Trong thời đại hiện nay, khi con người đã mệt mỏi với sự xô bồ của thời đại và đau đầu với những vấn nạn ô nhiễm môi trường thì sống xanh và quay trở về với tự nhiên đang trở thành một xu hướng tất yếu. Hãy cùng điểm qua 5 quyển sách về môi trường và sinh thái mà qua đó chúng ta sẽ thức tỉnh và có những cái nhìn mới mẻ hơn đối với vấn đề bảo vệ môi trường.

1. Mùa xuân im lặng – Rachel Carson

 

Rachel Louise Carson (27/05/1907 – 14/04/1964) là nhà động vật học và sinh vật biển sinh tại Pittsbugh, Hoa Kỳ. Tác phẩm nổi tiếng của bà, Mùa xuân thầm lặng(Silent Spring), được ghi nhận là đã làm xuất phát điểm cho phong trào bảo vệ môi trường trên toàn cầu. Mùa xuân thầm lặng tạo ra ảnh hưởng sâu rộng tại Hoa Kỳ và làm thay đổi chính sách quốc gia về thuốc trừ sâu. Rachel Carson được truy tặng huân chương tổng thống về tự do (Presidential Medal of Freedom).

Khi quan tâm đến bản chất và những điều kỳ lạ của vũ trụ xung quanh nhiều hơn, chúng ta sẽ giảm thiểu được những tác động phá hoại. – Rachel Carson

Quyển sách đã liệt kê các tác động môi trường của việc sử dụng DDT (chất độc màu da cam) bừa bãi ở Mỹ và đặt nghi vấn về các tác động của chúng đối với môi trường hay sức khỏe con người.

Rachel Carson cho rằng DDT và các thuốc trừ sâu khác gây ra ung thư, việc sử dụng chúng trong sản xuất nông nghiệp là một mối đe dọa cho động vật hoang dã, đặc biệt là các loài chim.

Sách được xuất bản là sự kiện đánh dấu sự ra đời của phong trào vì môi trường. Nó đã tạo ra làn sóng phản đối kịch liệt trong công chúng dẫn đến một lệnh cấm thuốc trừ sâu DDT được ban hành vào năm 1972 ở Mỹ.

2. Quyển niên giám xứ cát (A Sand County Almanac) – Aldo Leopold

Sách “Quyển niên giám xứ cát” ra đời năm 1949 là sự pha trộn của lịch sử tự nhiên, những câu văn miêu tả cảnh và bao hàm cả triết học. Quyển sách nổi tiếng với  đoạn trích nói về những nguyên tắc thiên nhiên: “Mọi thứ trở nên tốt đẹp khi chúng bảo tồn được sự nguyên vẹn, bền vững và những mối quan hệ sinh học bên trong”.

Cùng với “Mùa xuân im lặng”, “Quyển niên giám xứ cát” đã được Hiệp Hội Tự Nhiên Học của nước Mỹ công nhận là hai quyển sách về môi trường đáng quý trọng và tôn kính nhất trong thế kỉ 20.

Quyển sách đã có những tác động lớn lao đến xã hội và được mô tả là “một sự đánh dấu lớn trong bước tiến của phong trào môi sinh”, “một tác động to lớn đến nhận thức của nước Mỹ trong vấn đề bảo vệ môi trường”

3. Sa mạc Cadillac – Marc Reisner.

Quyển sách “Sa mạc Cadillac” được xuất bản năm 1986 nói về những vấn đề mở rộng đất và chính sách về nguồn nước ở miền tây nước Mỹ. Quyển sách là một công trình to lớn của Marc về nghệ thuật và văn học cũng như vấn đề môi trường.

“Sa mạc Cadillac” mô tả lịch sử của việc Cục Cải tạo và Cục Kĩ thuật quân đội Mỹ đấu tranh cải tạo môi trường ở miền Tây hoang dã. Quyển sách nói lên những chính sách phát triển miền Tây nước Mỹ trong thời kì đầu đã gây ra những hậu quả cực kì nghiêm trọng và kéo dài. Hệ thống cung cấp nước hoạt động trái quy luật và yếu kém đã gây ra khủng hoảng về việc cung cấp nước sạch mà vẫn còn tiếp tục tiếp diễn cho đến ngày hôm nay.

4. Cuộc sống trong rừng – Henry David Thoreau

Quyển sách lần đầu được xuất bản vào năm 1854, miêu tả cuộc sống giản dị ở xứ đồng quê. Toàn bộ quyển sách là công trình tuyên bố về cái tôi độc lập, kinh nghiệm xã hội, những khám phá mới mẻ trên hành trình tinh thần, xen kẽ những bài thơ ngụ ngôn và hướng dẫn phương cách sinh tồn khi ở nơi hoang dã. Tất cả được đúc kết từ khoảng thời gian 2 năm 2 tháng 2 ngày tác giả sống trong một ngôi nhà gỗ gần khu rừng mù sương Walden, Concord, Massachuset. Thời gian trong quyển sách nối liền thành một năm miêu tả hành trình và bốn mùa nhằm tượng trưng cho quá trình phát triển của con người.

Bằng cách đồng nhất bản thân với tự nhiên, Thoreau hi vọng đạt được mục đích thấu hiểu xã hội thông qua tự nhận thức bản thân. Sống đơn giản và tự biết đủ là mục tiêu tác giả hướng đến trong quyển sách này.

 5. Trái Đất trong sự cân bằng – Al Gore

Quyển sách này được xuất bản năm 1992, một thời gian ngắn sau khi tác giả lên làm Phó Tổng thống Mỹ. “Trái Đất trong sự cân bằng” giải thích những hiện tượng biến đổi sinh thái đã được kiểm chứng bởi các nhà khoa học và miêu tả các chính sách xã hội nhằm giải quyết với những vấn đề đó.

Quyển sách đã được trao giải thưởng Robert F Kenendy về công bằng và quyền con người.

Trong quyển sách, Gore miêu tả sự đối nghịch đối với việc thích nghi với hiện tượng nóng lên toàn cầu. Ông viết rằng “Thích nghi chính là một loại lười biếng. Và chúng ta kiêu ngạo cho rằng chúng ta sẽ hành động kịp lúc để cứu lấy Trái đất. Nhưng sự thật thì không như thế.

6. Cuộc cách mạng một cọng rơm – Masanobu Fukuoka

Cuộc cách mạng một cọng rơm là một quyển sách sẽ khiến cho bạn thật sự cảm thấy kinh ngạc. Quyển sách tuy viết về nông nghiệp nhưng bạn sẽ không thể tìm thấy trong đây bất kì một tri thức về nông nghiệp nào, dù là nông nghiệp hữu cơ hay nông nghiệp tự nhiên.

Nhiều người nhận xét rằng quyển sách nói về Thiền trong nông nghiệp, một nền nông nghiệp vô vi, thuận theo tự nhiên và không làm gì cả.

Chúng ta luôn được dạy dỗ từ nhỏ rằng chúng ta luôn là những kẻ đi chinh phục tự nhiên, bắt tự nhiên phục tùng chúng ta. Chúng ta đứng trên muôn loài, chúng ta phải chiếm hữu, phải cải tạo, bắt muôn loài phải thuận theo và phục vụ cho nhu cầu cũng như ý muốn của chúng ta.

Điển hình trong lĩnh vực nông nghiệp. Chúng ta trồng hàng loạt các loại cây trồng với quy mô lớn. Và sau mỗi vụ thu hoạch, đất đai bị bạc màu và chúng ta cải tạo bằng cách sử dụng các loại phân bón, bao gồm hữu cơ lẫn vô cơ và vi sinh. Chu kì đó cứ lập lại liên tục theo mỗi năm. Khi có sâu bệnh dịch hại chúng ta phun thuốc hóa học và hàng năm các loại thuốc đó luôn cần phải được cải tiến vì tình trạng sâu bệnh kháng thuốc.

Và dần dần, chúng ta nhận ra mỗi sự tác động của chúng ta đều gây ra sự mất cân bằng vốn có của tự nhiên và chúng ta phải trả giá với việc phải sử dụng các sản phẩm nông nghiệp đầy hóa chất và phân thuốc độc hại. Đó là những gì chúng ta nhận lại bởi những thứ chúng ta đã gây ra.

Con người với cái tôi quá lớn của mình đã quên đi rằng bản thân mình cũng là một loài sinh vật, thuộc về tự nhiên và không thể nào tách rời khỏi các quy luật của tự nhiên.

Trong quyển sách “Cuộc cách mạng một cọng rơm” không hề có một cuộc cách mạng nào cả. Chỉ có sự giác ngộ. Vì một cọng rơm cũng cần được thấu hiểu và con người cần trở lại với bản tính thiên nhiên của mình, thấu hiểu tự nhiên để có một cuộc sống yên tĩnh và kéo dài khỏe mạnh bởi được cung cấp bởi nguồn thức ăn hoàn toàn tự nhiên và thanh sạch.

 

Nguồn: http://lib.qtttc.edu.vn/

-------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về các cuốn sách hay tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn/

Trở thành CTV viết reviews sách để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị cùng Bookademy, gửi CV (tiếng Anh hoặc Việt) về: [email protected]

Xem thêm

“Walden” là một hồi tưởng đầy chiêm nghiệm suy tư về quãng đời “hai năm hai tháng hai ngày” Thoreau sống một mình trong một mảnh đất rừng bên cạnh đầm Walden, “Giọt nước của Trời”, “đáng yêu hơn kim cương” trong một ngôi nhà tự xây lấy, và bằng lao động của chính đôi tay mình. Ở Walden, ông đã sống nhiệt thành say mê đầy tỉnh thức “Tôi đi vào rừng bởi vì tôi muốn sống thong dong, chỉ đối diện với những sự kiện tinh tuý nhất của cuộc sống, và xem thử tôi có thể học được những gì nó phải dạy tôi hay không, và không để đến khi tôi gần chết mới khám phá ra rằng tôi chưa hề sống. (Walden (W)– Tôi sống ở đâu và sống để làm gì?). Ông chủ trương sống đơn giản vì “Phần lớn những xa xỉ và cái được gọi là tiện nghi không chỉ không tuyệt đối cần thiết, mà còn rõ ràng cản trở việc nâng cao phẩm giá con người.” Ông mang vào rừng giấc mơ về một cuộc sống vô ưu đầy vui thú. Walden nhấn mạnh tầm quan trọng của lối sống giản đơn, tự chủ, trầm tư, gần gũi thiên nhiên, vượt lên trên “sinh tồn tuyệt vọng” này, vốn là số mệnh của đa số người. Trong chương “Trại Baker” Thoreau kể một buổi chiều lang thang trong rừng, ông gặp mưa giông và phải vào trú nhờ căn nhà tối tăm nhếch nhác của John Field, một tá điền Ai Len không xu dính túi nhưng cần cù lao động, với vợ và con anh ta. Thoreau thuyết phục Field hãy sống đơn giản nhưng độc lập bằng cách vào rừng để thoát khỏi cả chủ đất lẫn chủ nợ, nhưng anh chàng người Ai Len này từ chối vì không sao dứt bỏ được những khao khát xa hoa và tiếng gọi của “giấc mơ Mỹ.” Bỏ đi những thứ dư thừa, ảo tưởng để tìm ra những nhu cầu thật sự thiết yếu của cuộc sống; ông nhiệt liệt tán dương văn học cổ điển mà ông thích đọc trong nguyên bản cổ ngữ Hi Lạp và Latin, ông phàn nàn về cái xu hướng phổ biến [dường như ở mọi thời] tìm những thứ “dễ đọc” thay vì những tư tưởng sâu sắc nhưng mệt óc; ông mơ mở một trường đại học cho người lớn, tại đó Concord có thể mời các nhà thông thái trên thế giới đến để giảng dạy và làm “cao quý tâm hồn” người dân bản xứ (W- “Đọc”)

Rachel Carson là nhà động vật học và sinh học biển người Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng khuyến khích mọi người trên toàn thế giới quan tâm đến sinh thái của bà, "Silent Spring" (Mùa xuân yên tĩnh), được ghi nhận là xuất phát điểm cho phong trào bảo vệ môi trường trên toàn cầu. "Người hùng môi trường" Rachel Carson Rachel Carson sinh năm 1907 tại Springdale, Pennsylvania( Mỹ). Khi còn là một đứa trẻ, Carson dành hàng giờ để hỏi mẹ về các ao hồ, cánh đồng và khu rừng. Nhưng cuộc đời của cô bé yêu thiên nhiên này không hề bình lặng. Khi đang học năm thứ hai ở khoa Văn chương và tiếng Anh của trường Đại học Nữ sinh Pennsylvania (nay là Đại học Chatham), niềm say mê khám phá thế giới tự nhiên trong Carson trỗi dậy và cô quyết định chuyển sang ngành sinh vật học. Tốt nghiệp đại học với thành tích xuất sắc, Carson được nhận vào làm việc ở phòng thí nghiệm sinh vật biển tại Wooks Hole, Massachusetts. Sau đó, cô giành được học bổng tại Đại học Johns Hopkins. Năm 1932, cô nhận bằng thạc sĩ về động vật học. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho cuộc sống của người phụ nữ đam mê khoa học như Carson gặp nhiều khốn khó, nhất là khi người cha qua đời để lại cho cô trách nhiệm chăm sóc mẹ. Đến năm 1937, chị gái cô lại mất đột ngột ở tuổi 40 khiến cô phải thay chị nuôi nấng 2 cháu gái. Vừa dạy sinh vật học tại trường Đại học Maryland, Carson vừa làm việc bán thời gian cho Cơ quan Nghiên cứu sinh vật biển Mỹ với tư cách là một người viết bài khoa học. Năm 1936, Carson trở thành người phụ nữ đầu tiên được tuyển dụng làm chuyên gia của cơ quan này.Tháng 11-1941 cuốn sách đầu tiên của Carson được xuất bản mang tên “Under the Sea Wind” (Dưới ngọn gió biển). Cuốn sách nhận được nhiều lời khen ngợi vì lần đầu tiên có người viết về biển dưới cái nhìn của sinh vật biển. Nhưng Thế chiến thứ hai đã nhấn chìm cuốn sách vào sự lãng quên. Phải chờ đến cuốn thứ hai “The Sea Around Us” (Biển quanh ta) xuất bản tháng 7-1951, Carson mới trở thành người của công chúng. Cuốn sách đoạt Giải thưởng Sách quốc gia và nằm trong danh sách bán chạy nhất suốt 86 tuần của The New York Times. Sau thành công này, Carson từ bỏ công việc đang làm ở cơ quan chính phủ để dành trọn thời gian cho viết sách. Cuốn sách thứ ba được Carson đặt tên là “The Edge of the Sea” (Bờ biển - 1955). Cho dù yêu cầu của nhà xuất bản chỉ là viết một cuốn sách chỉ dẫn về cuộc sống của các sinh vật bên bờ biển nhưng Carson đã làm nhiều hơn thế. Bà dồn hết tâm trí vào “Ecology” (sinh thái học), thuật ngữ “đã trở thành đỉnh điểm trong tâm trí” bà lúc đó. Mục đích của cuốn sách này là “muốn mọi người hiểu về những động vật sống trên vỏ ốc”.Sau đó, Carson chuyển mối quan tâm từ biển cả lên bầu trời. Bà viết kịch bản cho chương trình truyền hình có tựa đề “Something about sky” (Tản mạn về bầu trời). Chương trình được phát sóng vào tháng 3-1956. Tác phẩm “Silent Spring” (Mùa xuân yên tĩnh - 1962) ra đời sau rất nhiều năm Rachel Carson cần mẫn nghiên cứu. Tác phẩm được xem là một tiếng chuông báo động về những hiểm họa sinh thái do hoạt động của con người gây ra và đã mở đầu cho phong trào bảo vệ môi trường trên toàn thế giới. “Mùa xuân yên tĩnh” Khi Rachel Carson quan sát xung quanh, bà nhận ra những điều đau lòng: Rừng bị chặt phá trơ trụi, những nhà máy thải chất độc giết hại vô số các dòng sông, những khu đất hoang bị dọn sạch để xây dựng đường sá và nhà cửa, thuốc trừ sâu DDT được phun trên diện rộng để diệt muỗi và những côn trùng có hại nhưng cũng giết luôn cả các loài côn trùng có ích và các loài động vật… Carson bàng hoàng nhận ra: Mọi người đang phá hủy thế giới. Bà viết một số bài báo về tác hại của thuốc trừ sâu nhưng bị từ chối đăng với lí do các nhà quảng cáo đã mua chỗ và không đồng ý cho những bài báo có thể gây tranh cãi này xuất hiện.Carson quyết định viết một cuốn sách. Bà bắt tay vào nghiên cứu về DDT - thuốc trừ sâu phổ biến nhất vào thời đó vì nó giúp người sử dụng tiết kiệm được thời gian, tiền bạc và lao động. Vốn là nhà sinh vật biển, Carson đặt câu hỏi: DDT có ảnh hưởng thế nào tới cá? Bà khám phá ra DDT theo mưa, chảy ra sông và giết luôn cả cá. Câu hỏi đặt ra tiếp theo là DDT có ảnh hưởng như thế nào đối với con người khi họ ăn phải thực phẩm đã nhiễm DDT? Carson biết đã đến lúc “không thể im lặng”. Bà viết: “Tôi không cho rằng thuốc trừ sâu hóa học sẽ không bao giờ được sử dụng. Tôi nghĩ chúng ta đang bỏ thuốc độc và những dược phẩm hóa học có độ khử mạnh vào tay mọi người mà hoàn toàn hoặc hầu như bỏ qua mất tính nguy hại của chúng. Chúng ta đã khiến cho bao nhiêu người phải tiếp xúc với những loại thuốc độc như vậy mà không hề trưng cầu ý kiến của họ, trong khi họ hoàn toàn mù tịt về mặt này. Bên cạnh đó, chúng ta không hề điều tra trước xem những dược phẩm hóa học này có những phản ứng như thế nào đối với nhân loại, thực vật, động vật hoang dã cũng như đất và nước, mà đã sử dụng chúng. Thế hệ con cháu sau này sẽ không khoan dung cho hành vi ấy của chúng ta”. Cuốn sách tiến triển chậm. Carson suy nghĩ nhiều về tên của cuốn sách. Bà nhận ra ở chương đầu tiên bà đã đặt câu hỏi: “Tại sao chim chóc lại lặng im không cất tiếng hót vào mùa xuân? Cái gì đã làm cho loài chim im lặng?”. Và thế là bà quyết định đặt tên cho cuốn sách là “Silent Spring” (Mùa xuân yên tĩnh). “Silent Spring” đã trình ra một cái nhìn về thiên nhiên bị lũng đoạn bởi những loại thuốc diệt sâu rầy bằng hóa chất tổng hợp, đặc biệt là thuốc DDT. Một khi những thuốc trừ sâu này nhập vào bầu sinh quyển, Carson lập luận, chúng không chỉ giết sâu bọ mà còn đe dọa những quần thể chim, cá và cả con người. Phần lớn những dữ kiện mà Carson nêu ra không phải là mới; cộng đồng khoa học đã biết về những phát giác này nhưng bà là người đầu tiên tổng hợp chúng lại, đồng thời đưa ra những lời cảnh báo sâu sắc. Đúng như những gì Carson dự đoán, tác phẩm “Silent Spring” đã bị những công xưởng sản xuất chất hóa học nông nghiệp phản đối kịch liệt. Các ông trùm hóa chất gào lên “đây là cuốn sách sẽ đẩy chúng ta đến chân tường”. Các bài báo liên tiếp ra đời “nện” bà tới tấp. Có bài báo còn gọi Rachel Carson là “Nature Nut” (Kẻ gàn dở tự nhiên). Bà còn bị cáo buộc là “một cảm tình viên của cộng sản”, được Liên Xô sử dụng với ý đồ “làm cắt giảm năng suất nông nghiệp của phương Tây”… Tuy nhiên, bên cạnh sự chỉ trích, lăng mạ, “Silent Spring” nhận được rất nhiều lời ca ngợi. Thư động viên tới tấp gửi đến bà. Người dân khẩn thiết kêu gọi những nhà khoa học như Carson phải làm gì đó để ngăn chặn thảm họa do DDT gây ra.Tổng thống John Kennedy đã thành lập một Ủy ban điều tra thảm họa môi trường. Bản báo cáo của ủy ban công bố vào tháng 5-1963 đã thừa nhận những điều mà Carson đưa ra là đúng. Bà được mời tới Washington để điều trần trước một tiểu ban của Thượng viện Hoa Kỳ đặc trách về thuốc trừ sâu. Mặc dù đang đau đớn vì bệnh ung thư ngực, bà Carson vẫn mạnh mẽ cảnh báo: “Những hành vi vô ý thức và hủy diệt mà chúng ta đối xử với thiên nhiên, theo thời gian sẽ quay lại mang rủi ro đến cho chúng ta”... Có thể nói, “Silent Spring” tạo ra một ảnh hưởng sâu rộng tại Mỹ, làm thay đổi chính sách quốc gia về thuốc trừ sâu và đánh dấu sự bắt đầu của các cuộc vận động bảo vệ môi trường. Tác phẩm cũng là tác nhân quan trọng nhất để chính quyền Mỹ lúc bấy giờ (dưới thời Tổng thống Nixon) thành lập Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ (EPA) vào năm 1970. Năm 1972, Mỹ đã cấm bán thuốc DDT trong nội địa.Rachel Carson được truy tặng Huân chương Tự do của Tổng thống Mỹ. Cho đến nay, người ta vẫn cảm nhận được tính đạo đức nhân văn và tính bức bách trong tác phẩm này. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày “Silent Spring” ra mắt, độc giả trên khắp hành tinh vẫn tìm đọc những cuốn sách của bà. Rachel Carson đã làm cho thế giới nhận ra rằng, con người có trong tay sức mạnh để chấm dứt việc phá hủy hành tinh và hãy chung tay bảo vệ nó. 

Niên Lịch Miền Gió Cát như một sự tổng hòa giữa lịch sử tự nhiên, nghệ thuật miêu tả phong cảnh bằng ngôn từ và cả triết học. Bằng việc ghi chép lại những thay đổi của sinh vật tại khu trang trại ở Wisconsin, Leopold đã khéo léo mô tả vẻ đẹp thiên nhiên, mối liên hệ giữa từng sinh vật với cả hệ sinh thái. Những bài viết này không chỉ thể hiện sự quan sát, khảo cứu và kiến văn của Leopold về địa chất – sinh thái, mà còn thể hiện rõ quan điểm của ông về đạo đức đất đai: Một hành động là đúng đắn khi nó hướng tới việc bảo tồn được tính toàn vẹn, ổn định và vẻ đẹp của cộng đồng sinh vật. Hành động đó là sai nếu không bảo tồn được những điều vừa nói. Năm 1990, Hiệp hội Nghiên cứu Tự nhiên Mỹ đã bầu chọn Niên Lịch Miền Gió Cát cùng với Mùa xuân vắng lặng (Silent Spring) của Rachel Carson là hai cuốn sách đáng trân trọng và đáng chú ý nhất về chủ đề môi trường trong thế kỷ 20. Đã một thế kỷ trôi qua kể từ khi Darwin vén màn bí mật về nguồn gốc muôn loài. Chúng ta giờ đây đã biết những điều mà các thế hệ đi trước không hề hay biết: con người chỉ là những người bạn đồng hành cùng các loài vật khác trong chuyến phiêu lưu tiến hóa. Nhận thức mới này đáng lẽ giờ đây đã phải khiến chúng ta có một tình anh em khăng khít với các sinh vật khác, một mong ước được sống và cùng sống, một tâm thế ngưỡng mộ trước sự đường bệ và chiều dài tiến hóa của cả cộng đồng sinh thể. Và trên hết, sau một thế kỷ, chúng ta đáng lẽ đã phải nhận ra rằng, mặc dù con người giờ đây đã trở thành thuyền trưởng lèo lái con tàu phiêu lưu này nhưng chúng ta không phải là hành khách duy nhất, và những lầm tưởng về vị thế của chúng ta đều bắt nguồn từ sự mông lung ngu muội.

Nước đang biến mất ở miền Tây nước Mỹ. Điều này có liên quan gì đến thức ăn? Đọc lịch sử cổ điển của nước Marc Reisner ở phương Tây và bạn sẽ tìm ra. Sa mạc Cadillac cũng là một lịch sử của hệ thống nông nghiệp hiện đại của chúng ta. Phần lớn trái cây và rau quả tươi của chúng tôi được trồng ở California, ở vùng đất đã và vẫn còn là sa mạc. Đất và khí hậu là lý tưởng cho việc trồng trọt - với một vấn đề nhỏ: không có nước. Nước đã qua nhiều năm qua các hệ thống thủy lợi ngày càng phức tạp, tạo ra giá rẻ cho những người trồng công ty bằng các chương trình chính trị mê cung và những kỳ công đáng kinh ngạc về kỹ thuật. Chúng tôi chỉ lái xe qua Thung Lũng Trung Tâm ở California - 4 giờ đồng hồ và những cánh đồng xanh bằng cây xanh xa như mắt có thể nhìn thấy. Bạn thấy những vùng cây ăn quả rộng lớn, nơi có một sa mạc khô cằn, và những tán lá xanh bao quanh bởi những ngọn núi bụi bặm. Hầu hết các nước mà làm cho điều này có thể được đưa vào, không ngờ, trên núi và qua sa mạc từ hàng trăm dặm. Nguồn cung cấp nước ngầm tự nhiên - được xây dựng trong hàng chục nghìn năm - bị hút khô trong một vài năm nuôi lớn. Trong nhiều năm, nông nghiệp là hỗ trợ kinh tế chính của California, và các chính phủ và các tập đoàn đã đi đến độ dài không thể tưởng tượng để tìm và nhập khẩu nhiều nước hơn để hỗ trợ ngành công nghiệp này. Tuy nhiên, sẽ sớm có ý nghĩa kinh tế hơn đối với những người trồng lớn (một trong những trang trại lớn nhất ở California thuộc sở hữu của Exxon-Mobil) để bán quyền sử dụng nước cho các thành phố để giúp cung cấp nước cho các quần thể đang phát triển. Nhưng nước này, nhớ, đã được chính phủ trợ giá cho các trang trại, bán với giá rẻ cho mục đích tưới tiêu. Họ sẽ quay lại và bán nó với lợi nhuận cho các thành phố. Âm thanh như một hệ thống kỳ lạ, phải không? Điều này là hầu như không chạm vào bề mặt của chính trị, cạnh tranh, và machinations hấp dẫn đã đi vào nước ở phía tây nước Mỹ trong 150 năm qua. Nhưng điều gì sẽ xảy ra với thức ăn của chúng ta, nếu nước của California bắt đầu chảy ngược trở lại thành phố? Một số loại cây trồng có thể di chuyển về phía Nam và đồng bằng sông Mississippi, phù hợp hơn với nông nghiệp so với miền Tây khô. Các loại cây có lợi nhuận cao như hạnh nhân, quả sung và nho có thể sẽ ở lại California. Chúng ta có thể tìm đến Trung Quốc và Mexico để có nhiều thức ăn hơn. Đây là những câu hỏi xuất hiện khi bạn đọc cuốn sách hấp dẫn, hấp dẫn và thú vị này - chắc chắn phải đọc nếu bạn sống ở phương Tây, và vô cùng thú vị với bất kỳ ai trong chúng ta quan tâm đến thức ăn của chúng ta đến từ đâu. Rất khuyến khích.

Ngày 27/9/2018, thế giới kỷ niệm 56 năm ngày ra đời cuốn sách Mùa xuân im lặng (Silent Spring) của tác giả Rachel Carson. Sự ra đời của cuốn sách Mùa xuân im lặng được cho là sự khởi đầu của hoạt động môi trường trên thế giới, đồng thời nó cũng là tác nhân quan trọng nhất để chính quyền Hoa Kỳ lúc bấy giờ (dưới thời Tổng thống Nixon) thành lập ra Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA) vào năm 1970. Đối với nhiều người, Rachel Caron là người hùng môi trường và bà cũng là tiếng nói chính trị cho những người muốn bảo vệ môi trường khỏi các sản phẩm hoá chất diệt côn trùng. Người khiến khoa học gần gũi hơn với công chúng Rachel Carson sinh ngày 27/5/1907, là một người ưa mạo hiểm và giàu trí tưởng tượng. Bắt đầu từ công việc của một nhà sinh thái học đại dương, Rachel đã viết kịch bản cho các chương trình truyền thanh về biển. Bà đã tạo nên bước ngoặt lớn cho chương trình vì các kịch bản giờ đây không phải chỉ là khoa học đơn thuần mà còn giàu chất thơ và đầy rung cảm. Sau đó, Rachel bắt tay vào viết sách về biển cả và bầu khí quyển. Những cuốn sách của bà nhận được sự hoan nghênh lớn của độc giả, có ấn bản best-seller như cuốn Biển xung quanh ta (The Sea Around Us) Ở độ tuổi 50, Rachel bắt đầu quay ra quan sát mặt đất ở quanh mình. Bà nhận ra những điều không hề thú vị: rừng bị chặt đốn trơ trụi, những nhà máy thải chất độc giết hại vô số các dòng sông, những khu đất hoang bị dọn sạch để xây dựng đường xá và công trình. Rachel bàng hoàng nhận ra: “Mọi người đang phá hủy thế giới”. Ảnh hưởng của cuốn sách Mùa xuân im lặng Vào những năm 50, ở nước Mỹ người ta dùng thuốc trừ sâu DDT (Dichloro-diphenyl-trichlorothane) phun trên diện rộng tạo thành những đám mây trong không khí để diệt muỗi và những côn trùng có hại, nhưng nó cũng giết luôn cả các loài côn trùng có ích và chim. Nhiều người cầu cứu Rachel và bà biết phải làm gì. Rachel quyết định viết một cuốn sách về vấn đề này. Khi biết Rachel có kế hoạch viết một cuốn sách về Trái Đất, nhiều người khuyên bà không nên viết về thuốc trừ sâu bởi lý do thật đơn giản: “sẽ chẳng có ai bỏ thời gian ra đọc cuốn sách viết về những cảnh thê lương như thế”. Không nản lòng, Rachel bắt tay vào nghiên cứu về thuốc diệt côn trùng. DDT là thuốc trừ sâu phổ biến nhất vào thời đó. Nó được ưa chuộng vì giúp người sử dụng tiết kiệm được thời gian, tiền bạc và lao động. Những người nông dân, các ông chủ rừng, những người chủ trang trại bò sử dụng khoảng hơn 226 nghìn tấn chất độc này mỗi năm. DDT tiêu diệt côn trùng, sâu bọ và tàn sát luôn cả các loài côn trùng có ích cùng chim, thỏ và mèo. Vốn là nhà sinh vật biển, Rachel đặt ra câu hỏi liệu DDT có ảnh hưởng thế nào tới cá và bà khám phá rằng DDT theo mưa chảy ra sông và giết luôn cả cá. Câu hỏi đặt ra tiếp theo là DDT có ảnh hưởng như thế nào đối với con người khi họ ăn phải thực phẩm đã nhiễm DDT? Rachel biết đây là chủ đề “thê lương buồn thảm” nhưng bà cũng biết “không thể im lặng”. Ban đầu Rachel định đặt tên cuốn sách là “Man against the Earth” (Con người chống lại Trái Đất) nhưng bà nhận ra cái tựa này không hay. Rachel suy nghĩ nhiều về tên của cuốn sách, bà nhận ra ở chương đầu tiên bà đã đặt cho độc giả câu hỏi: “Tại sao chim chóc lại lặng im không cất tiếng hót vào mùa xuân? Cái gì đã làm cho loài chim im lặng?” Vậy nên bà quyết định đặt tên cho cuốn sách là “The Silent Spring”. Không giống như các cuốn sách trước đó với các phản hồi cho Rachel là những lời khen ngợi, “Mùa xuân im lặng” nhận được cả sự chỉ trích, lăng mạ và cả những lời ca ngợi. Những lá thư ngập đầy trước nhà Rachel. Người dân khẩn thiết kêu gọi những nhà khoa học như bà phải làm cái gì đó để ngăn chặn thảm họa gây ra bởi DDT. Trong khi đó, Rachel nhận được sự chỉ trích rất lớn từ các công ty hóa chất sản xuất thuốc trừ cỏ DDT. Ngày 7 tháng 1 năm 1963, Rachel được trao tặng huy chương Scherweitzer của Animal Welfare Institute – phần thưởng dành cho những người đã dành trọn cuộc đời cống hiến cho nhân loại. Ý kiến dư luận quanh cuốn sách của Rachel đã theo các chính khách lọt vào phòng họp trong Nhà trắng. Tổng thống Kennedy cho thành lập một ủy ban điều tra thảm họa môi trường. Rachel gặp gỡ các thành viên của ủy ban vào tháng 1 năm 1963. Bản báo cáo của ủy ban công bố vào tháng 5 đã thừa nhận những điều mà Rachel đưa ra là đúng. Kết quả là Rachel được mời tới Washington để làm chứng trước Thượng viện. Sau đó cuốn sách của bà còn nhận được thêm nhiều phần thưởng khác nữa. Nhưng ở các bữa tiệc mừng hay diễn đàn, giữa những lời chúc tụng, bà luôn cảnh báo công việc mọi người cần làm vẫn chưa kết thúc. Rachel đã làm việc hăng say cho đến lúc nói lời vĩnh biệt vào mùa xuân năm 1964, khi bà chưa kịp lắng nghe tiếng dế chào mùa hè trở lại trong sân nhà. Nhưng đó không phải là vấn đề gì lớn lao bởi “bà đã lắng nghe Trái Đất và nói cho mọi người biết những gì bà thấy.” Công việc của chúng ta vẫn chưa kết thúc… Ngày nay, vẫn có nhiều người cáo buộc Rachel Carson rằng cuốn sách “Mùa xuân im lặng” cảnh báo về DDT đã làm suy yếu chiến dịch chống muỗi truyền ký sinh trùng sốt rét trên khắp thế giới, khiến cho hàng triệu người trên thế giới chết vì bệnh này. Thậm chí, nhân dịp Google nhắc lại kỷ niệm 50 năm ngày mất của bà (1964-2014), Steve Bannon, lúc đó đang là biên tập viên của Breitbart, đã gọi bà là “Kẻ giết người hàng loạt vĩ đại nhất thế kỷ 20”. Trong thực tế, Rachel Carson chưa bao giờ kêu gọi cấm DDT, bà chỉ cảnh báo rằng DDT cần phải được sử dụng một cách an toàn và hiệu quả. Cũng có thông tin cho rằng việc kiểm soát ký sinh trùng bệnh sốt rét kém hiệu quả không phải vì DDT bị cấm, mà bản thân DDT đã không còn có tác dụng trong việc diệt muỗi chứa bệnh sốt rét vì loại ký sinh trùng này đã biến đổi và trở nên kháng thuốc trước DDT. Một thông tin cũng đáng suy ngẫm, đó là nhà hóa học Paul Hermann Müller – người tìm ra công dụng diệt côn trùng mạnh của DDT – đã nhận được giải Nobel năm 1948 vì khám phá này. Khoa học mang đến cho con người những công cụ mạnh mẽ, nhưng rốt cuộc chỉ có thời gian mới trả lời rõ nhất những lợi và hại khi được sử dụng dưới bàn tay của con người. Câu chuyện của DDT đã cho thấy chúng ta cần luôn tỉnh táo và xem xét lại kết luận “mặc định” ban đầu, bởi chúng có thể không chính xác. Câu chuyện về Rachel Carson cũng tương tự như câu chuyện nhìn nhận về thực phẩm biến đổi gen (GMO), những phản đối nói lên tác hại của GMO ban đầu cũng bị chỉ trích dữ dội, nhưng sự việc sẽ dần dần được sáng tỏ và đưa ra ánh sáng. Và ngày nay, độc giả trên khắp hành tinh vẫn tìm đọc những cuốn sách của bà Rachel – nhất là “Mùa xuân im lặng”. Quyển sách đã làm cho chúng ta nhận ra rằng mình có trong tay sức mạnh để chấm dứt những gì đang phá hủy hành tinh này và bắt đầu bảo tồn các nguồn tài nguyên – bởi đó cũng chính là bảo vệ chính chúng ta.

Góc nhìn sâu sắc của Fukuoka là ở chỗ trí tuệ con người là rất không đủ, chúng ta chỉ là không biết đủ - ông chỉ ra để chứng minh sự dốt nát của chúng ta vào năm 1938 thông qua phương pháp "nông nghiệp không làm gì" của ông, đó là một phương thức canh tác mà trong đó câu hỏi đầu tiên đưa ra không phải là cần làm gì mà là "Nếu không làm điều đó thì sao?". Trên thực tế, yêu cầu xảy đến cho việc ngăn chặn con người là khi sự cân bằng tự nhiên của đất đã bị phá vỡ. Đó là khi mà những kĩ thuật nông nghiệp trở nên cần thiết. Sự giả tạo của con người có thể phá hủy đất và để lại những vấn đề dai dẳng cần điều chỉnh. Với Fukouka, hiểu biết về tình trạng và khuôn mẫu của tự nhiên là rất quan trọng. Ông viết: "Tự nhiên không thay đổi, cho dù cách thức nhìn nhận tự nhiên luôn thay đổi từ lúc này tới lúc khác. Bất kể là lúc nào, nông nghiệp tự nhiên tồn tại mãi mãi như là suối nguồn của nông nghiệp”. Không cày cấy, không phân bón hóa học hay phân trộn sẵn, không làm cỏ bằng cách chuẩn bị đất trước hay thuốc diệt cỏ, và không phụ thuộc vào hóa học. Đó là những nguyên tắc của Fukuoka. Làm thế nào mà ông có thể thực hiện được chúng? Ông căn thời gian gieo hạt để từ đó khi những cây tròn hiện tại còn đang chính trên ruộng, chúng có thể nảy mầm trước cỏ dại. Ông bao phủ toàn bộ ruộng của mình bằng rơm ngay sau mùa gặt, và thêm vào đó ít phân gia cầm. Ông kiểm tra và nuôi dưỡng đất bằng cách sử dụng các loại cây che phủ mặt đất như cỏ ba lá, đậu tằm và cỏ linh lăng. "Việc nhìn các thứ biệt lập với tổng thể", theo ông là không đúng. Ông - một người nông dân tự nhiên, chỉ cho chúng tôi các mà từng thứ, từng lựa chọn, đóng vai trò trong việc kết nối tất cả mọi sự sống. Ông nói: "Sử dụng thuốc diệt côn trùng không đơn giản chỉ là vấn đề loại bỏ lá rầy và những kẻ thù tự nhiên của nó. Rât nhiều các yếu tố khác của tự nhiên chịu ảnh hưởng". Cha tôi nhớ cái ngày mà chúng tôi dừng uống sữa của trang trại và bắt đầu ra sửa hàng mua. Tôi đã hỏi ông: "Cái nào ngon hơn, sữa ở nông trại hay sữa mua ở của hàng? "Sữa ở nông trại" - ông đáp Rất bối rối nên tôi hỏi: "Vậy tại sao chúng ta lại mua sữa ở của hàng?". Ông trả lời tôi rằng "Đây là thời điểm. Mọi người đều đã chuyển sang sản xuất sản phẩm từ sữa với lượng rất lớn. Chúng ta không thể cạnh tranh được nữa". Tôi bối rối và cho tới giờ vẫn vậy: tại sao chúng ta lại có quá ít người dám thách thức những kỹ thuật nông nghiệp công nghiệp hóa? Fukuoka chống sự chuyển dịch sang nền nông nghiệp công nghiệp hóa và ông tìm được cách bước tiếp. Đóng góp của ông nằm ở câu hỏi đầy khác biệt và mạnh mẽ: "Nếu không làm điều đó thì sao?". Và trang trại của ông là minh chứng rằng, chỉ với một cọng rơm, chúng ta có thể kháng cự lại nền nông nghiệp công nghiệp hóa.

Sự khủng hoảng của nông nghiệp, cũng như sự khủng hoảng của một cá nhân, bắt nguồn từ việc chúng ta có quá nhiều tham vọng và mong muốn điều khiển mọi thứ phục vụ tham vọng ấy. Và cốt lõi của sự “vô canh” trong nông nghiệp, cũng như sự tồn tại của cá nhân, chính là việc hiểu được giá trị và vị trí của mọi điều tồn tại trong thế giới và hiểu đâu chính là sự “đủ” của mình. Sự thay đổi nhân sinh quan của một cá nhân có thể bắt đầu ngay từ việc chúng ta ăn, bằng việc ta không cố tạo ra sự “ngon” mà nhận biết cái ngon trong mọi thực phẩm. Cũng như vậy, sự thay đổi trong nông nghiệp hay cách loài người tồn tại không bắt đầu từ những thứ vĩ mô to lớn, mà bắt đầu từ việc chúng ta nhận ra sức mạnh của một cọng rơm, của một cá thể bé nhỏ. Và bởi như vậy, Cuộc cách mạng một cọng rơm có thể trở thành một cuốn sách gối đầu giường của nhiều người. Cuốn sách sẽ cho bạn hiểu như thế nào là sự bình yên, sự an toàn thực sự khi bạn là một con người. Nhưng cũng đừng hi vọng rằng đây là cuốn cẩm nang giúp bạn tạo ra một chiếc bánh kem mang tên hạnh phúc. Vì như Fukuoka đã nói: “Tự nhiên không bao giờ có thể được thấu hiểu hoặc cải tạo nhờ vào nỗ lực của con người. Cuối cùng thì, để hòa làm một với thượng đế, người ta không thể giúp người khác, ngay cả nhận sự giúp đỡ từ họ cũng không. Chúng ta chỉ có thể tự mình đi con đường của mình”.

Không giống như các cuốn sách trước đó với các phản hồi cho Rachel là những lời khen ngợi, “Mùa xuân im lặng” nhận được cả sự chỉ trích, lăng mạ và cả những lời ca ngợi. Những lá thư ngập đầy trước nhà Rachel. Người dân khẩn thiết kêu gọi những nhà khoa học như bà phải làm cái gì đó để ngăn chặn thảm họa gây ra bởi DDT. Trong khi đó, Rachel nhận được sự chỉ trích rất lớn từ các công ty hóa chất sản xuất thuốc trừ cỏ DDT. Ngày 7 tháng 1 năm 1963, Rachel được trao tặng huy chương Scherweitzer của Animal Welfare Institute – phần thưởng dành cho những người đã dành trọn cuộc đời cống hiến cho nhân loại. Ý kiến dư luận quanh cuốn sách của Rachel đã theo các chính khách lọt vào phòng họp trong Nhà trắng. Tổng thống Kennedy cho thành lập một ủy ban điều tra thảm họa môi trường. Rachel gặp gỡ các thành viên của ủy ban vào tháng 1 năm 1963. Bản báo cáo của ủy ban công bố vào tháng 5 đã thừa nhận những điều mà Rachel đưa ra là đúng. Kết quả là Rachel được mời tới Washington để làm chứng trước Thượng viện. Và ngày nay, độc giả trên khắp hành tinh vẫn tìm đọc những cuốn sách của bà Rachel – nhất là “Mùa xuân im lặng”. Quyển sách đã làm cho chúng ta nhận ra rằng mình có trong tay sức mạnh để chấm dứt những gì đang phá hủy hành tinh này và bắt đầu bảo tồn các nguồn tài nguyên – bởi đó cũng chính là bảo vệ chính chúng ta.