích…
Thốt nhiên bà Năm nhăn mặt, đứng lên:
- Ta vào chứ? Trời mưa thế này mà cứ ngồi mãi đấy làm gì?Muốn chừng bà say…
Bà Năm bưng một tay lên trán, lắc đầu:
- Không, tôi có say đâu… Gió lạnh quá, tôi chóng mặt một tí.
Hằng vồn vã:
- Mời bà lên phòng nghỉ tạm, 8 giờ tôi xin đánh thức dậy xơi cơm.
Bà mẹ vào rồi, Yvonne xem ra có phần được dễ chịu hơn: mặt nàng nhẹ nhàng khác trước. Nàng kể hết cho Hằng nghe cái lối giáo dục không có phương pháp của mẹ nàng…
Năm tôi đã 17, me tôi vẫn không quên đánh tôi như đánh đứa trẻ con. Buổi chiều hôm ấy đi học về, ăn cơm xong tôi toan lên phòng riêng học bài thi thì me tôi bắt tôi quét điện thờ để các bà ấy đồng bóng! Tôi còn ngần ngừ chứ cũng chưa phản đối, thì bà ấy đã vội làm một thôi một hồi thế này này: “A, con này mày cậy mày là Tây, mày gan với bà, không muốn bà cúng vái gì nữa chứ?” Thế là me tôi tiện tay cốc luôn vào trán tôi hàng chục cái, trước mặt một đám đông người! Gớm nghĩ rõ bực quá!
Tiết Hằng cả cười, cho rằng bất cứ vào trường hợp nào cái cười cũng vẫn an ủi được người ta. Yvonne thêm:
- Đến ngay bây giờ, tôi đã có vô số những ông danh giá hẳn hoi định lấy tôi rồi mà me tôi cũng vẫn mắng tôi như mắng một đứa trẻ! Lắm lúc lại thêu dệt ra những là: “Cái quân lai chúng nó bạc. Có đứa cầm búa đánh trả lại mẹ, có đứa đuổi mẹ đi ăn mày, mắt tao trông thấy luôn. Tử tế ôn tồn với chúng bay cũng vô ích!”. Chị bảo phải một người mẹ vô lý áp chế đến thế có tức không? Lắm lúc nghĩ giá tôi tìm cách gì lôi phăng bà ấy về Tây thì hay quá. Khốn nỗi, ở bên này như me tôi đã là giàu, nhưng mà về Pháp thì rồi ăn hết vốn, sẽ chết đói mất!Chị xem xét cái xã hội Việt Nam này thấy nó hay dở thế nào?Tôi có xem xét bao giờ! Tôi sinh trưởng ở đây, việc gì cũng quen mắt quen tai rồi, làm gì còn có con mắt quan sát của một người ngoại quốc mới đến đây.Lúc nãy chị bảo thích được giao thiệp với người Nam?Vâng, sự đó đối với một người lai là sự thường. Nghĩ đến đồng bào của bố được thì nghĩ đến đồng bào của mẹ cũng được. Có gì là lạ đâu? Tôi còn thích mặc quần áo ta nữa.
Lững thững Yvonne đến gần Hằng. Hằng ngửa cổ, say đắm nhìn lên, rồi đứng dậy khoác lấy vai Yvonne:
- Hôm nào tốt trời, ta sẽ cùng đi chụp ảnh…Thế còn gì bằng! Được chụp ảnh chung với Tiết Hằng là người đàn bà xinh đẹp nhất nước Nam!Nỡm, cứ chế nhạo mãi…
Hằng đỏ bừng hai má chữa thẹn, nhưng chưa chi Yvonne đã nghiêm nghị mà rằng:
- Thật đó chị ạ. Tôi chưa thấy người đàn bà nào đẹp như chị đâu. Chị hơn người ở chỗ không phấn sáp bao giờ. Chị không phấn sáp bao giờ mà bất cứ bao giờ, bất cứ ở đâu, chị cũng là người đẹp nhất!
Trong phòng khách, đồng hồ từ từ đánh bảy tiếng. Tiết Hằng kéo Yvonne vào, cả hai vừa chạy vừa nhảy, tung tăng như đôi trẻ ngây thơ. Đoạn Hằng ngồi phịch xuống, gọi:
- Bếp! Bếp! Dạ. Sắp xong chưa?Con đương dọn bàn rồi.Đúng như lời tôi dặn anh đấy chứ? Có đến nỗi thiếu món nào không?Bẩm… không thiếu món nào cả. Tôm tươi, cua, sò, cá song, cá chim, mực tươi, con đã về cảng mua được hết; mấy món đồ hộp với rượu cũng dư dật cả.
Yvonne nói len vào:
- Nhiều đồ bể quá!
Tiết Hằng cười:
- Ở bể thì phải ăn đồ bể chứ… Tôi chả như Yvonne, mời tôi lên núi mà không thết tôi bằng đồ rừng…Chị bảo gì?Đồ rừng… nghĩa là thịt những giống vật trên rừng… Sao khi ở Chapa không mời tôi những món thịt nai, thịt vượn, thịt rắn, thịt hổ, vân vân… vân vân?
Cả hai cười khanh khách. Vừa lúc đó, bà Năm cũng lững thững từ phòng rửa mặt đi sang. Bà dừng chân ngắm kỹ gian phòng có cái bài trí nên thơ: những đồ gỗ tối tân, mấy bức tranh vẽ sơn to lồng vào khung kim nhũ, mấy bức tượng và chỗ này mấy cái lọ Nhật, góc kia cái đôn, vừa đưa mắt quan sát vừa gật đầu.
Bà Hằng hiểu mỹ thuật lắm. Bày sơ sài mà trông đẹp làm sao?