Hiếm có nhà văn đương đại nào mà tác phẩm luôn được chờ đợi, được săn đón như Murakami.

Văn chương của ông luôn tỏa ra một sức hút vô cùng mãnh liệt, khiến mỗi người khi bước vào đều khó lòng cưỡng lại được.

Những trang văn đậm đặc không khí cá nhân

Murakami vốn là một người có tính cá nhân rất mạnh, và ông luôn ý thức được việc tạo dựng cho riêng bản thân mình một không gian ghi đậm dấu ấn cá nhân. Ông từng tâm sự rằng:

Tôi là đứa trẻ duy nhất trong gia đình và tôi đã tự tạo cho tôi một thế giới riêng biệt.

Khi bắt đầu bước vào thế giới văn chương, ông cũng luôn tâm niệm ý thức này khi sáng tác. Có lẽ vì vậy mà những trang văn của ông luôn thể hiện không khí cá nhân một cách quyết liệt và mạnh mẽ.

Bắt đầu từ khi Rừng Nauy xuất hiện ở Việt Nam, Murakami đã ngay lập tức trở thành một hiện tượng. Hầu như người trẻ nào cũng đã ít nhất một lần tìm đọc cuốn sách này.

Rừng Nauy là một trong những cuốn sách “đơn giản” nhất của Murakami. Ngay từ đầu khi bắt tay vào viết cuốn sách, ông đã xác định sẽ viết theo phong cách hiện thực. Rừng Nauy ra đời, với những nhân vật chân thực, câu chuyện chân thực, nhưng lại tạo nên một bầu không khí sầu muộn như hư ảo, mà sau này, tôi đã bắt gặp hầu hết trong các tác phẩm khác của ông.

Những nhân vật trong tác phẩm của Murakami đều là những người trẻ khuyết thiếu, “thất lạc” trong một cõi người đầy nhộn nhạo. Họ cảm thấy khó khăn trong việc bước ra khỏi đời sống, vì thế họ cứ thu mình lại trong thế giới nhỏ bé cô độc của riêng mình.

Trong Rừng Nauy, Murakami để những người trẻ tuổi trốn vào những nơi chốn hiu quạnh gần như không bóng người. Chàng trai Kafka 15 tuổi trong Kafka bên bờ biển được người bạn đưa đến một căn lều bên bờ biển, nơi không có điện, không có nhà vệ sinh, mất hoàn toàn liên lạc với thế giới bên ngoài, bên cạnh là rừng thẳm. Cả hai nhân vật chính của 1Q84 là Tengo và Aomame đều sống lặng lẽ trong không gian riêng của mình, rất ít gặp gỡ và giao tiếp, quen với việc hàng ngày trời không liên lạc với thế giới bên ngoài. Hay người đàn ông bị vợ bỏ rơi trong Biên niên ký chim vặn dây cót, trốn xuống đáy giếng, vượt qua nỗi sợ gai người khi trèo xuống lòng giếng sâu hun hút và tối đen như mực để tìm kiếm một nơi thực sự tĩnh lặng, ngồi và nhìn thấu tâm can mình.


Nhưng khi ở trong những cảnh huống biệt lập ấy, những người trẻ của Murakami luôn có khả năng bắt được sự sống trong thế giới riêng của họ, với những điều họ thích, mà nhiều khi không cần chia sẻ với thế giới. Đây là điều khá tương đồng với tác giả như chính Murakami đã từng chia sẻ:

Tôi biết mình thích những gì. Tôi thích đọc sách. Tôi thích nghe nhạc. Và tôi thích mèo. Ba điều đó. Vậy nên, mặc dù là con một, hồi còn nhỏ tôi vẫn cảm thấy hạnh phúc bởi vì tôi biết mình thích những gì. Ba điều ấy không hề thay đổi kể từ khi tôi còn nhỏ. Giờ đây tôi vẫn biết mình thích những gì. Cái đó chính là lòng tin. Nếu không biết những gì mình thích, ta sẽ lạc lối.

Ấy là những thế giới đặc biệt cá nhân. Thế giới hình thành nên nét độc đáo của mỗi còn người giữa muôn vàn người khác. Thế giới ấy vừa kêu gọi, vừa bồi đắp ý thức cho những người trẻ tuổi. Họ bị cuốn vào thế giới riêng, với những sở thích, u buồn riêng biệt. Họ đọc sách, nghe nhạc, đi bộ, hay trò chuyện với mèo… và họ được là chính mình. Phải chăng chính vẻ đẹp tuyệt vời của việc cô độc ấy đã gợi nên một nét đặc biệt trong các sáng tác của Murakami. Khiến chúng không trở thành những vết sầu tuyệt vọng, đáng thương, mà trở nên đẹp đẽ, lộng lẫy.

Và người đọc khi gieo mình vào thế giới của Murakami là để được chiêm ngưỡng sự quyến rũ đặc biệt của nỗi cô độc, mà ở đó mỗi người đều là một cá thể độc lập, có ý thức riêng biệt, và có thể thấu suốt được tận cùng tâm hồn của mình. Nên cô độc thực chất cũng là một trạng thái tuyệt vời.


Văn chương lôi cuốn bởi một trí tưởng tượng vô tận

Những người đọc Murakami, dù ít hay nhiều cũng phải thốt lên thán phục trí tưởng tượng vô tận của ông.


Không ai đọc tác phẩm của ông mà quên được những bối cảnh vô cùng kỳ lạ, những nhân vật có một không hai và không trăn trở về những thông điệp đan cài khéo léo trong đó. Những tiểu thuyết tuyệt diệu của Haruki Murakami là tiêu biểu cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của phương Đông với đầy rẫy bí ẩn.

 

Nếu bạn từng đọc Haruki Murakami bạn sẽ thấp thỏm chờ mong tác phẩm kế tiếp dù chỉ là một truyện ngắn, để được bước vào những khoảng không – thời gian khiến bạn ngơ ngẩn vì lạ lẫm, vì bí ẩn và quyến rũ.

Murakami là một người viết thông minh và khiêm nhường. Ông đủ thông minh để chọn một lối viết dễ theo dõi, khiến độc giả của ông không bao giờ bị thất lạc trong thế giới mà ông tạo nên. Dù thế giới ấy là một thế giới đầy hoang mang cô độc như trong Rừng Nauy, hay thế giới đầy mê hoặc mụ mị của Người tình Spunik, thế giới của những cuộc hành hương trôi dạt trong Tazaki Tsukuru không màu,… thì Murakami cũng luôn tạo ra được những vùng không gian hư ảo, không phân biệt được đâu là hiện thực, đâu là mơ tưởng.

Ở tiểu thuyết Kafka bên bờ biển, nhà văn đã tạo nên hai cuộc phiêu lưu của một thiếu niên 15 tuổi bỏ nhà ra đi và một ông lão biết nói chuyện với mèo cũng lên đường đi tìm “một nửa cái bóng” đã mất của mình. Mỗi người một mục đích nhưng giữa họ như hình ảnh phản chiếu cho nhau, có một mối liên hệ bí mật nào đó, với những cuộc gặp gỡ định mệnh thay đổi cuộc đời của cả hai vĩnh viễn.


Trong khi đó ở 1Q84, Murakami đã tưởng tượng ra một khoảng không gian ở hai chiều thời gian song song với nhau. Thế giới năm 1984 và một thế giới không biết tên là bản sao của nó tạm gọi là 1Q84. Là bản sao nhưng hai thế giới có những điều hoàn toàn khác biệt, làm hai nhân vật chính – những người đang sống ở những năm 1984 tình cờ rơi vào chiều thời gian kỳ quặc 1Q84 vô cùng bối rối, nhưng sau đó họ đã vượt lên và tự chèo lái con thuyền số phận của mình. Câu chuyện cũng tồn tại hai mạch kể song song, tượng trưng cho quá trình không ngừng tìm kiếm nhau của Tengo và Aomame với những ám ảnh không ngớt về thế giới hai mặt trăng và thành phố mèo bí ẩn.

Những thế giới kì lạ, ẩn giấu nhiều bí ẩn luôn khiến người đọc háo hức khám phá. Hơn nữa, dù viết theo lối siêu thực, luôn ngôn từ trong văn chương của Murakami bao giờ cũng rõ ràng, giản dị, và mạch lạc, như chính ông chia sẻ khi được phỏng vấn:

Tôi có một vài hình ảnh, và tôi kết nối mảnh này với mảnh khác. Đó là cốt truyện. Sau đó tôi giải thích cốt truyện với người đọc. Người ta nên tử tế khi giải thích thứ gì đó. Tôi biết, nghe có vẻ hơi ngạo mạn. Những từ ngữ, những ẩn dụ hay, những biểu tượng đẹp… tôi giải thích chúng rất cẩn thận và rõ ràng.

Văn của ông vừa tràn trề trí tưởng tượng, khiến người đọc luôn ở trong trạng thái ngạc nhiên, lại vừa vô cùng gần gũi, khiến độc giả cảm giác có thể bước vào một cuộc hành trình, dõi theo cuộc hành trình ấy và từ cuộc hành trình ấy mà được chia sẻ, giãi bày, dù có đôi lúc ta không bao giờ biết phía trước ta có gì, và thực sự lý do mọi điều đang diễn ra là gì. Ta cứ đi mãi vào thế giới của Murakami mà đắm chìm thôi.

Nguồn : vnwriter.net

----------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn

Tham gia Bookademy Team để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị, đăng ký CTV tại link: https://goo.gl/forms/7pGl3eYeudJ3jXIE3

 

Xem thêm

Qua những trang văn giàu chất tự truyện về sở thích chạy bộ của mình trong tác phẩm “Tôi nói gì khi nói về chạy bộ”, Murakami đã đưa độc giả hòa quyện vào thứ văn chương quyến rũ lôi cuốn giàu trí tưởng tượng vô hạn của ông và điểm khuyết đâu đó triết lí nhân sinh giản dị mê hoặc mà bất cứ một người nào đam mê lối sống cống hiến mà nguyên tắc đều muốn nắm bắt và gìn giữ lấy. Cả sự nghiệp văn chương và con đường chạy bộ Murakami đều không có chủ đích làm từ trước nhưng đều rất thành công như thể đây là sứ mệnh Thượng Đế ban cho ông vậy. Cuốn sách chỉ đơn thuần là tự truyện của Murakami về việc chạy bộ, đâu đó đan xen những suy nghĩ đối với việc viết văn và sáng tạo nghệ thuật. Thế nhưng, Murakami đã rất tài tình khi có thể gắn kết những thứ thuần nghệ thuật như sáng tác văn chương với những điều giản dị đơn sơ đời thường như chạy bộ. “Murakami không đưa vào cuốn sách này nhiều chi tiết liên quan đến đời viết văn của ông, song đôi điều ông nói đến cũng đã là quý báu đối với những ai muốn hiểu rõ về sự nghiệp lâu bền và nhiều thành quả của nhà văn kiệt xuất này” – Publisher Weekly. Murakami đã đặt tên cho cuốn sách của mình theo cảm hứng của tác phẩm “Mình nói gì khi nói về chuyện tình” (What we talk about when we talk about love) của Raymond Carver. Từ đó cũng có thể thấy việc chạy bộ đối với ông là một tình yêu mãnh liệt và dai dẳng. Cuốn sách thể hiện nhiều mặt trong cuộc sống của Haruki Murakami – cuộc sống của một nhà văn và cũng của một nhà chạy bộ thứ thiệt.Nó truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều ở việc bắt đầu những thói quen và sở thích mình trì hoãn từ lâu. Murakami viết rằng “Tôi luôn làm bất cứ thứ gì mình cảm thấy thích làm trong đời”. Tôi thích Murakami vì ông có nét gì đó gần gũi với mình: thích mèo, thích chạy bộ và thích âm nhạc dù rằng chạy bộ đối với tôi còn là một hành trình dài để kết thúc. Bắt đầu từ những buổi chạy bộ vào sáng sớm cuối tuần tại Hồ Tây cũng là một khởi đầu không tồi.

Đây là cuốn sách thứ 6 của Murakami mà tôi đọc cũng là cuốn sách duy nhất của ông tôi chỉ mất có 2 tuần để đọc xong. . Nhớ lần đọc Rừng Na Uy (Noruwei no mori) nhiều năm trước, tôi mất 3 tháng mới nuốt hết 533 trang sách và đọc lại tới 4 lần để hiểu thêm những điều mà mình thắc mắc. Với Phía Nam biên giới, phía tây mặt trời (South of the border, East of the Sun) thì khác. Cả quyển sách là một câu chuyện mạch lạc trải dài từ quá khứ năm 1973 tới hiện tại - những năm cuối của thế kỷ 20 xoay quanh cuộc đời của Hajime. . Chàng trai đầy nhạy cảm ấy lớn lên cùng với những mâu thuẫn nội tâm dữ dội. Chàng ôm trong mình những rung động đầu đời với Shimamoto để rồi suốt thời thanh niên, trong những cuộc tình chóng vánh với đủ loại cô gái - chủ yếu là vì tình dục - Hajime càng ngày càng thấy cô độc. Có một lỗ trống lớn trong tâm hồn chàng - những tiếc nuối về Shimamoto - nỗi ân hận sâu sắc với Izumi... không thể lấp đầy. Rồi chàng kết hôn với Yukiko và có một gia đình yên ấm, chủ sở hữu 2 Jazz club nổi tiếng tại Tokyo, 2 con gái ngoan... Cuộc sống thật bình yên cho đến một ngày Shimamoto xuất hiện đầy bí ẩn làm xáo động con tim nhạy cảm của Hajime lúc này đã gần 40 tuổi... . Nhưng Phía nam biên giới phía tây mặt trời không chỉ có thế. Bởi vì cốt truyện không bao giờ là điều hấp dẫn duy nhất trong sách của Murakami. Đọc truyện của ông sẽ thấy được bức tranh nước Nhật và nội tâm con người Nhật Bản trong suốt sau thập niên 80 - thời kỳ nước Nhật thật sự tư bản hoá. Sự chuyển động của con người và phố xá thay đổi theo nhịp thở của tiết trời. Những góc nhỏ Tokyo nơi người ta tìm đến tình dục để khoả lấp nỗi cô đơn. Ở đâu đó trong những không gian đặc quánh suy tư, người ta đắm tìm trong Jazz như một cách để thoả mãn khao khát tự do... . Đặc biệt nhất trong Phía nam biên giới phía tây mặt trời nói riêng và Murakami nói chung là các triết lý nội tâm được diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ mạch lạc hiếm thấy. “Thế giới của chúng ta giống như thế. Khi trời mưa hoa nở và khi trời không mưa hoa héo. Bọn thằn lằn ăn côn trùng và bị bọn chim ăn thịt. Nhưng tất cả rồi sẽ chết đi, khô teo đi. Một thế hệ biến mất, một thế hệ khác thế chỗ. Có nhiều cách sống và nhiều cách chết. Điều đó không quan trọng. Thứ duy nhất còn lại chính là sa mạc". . Phía nam biên giới - south of the border mà Nat King Cole hát thật ra chẳng có gì tuyệt diệu, đó chẳng qua chỉ là Mexico mà thôi. Còn phía tây mặt trời - East of the Sun thì có gì? Hoàn toàn không có gì cả, chỉ là đường chân trời mà thôi. Mỗi sáng khi mặt trời hiện ra phía trên đường chân trời phía Đông, ta ra đồng làm việc. khi mặt trời lên đến đỉnh, ta nghỉ ăn trưa và khi mặt trời biến mất sau đường chân trời phía Tây, ta về nhà ngủ. Đông Tây Nam Bắc đều là đường chân trời, nếu cố gắng tìm kiếm điều gì ở đó, ta cứ đi mãi đi mãi và chết. Ai cũng có quá khứ, quá khứ tội lỗi mang bộ mặt lạnh lùng đáng sợ trong lương tâm, quá khứ hạnh phúc lại phủ lên lớp sương đẹp lãng mạn bay bổng lạ thường. Nhưng dù gì, quá khứ cũng đã qua đi, ta sống với hiện tại. Muốn yên vui, ta sẽ tha thứ cho chính mình và quét đi màn sương ảo tưởng màu hồng với những khát khao của quá khứ. . Đừng quá hoang mang với những điều bí ẩn trong cốt truyện, đừng cố phân định rạch ròi giữa thực và hư, chân thành và giả tạo, quy tắc và ngoại lệ... bởi đó mới là Murakami. Cũng giống như những bản nhạc Jazz biến tấu ngẫu hứng trên nền những bản nhạc cũ, đó chính là cái để lại dư vị lâu nhất cho người đọc. . Nếu bắt đầu đọc Haruki Murakami, hãy bắt đầu với Phía nam biên giới phía tây mặt trời. Đừng dại dột đọc ngay Rừng Nauy, nếu bạn không muốn bị “tẩu hoả nhập ma".

Một chiều chủ nhật đẹp trời. Tôi không ra ngoài mà ngồi ở nhà nhâm nhi nốt những khoảnh khắc cuối cùng của kì nghỉ lễ. Hai tuần nghỉ lễ diễn ra không tệ. Và một trong những điều tạo nên cảm hứng cho tôi là đã hoàn thành cuốn “Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời”. Tôi gọi ngày hôm nay là một ngày chủ nhật hứng khởi. Trong cuộc đời, hiếm có nhiều những ngày thế này trong một năm. Thế nên tôi khởi động máy tính. Và viết. . Tôi không thường xuyên viết review về sách. Giờ thì tiếng Việt của tôi thật tệ, tôi không biết có từ nào trong tiếng Việt chỉ hoàn hảo ngữ nghĩa của từ review hay không. Bài cảm nhận? Bình phẩm? Bản thân tôi không thích những từ đó, vì chúng mang tính đánh giá và hợm hĩnh quá cao. Như thể đứng lên đầu tác phẩm nghệ thuật mà xét nét đủ kiểu. Tôi chỉ muốn một từ giản dị và thẳng thắn, như review. Có lẽ từ trước tới giờ tôi chỉ viết 3 lần review về sách trong đời. Một lần là về thơ Tố Hữu (vâng, và bạn có quyền cười ạ), một lần về “Cuốn theo chiều gió”, và lúc này đây. Thực ra cũng có một lần tôi định viết về Nguyễn Ngọc Tư, nhưng chỉ được đúng 1 câu. Rồi mãi mãi không viết tiếp được nữa. Ý tôi là mãi mãi, cho tới thời điểm này. Phải nói thêm, tôi đang viết bài bằng máy tính xách tay cá nhân. Sở dĩ tôi nhấn mạnh điều này là bởi một khi tôi đã dùng đến máy tính, chứ không phải điện thoại di động, thì hẳn đó là việc hết sức nghiêm túc! Tôi từng viết những bài dài thật dài và lưu một đống trong điện thoại cầm tay. Nhưng chỉ những khi tôi thực sự viết trôi chảy, chạy không kịp với cảm xúc thì tôi mới dùng đến máy tính. Hoặc khi làm luận văn hay đồ án (những việc này dĩ nhiên không thú vị bằng, nhưng cần sự nghiêm túc tương đương). . Nếu như bạn từng đọc Haruki (hoặc Murakami, tôi không biết bạn gọi thế nào, và không muốn bị coi là không tôn trọng ông), thì hẳn nhận ra giọng văn tôi đang viết cũng mang hơi hướng văn phong của ông. Tôi có cái tật bị tiêm nhiễm rất nhanh. Chẳng hạn nếu bạn tình cờ gặp tôi trên đường và chúng ta nói chuyện với nhau, chỉ cần ở bạn có một cử chỉ hay cách nói nào khiến tôi thấy hay ho, tôi sẽ học theo cái hay của bạn ngay được. Nhiều khi tôi nghĩ cũng vì thế mà tôi nhái giọng khéo và có thể bắt chước ngữ âm các tiếng nước ngoài. Tương tự, trong văn viết, khi tôi hoàn toàn nhập tâm vào một lối hành văn nào, tôi cũng dễ dàng viết nên bằng một lối diễn đạt tương tự. Thế nên tôi không bao giờ tự nhận mình là nhà văn. Vì theo tôi đã là nhà văn thì phải có phong cách. Mà tôi thì không mang một phong cách cố định nào thuộc riêng về tôi cả. Dù thế, tôi vẫn trọng cái nghiệp văn như cái cách mà Nguyễn Tuân khắt khe ấn định vào nó. Tôi chưa từng nghĩ, mình sẽ viết review về Haruki theo cái cách mà ông viết văn đấy. Tất nhiên là cho đến lúc tôi đặt tay lên bàn phím của mình. Chà, càng viết tôi càng yêu sao cái lối tự sự rất phóng túng và đầy ngẫu hứng của ông. Như đang dốc dần tâm can ra mà viết. Ở ông, những triết lý vừa có một tầng nghĩa sâu xa nhất định, lại vừa có một giãi bày mộc mạc gần gụi lạ thường. Có lẽ nếu không phải Haruki Murakami, không ai khác có thể kể chuyện nhiệt thành đến thế. . Bạn biết không, trước khi đọc “Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời”, tôi chưa từng tự nhận mình yêu thích Haruki. Có chăng, tôi chỉ thấy khâm phục ông vì đã để lại ấn tượng sâu sắc cho tôi về những lỗ đen toang hoác trên cánh đồng, về triết lý tình yêu vứt đi cái bánh dâu của cô bạn Midori, hay cảnh mắc kẹt rùng rợn trên chiếc đu quay khổng lồ… Những phân cảnh đại loại thế. Nhưng cho đến “Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời”, tôi biết rằng đó không gì khác là niềm yêu mến tôi đã dành trọn cho ông. Tôi không mê văn chương của ông ngay từ cái nhìn đầu tiên, như cái lực hút vô hình mãnh liệt mà ông miêu tả. Nói thực ra, tôi không mấy tin về cái lực hút ấy trên đời. Vì tôi tin hơn vào những sự gắn kết bền chặt và dài lâu, mà con người ta cố sức gây dựng và gìn giữ ngày này qua tháng khác. Thế nên tình yêu của tôi với văn Haruki cũng đến rất từ tốn. Đủ thời gian. Đủ trải nghiệm. Và tôi đủ rung động vì những câu chuyện đầy bí ẩn ông xâu kết. Đến lúc đó tôi mới dõng dạc công nhận rằng, tôi yêu Haruki Murakami biết bao. . Tôi chưa đọc toàn bộ sách của Haruki. Nhưng với tôi, “Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời” là cuốn sách bạn cần phải đọc, nếu đã quyết định đọc sách của ông. Không phải là “Rừng Na-uy” làm mưa làm gió đâu. Tôi chưa từng thấy một cuộc quảng bá nào rầm rộ cho cuốn sách này (như thời “1Q84” chẳng hạn), hoặc dân chúng đồn thổi ghê gớm (trường hợp “Rừng Na-uy”, thậm chí còn chuyển thể thành phim). “Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời” giản dị thôi. Nhưng một khi đã đọc được, nó sẽ là một tiếng vang thật lớn thét qua màng nhĩ, qua nội tâm, qua cả những nỗi sợ hãi hay niềm đam mê đánh mất từ sâu trong quá khứ của bạn. Có thể nói rằng, nếu không đọc cuốn sách này, chắc tôi sẽ chẳng cho rằng mình yêu thích Haruki Murakami. Có lẽ đó là cái duyên giữa tôi và văn chương của ông vậy đó. . Này nhé, cho tôi hỏi một câu tế nhị chút đỉnh (nhất là nếu bạn là một cô gái): Năm nay, bạn bao nhiêu tuổi ? Ồ, bạn không cần phải trả lời tôi đâu. Bạn có thể trả lời nhẩm ở trong đầu. Và tôi xin cám ơn bạn vì câu trả lời ấy. Thực ra tôi chỉ muốn nhắc cho bạn rằng, đã từng đó năm bạn tồn tại trên đời. Thế rồi, tôi sẽ nói với bạn một câu của Phan Ý Yên mà tôi rất thích, đã nhắc đi nhắc lại không biết đến bao nhiêu lần: “Những cô gái hai mươi tuổi lần thứ năm, / Quên mất cách đánh vần chữ đam mê”. Xin hãy giơ tay nếu như bạn từng có một đam mê nào cháy bỏng và đã lãng quên mất nó ? Vâng, tất nhiên, bạn có thể giơ tay trong tưởng tượng. Nhưng nếu như bạn trả lời có, tôi tin là bạn sẽ thấu hiểu “Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời”. Bạn có thể sống sung túc, no đủ, có gia đình ở bên, có người thương yêu, có thể làm những gì mình muốn. Thế nhưng bạn vẫn cảm thấy thiếu một thứ động lực mãnh liệt như thời còn trẻ (hay một thời xưa cũ), vẫn có một người bạn vẫn luôn nhớ về, vẫn luôn có một niềm ao ước cháy bỏng. Bạn có tin không? Bạn đang nhập vào vai chính của cuốn tiểu thuyết này rồi đấy. . Có một thay đổi nho nhỏ từ khi tôi tìm được một nửa với thời tôi vẫn để mình tự do. Đó là trước kia tôi có thể thấu hiểu và cảm thông cho những con người đến sau mà duyên số không ưu ái (dù thế, tôi vẫn không chấp nhận chuyện họ xen vào giữa hai người đang yêu). Tôi có thể cảm thấy người thứ ba này đáng thương, và vẫn có thể có một cảm tình nhất định. Nhưng từ khi tôi có một mối quan hệ nghiêm túc (mà dù sao thì tôi cũng chưa bao giờ có một mối quan hệ nào bỡn cợt cả), thì tôi luôn coi trọng những con người chính thức và không dung thứ cho những lối rung động “cửa sau”. Rõ ràng tôi đã bớt rộng lượng hơn, và nghiêm khắc hơn nhiều với tình cảm lứa đôi. Nhưng tôi cũng không thấy mình tệ hại vì chuyện ấy. Thế nên từ khi nhân vật chính lấy vợ, tôi không còn cảm tình với cô bạn thuở bé, Shimamoto-san nữa. (Nhân tiện, rất cám ơn bạn dịch giả đã dịch câu chuyện này cho chúng tôi được đọc, thế nhưng tôi không hiểu vì lý do gì bạn ấy cứ giữ nguyên cụm từ Shimamoto-san mà không để Shimamoto không thôi, như lối người Việt vẫn hay gọi tên nhau ấy. Cách gọi này khiến cho tôi có thiên hướng cho rằng Shimamoto-san mới là tên của nhân vật, chứ không phải Shimamoto, dù tôi hiểu rõ điều đó không đúng. Và điều này khiến tôi thấy hết sức phiền hà). Tôi hiểu rằng con người ta ai cũng có những khát khao và mong muốn có được nó đến cháy bỏng. Nhưng tôi hoàn toàn không phải là dạng người từ bỏ những thứ mình gầy dựng, chà đạp lên nỗi đau người khác (dù đó là điều không thể khác được) để theo đuổi khát vọng đó. Vâng, tôi có xu hướng để mình chịu đựng nhiều hơn người khác chịu đựng. Đối với tôi, đó là một phong cách sống đúng với đạo lý của cuộc đời mình, như một thứ tôn giáo. Con người ta sẽ không thấy đau đớn khi hành động vì thứ mình tin. Và dù hơi buồn, vì tôi dùng lối suy nghĩ cổ hủ ấy áp đặt lên những nhân vật của Haruki, nhưng tôi nghĩ rằng phần nào, tác giả đồng ý với tôi. . Đoạn cuối câu chuyện làm tim tôi suýt nữa nghẹt thở. Lại một câu chuyện mất tích lạ lùng. Tôi nhận ra, ở Haruki Murakami, sự tồn tại chỉ mang tính tương đối. Đó hẳn là biệt tài của ông. Duy nhất chỉ ông mới có được. Biến thứ có thật trở nên không và ngược lại. Những rối ren phức tạp làm con người ta chao đảo, chuếnh choáng. Nhưng rồi mới khiến ta nhận rõ ra, thứ gì mà ta đang thực sự có bên mình. Những câu chuyện kì ảo và bí ẩn của Haruki luôn thiếu lời giải thích. Ban đầu đọc những cuốn sách khác tôi luôn khó chịu, bứt rứt về sự không rõ ràng này. Nhưng rồi dần dần, tôi hiểu cái ý nghĩa mà ông muốn truyền tải. Tôi cũng dần mường tượng ra con người ngoài đời của ông qua những câu chuyện kì thú ấy : một người đàn ông ít nói, thẳng thắn đến mãnh liệt, và không khi nào giải thích. Như thể một cái nhún vai rất đỗi bình thường mà đầy ý nhị. Và tôi nhận ra, cái cử chỉ kín đáo đó của ông thật quá sức tuyệt vời! . Nếu nói về nhân vật yêu thích của câu chuyện, tôi chắc chắn sẽ chọn người vợ Yukiko. Cô ấy có cái lối điềm tĩnh và thành thật mà tôi quý trọng vô cùng. Tôi thật đã suýt khóc và đọc đi đọc lại lời cô nói với chồng khi phanh phui mối quan hệ mờ ám: “Em không muốn nghe gì từ người phụ nữ đó. Anh đừng làm cho hoàn cảnh của em trở nên nặng nề hơn nữa. Em không thèm quan tâm đến kiểu quan hệ mà anh có với cô ta, những gì hai người đã làm với nhau. Điều quan trọng với em là anh có ý định bỏ em hay không. Em không muốn gì hết, nhà và tiền đều không. Nếu anh muốn có lũ trẻ, em cũng sẽ để chúng cho anh nuôi. Thật đấy, em hết sức nghiêm túc. Thế nên, nếu anh muốn bỏ em, chỉ cần nói với em ‘anh bỏ em’. Đó là tất cả những gì quan trọng với em”. Chỉ thế thôi, và thêm câu nói: “Em không chết. Bởi vì em nghĩ nếu anh có ý định quay lại, em sẽ ở đây chào đón anh”. Tôi chỉ có thể nói rằng, cô là một người vợ đúng nghĩa tuyệt vời ! . Tôi thầm cám ơn tác giả vì “Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời” không hề có một cuộc tự vẫn nào. Dù ít nhiều cũng có lúc nó thoáng mang mùi chết chóc. Có vẻ như ở Nhật vấn đề tự tử, nhất là ở những người trẻ tuổi, là một mối quan tâm to đùng. Chín trên mười tác phẩm Nhật Bản tôi đọc thì các tác gia đều viết trong đó những câu chuyện bao gồm một (hay nhiều) cái chết, những ham muốn muốn chết đến ám ảnh, mùi vị tang thương lởn vởn không thể bay hơi. Nhưng rồi cuốn tiểu thuyết mà tôi yêu thích đây thì thuộc số phần trăm ít ỏi còn lại khác biệt, may làm sao! . Câu chuyện dài là cả một chuyến phiêu lưu. Một chuyến đi xa, vượt quá những hạn mức gò bó, những sợ hãi không tên. Những tưởng sẽ là một cuộc vượt ngục ngoạn mục dù cái giá phải trả không hề rẻ. Thế nhưng rồi nó lại là một bước dừng chân không ngờ. Nhẹ nhàng và ám ảnh. Ngã gục xuống bàn và chờ ai đó đặt tay lên bờ vai…

Thật sự cảm xúc của mình sau khi đọc xong cuốn này là, có cái gì đó nghẹn ứ ở cổ và không thở được, nhiều câu hỏi quẩn quanh khiến mình đọc xong phải lên tìm lại tất cả review đọc cho tường tận, và đến giờ vẫn là một dấu hỏi mù mờ, không thể nào hiểu hết được những tầng nghĩa sâu xa mà tác giả gửi gắm nhưng những gì đọng lại thì thật sự đẹp-mịn-màng. Một cuốn sách đối với mình là dịu dạng đến từng câu chữ, không hề khó đoc mà cảm xúc của nó mang lại lại sâu sắc và không hề dễ dãi chút nào. Miêu tả tâm lí nhân vật, đi sâu vào từng ngóc ngách sâu kín nhất của nội tâm nhân vật chính, mình bất giác giật mình, cảm giác này mình đã gặp ở đâu đó, hình như là nhân vật trong Nhà giả kim, hai nhân vật, hai hoàn cảnh khác nhau mà lại giống nhau đến lạ kì: bản thân vẫn cố kiếm tìm mảnh ghép còn thiếu sót , một mảnh ghép hoàn hảo, vừa khít đủ đầy trái tim mình, dù đã có một cuộc sống viên mãn mà mọi người xung quanh cho đó là “hoàn hảo”. Liệu đâu mới thực sự là đủ, đâu mới thực sự là đích đến cuối cùng, không ai biết được cả, bởi chừng nào con tim còn rung động, còn không ngừng tìm kiếm thì khi đó bản thân vẫn không thôi dằn vặt. Đã bao nhiêu cô gái bước vào hay thậm chí là chỉ đi qua đời của hajime, là cô bạn “con một”, tình yêu đầu đời mà anh ngày đêm mong nhớ, là tình cảm “vụng trộm” với izumi để rồi để lại cho cô một vết thương không thể chữa lành, là người vợ anh yêu thương nhưng “vẫn là không đủ” đối với anh. Dù biết thế nào thì Hajime vẫn luôn trong chuyến hành trình đi tìm ra câu hỏi muôn thuở “như thế nào là hạnh phúc trọn vẹn”, như thế nào mới là đúng, và liệu rằng điều đó có chính đáng không, có làm tổn thương ai đó không ???? Mình là fan bự của Murakami, giờ còn thích cuốn này hơn cả rừng Nauy mất rồi !!!!!!

Câu chuyện của Haruki Murakami gửi đến đọc giả không hẳn là câu chuyện dễ đọc. Mình đã đọc và thấy hiểu về tác phẩm này – hiểu nhưng có lẽ vẫn chưa cảm nhận đầy đủ và tinh tế về nó. Có phải chăng tác phẩm là một bài học về buông bỏ những ám ảnh về tình yêu trong quá khứ để chấp nhận hiện tại và sống hạnh phúc với nó? Hay nó là bài học dạy ta phải sống hết mình vì tình yêu đó? Theo mình nghĩ nó dạy cho mình bài học số 1 – những ám ảnh đeo đuổi Hajime làm anh sống trong hư ảo, rời xa thực tế đầy tốt đẹp với con người đam mê tình yêu và tình dục như anh – một cô vợ xinh đẹp cùng 2 thiên thần nhỏ bé – đó là mái ấm mà không phải ai cũng có được. Nhưng anh lại sống trong hư ảo, sống trong những ám ảnh về quá khư – người con gái bí ẩn đem lại cho anh tình yêu và những đam mê nồng nhiệt đó, người con gái ra đi một cách bí ẩn để anh chênh vênh trong tình yêu đó. Với văn phong sắc bén đầy chất hiện thực – kết hợp chặt chẽ giữa tình yêu và tình dục. Trần tục mà không trần tục – đó là cái hay mà không phải tác giả nào cũng làm được. Thêm vào đó là ý nghĩa về tình yêu và cuộc đời. Sự tha thứ và sự buông bỏ quá khứ. Sau câu chuyện mình rút ra bài học cho riêng mình – trân trọng quá khứ nhưng không có nghĩa là suốt ngày cứ chạy theo quá khứ để làm khổ hiện tại!

Giữa chạy bộ và viết văn có mối quan hệ gì sao? Có lẽ có. Với Haruki Murakami, đó có lẽ là quan điểm của ông với những điều mình thích. Ông thích chạy bộ, ông thích viết văn, và cả trong 2 việc đó, quan điểm của ông đều rất rõ ràng: Một khi đã bắt đầu thì chỉ tập trung vào đó, không vướng bận gì khác. Nói cách khác, ông dồn toàn bộ nhiệt tình mình có thể có cho những gì mình thích được làm. Việc ấy nói thì dễ, nhưng thực hiện đôi khi lại khó khăn, không phải ai trong chúng ta cũng làm được, chúng ta dễ bị cuốn vào những điều khác hơn. Như thời điểm Murakami muốn chuyển sang nghề viết, ông đã có 1 giai đoạn vất vả với việc làm chủ 1 quán bar và quán của ông đang ăn nên làm ra, để bỏ hẳn và dứt khoát bứt sang văn chương là cả 1 sự phiêu lưu táo bạo. Nhưng ông chấp nhận đánh cược, và nếu không đánh cược và bắt đầu nghiệp văn chương với 1 tinh thần nghiêm túc thực sự, chúng ta đã không có 1 Haruki Murakami như ngày nay. Không chỉ vậy, trong chạy bộ và văn chương, ông đều thể hiện 1 tinh thần cầu tiến, thể hiện bằng sự không ngừng tự thách thức bản thân. Dù thất bại hay thành công, ông cũng không từ bỏ, mà tìm tòi mọi cách để đạt được cái mình muốn. Chính tinh thần như vậy đã giúp ông làm mới các tác phẩm của mình. Đối với mình, những điều ông viết ra trong cuốn sách này là những gì đáng trân trọng và Murakami là 1 nhà văn đáng quý vì tinh thần lao động bền bỉ và nghiêm túc.

Tôi Nói Gì Khi Nói Về Chạy Bộ - cuốn tự truyện sống động ghi nhận quá trình tích luỹ kinh nghiệm để trở thành tiểu thuyết gia gắn liền với bộ môn chạy bộ mà Murakiami theo đuổi suốt 20 năm “Phần lớn những gì tôi biết về viết truyện là do học được từ chạy bộ mỗi ngày”. Tôi Nói Gì Khi Nói Về Chạy Bộ không chỉ ra hay ép buộc bất cứ ai phải chạy bộ, hay nói rằng phải chạy bộ mới có thể trở thành nhà văn giỏi, nó chỉ đơn giản là những chia sẻ rất thực của một người đàn ông trung niên kiên trì theo đuổi điều mà mình yêu thích. Cuốn tự truyện có lối văn giản dị, nhẹ nhàng, những ngộ nhận ngây ngô, như một lời chia sẻ chân tình, bỏ qua những hình ảnh hư cấu, nhân vật nhuốm màu sắc đau thương, để tìm đến hay bắt gặp được những so sánh hay ho về chạy bộ và viết văn, về chạy bộ và cách tác giả nhìn nhận cuộc đời. Murakami hiểu được rằng buộc ai đó làm điều mà mình không thích là điều hy hữu “Tôi không thể chịu nổi nếu bị buộc phải làm điều gì tôi không muốn làm vào lúc tôi không muốn làm“, và một khi đã đủ thích mới đủ kiên trì theo đuổi đến cùng. Với Murakami “Tôi phàm đã làm gì là cống hiến hết mình. Nếu thất bại, tôi có thể chấp nhận. Nhưng tôi biết rằng nếu mình làm mọi việc nửa vời và rồi chẳng đi tới đâu, tôi sẽ luôn hối tiếc”. Đời thật chẳng công bằng, “Một số người phải làm đủ mọi cách mà không bao giờ đạt được cái mình mong muốn, trong khi những người khác thì lại có được nó mà chẳng tốn tí hơi sức nào” nhưng Murakami đã khiến chúng ta chấp nhận sự thật này qua tầm nhìn xa “cách duy nhất để hiểu cái gì thực sự công bằng là biết nhìn xa về mọi sự”, cái dễ có thì càng dễ mất, chỉ những điều cố gắng, phấn đấu đạt được mới thực sự bền vững. Nếu bạn không thích chạy bộ thì có bảo bạn ngàn lần chạy bộ đi bạn cũng chẳng thể gắn bó với nó lâu dài được. Trường học cũng vậy, là nơi có thể ép buộc bạn làm những điều bạn không thích nhưng bạn đừng bận tâm vì bởi “Điều quan trọng nhất ta học được ở trường là cái sự thật rằng những điều quan trọng nhất ta lại không học hỏi được ở trường“. Trong cuộc đời của mỗi người không ai cứ mãi chạy, cũng khó tránh thất bại. Và khi thất bại hãy thẳng thắn thừa nhận như chính cách Murakami nhìn nhận thất bại của mình “Có ba lý do khiến tôi thất bại. Tập luyện không đủ. Tập luyện không đủ. Và tập luyện không đủ“.

“Với tôi, chạy bộ là rèn luyện, đồng thời là một ẩn dụ. Chạy ngày này qua ngày khác, tích góp các cuộc đua, từng chút một tôi nâng cao chuẩn, bằng cách vượt qua từng mức độ mà tôi nâng mình lên. Ít nhất thì đó là lý do để tôi dốc sức mình ngày này qua ngày khác: để nâng cao tầm mức riêng của mình”. Bền bỉ vẫn luôn là bí mật để thành công. Ở cái tuổi 70, tác giả của Rừng Nauy vẫn luôn dồi dào sức bút như thế. Mỗi tác phẩm của ông vẫn không ngừng làm người đọc say mê. Càng đọc, cuốn sách Tôi nói gì khi nói về chạy bộ càng khiến bạn bất ngờ, và thấm. Bạn sẽ nhận ra đằng sau những điều cơ bản của chuyện luyện tập chạy bộ, chuyện viết, mà còn là những câu chuyện về triết lý sống của một nhà văn Nhật hiện đại thành công: gói trong 2 từ: đơn giản và bền bỉ. Cuốn sách chỉ hơn 200 trang, mỏng và rẻ hơn bất cứ cuốn sách nào của Murakami. Nhiều người ấn tượng với cuốn sách bởi lối kể mộc mạc, dễ hiểu và đơn giản đến bất ngờ. Thực ra, nếu ai từng đọc các bài phỏng vấn Murakami, sẽ thấy cuốn sách phản chiếu tính cách của ông khá rõ ràng. Ngoài đời thực, ông chưa bao giờ phức tạp hay màu mè. Và lý do mà ông kết thúc việc kinh doanh riêng đang khá ổn để tập trung vào việc viết lách toàn thời gian cũng đơn giản và rõ ràng như thế: đó là để sống trọn vẹn với chính mình. Có lẽ bởi thế mà theo từng bước chạy, theo từng con chữ, cách tác giả tận hưởng và quan sát từ thẳm sâu bên trong theo từng bước chân đánh dấu xuống đường, từng con chữ đánh dấu xuống trang giấy, những cuộc đời trong truyện hiện ra, và bước tới với công chúng.

Thú thực, từ khi đọc xong cho đến lúc này, khi quyết định gõ những dòng chữ ghi lại cảm nhận về một trong những tác phẩm tiêu biểu của Haruki Murakami tôi có hơi…run tay. Một phần vì những tầng ý ẩn sau từng câu chữ của câu chuyện quá dày nên nếu tôi ghi lại không đầy đủ thì sẽ tự cảm thấy không cần thiết phải viết về cảm nhận của mình làm gì, còn nếu làm rõ, kể lể chi tiết thì sẽ làm mất đi tính hấp dẫn của nó. Dù sao khi kết thúc việc đọc của mình với riêng Biên niên ký Chim Vặn Dây Cót, tôi đã thở phào, thế là xong, bởi thực sự đọc nó không hề đơn giản chỉ là cảm thụ. Vì vậy, nếu bài viết còn có chỗ nông cạn hoặc không thật vừa ý những người yêu thích văn của Haruki Murakami, tôi mong rằng sẽ được lượng thứ cho. Đầu tiên phải nói rằng, đây là một cuốn sách dày cả về hình thức cho đến ý nghĩa. Biên niên ký Chim Vặn Dây Cót không chỉ đơn giản là một cuộc phiêu lưu kỳ ảo siêu thực mà còn là hành trình của con người đi tìm lại bản thân, đồng thời từ đó đấu tranh cho hạnh phúc của chính mình. Xem ra, Haruki Murakami (mà tôi hay vui miệng gọi là “bố già”) đã chọn lựa rất kỹ những hình tượng cần viết, từ những chi tiết vô cùng nhỏ nhặt như cái tên của con mèo cho đến ý nghĩa của từng hình tượng. Cuộc sống của anh chàng nhân viên tư vấn luật Toru Okada và cô vợ anh, Kumiko bắt đầu thay đổi với chính anh từ khi con mèo của hai vợ chồng anh biến mất. Vợ anh rất yêu con mèo, và nó là biểu tượng cho sự tự do của cô. Khi hai người còn chưa kết hôn, cô tâm sự với anh, cô thực sự muốn tự làm một điều mình thích như nuôi một con mèo chẳng hạn. Vậy mà cuối cùng, khi đã nuôi mèo, hai vợ chồng lại đặt tên cho nó là Noboru Wataya, tên người anh của cô vợ, một kẻ mà cả hai vợ chồng không thể nào ưa thích. Hình tượng con mèo xuất hiện không phải là lần đầu tiên trong tác phẩm của “bố già”. Trong con mắt của văn hóa Nhật Bản, mèo là một trong ba loài vật biểu trưng cho sự thông minh cùng với tính linh thiêng. Haruki Murakami chọn con mèo không phải là không có lý do riêng. Bằng một thông điệp nào đó, con mèo thể hiện sự bình yên trong gia đình Okada của riêng Toru và Kumiko. Từ khi con mèo biến mất, việc tìm nó đã dẫn dắt câu chuyện đi theo chiều hướng riêng. Toru phát hiện ra ngôi nhà hoang với cái giếng rồi làm quen với cô bé Kasahara May, người mà cá nhân tôi cho rằng, là hiện thân của sự tươi trẻ và lòng tin với cuộc sống. Kasahara May khá kì lạ so với những cô gái cùng tuổi, cô không đi học, lạc loài trong gia đình mình. Tình bạn của Toru và Kasahara là một thứ tình cảm vừa sâu sắc, vừa cảm thông, cũng là một thứ liên kết giữa Toru với thế giới vật chất thực tại. Vì thế, Kasahara May có một vị trí rất đặc biệt trong toàn bộ tuyến nhân vật trong câu chuyện này. Kế đến nữa là hai chị em nhà Kano. Cô chị Kano Malta là một nhà ngoại cảm trong khi cô em Kano Creta là phụ tá. Họ đều có kiểu cách ăn mặc riêng nhưng không ai giống những người bình thường. Kano Malta được Kumiko nhờ cậy tìm con mèo của gia đình, từ đó Toru mới quen biết cả hai chị em. Đọc đến đoạn giấc mơ kì dị của Toru về Creta, tôi ban đầu đã cho rằng anh toàn có mối quan hệ với những người kì lạ mà không biết rằng đó mới chỉ là khởi đầu trong hành trình đi tìm lại cái tôi còn kì lạ hơn gấp nhiều lần của riêng Toru. Kano Creta phải trải qua rất nhiều biến cố, từ việc bị những nỗi đau thể xác hành hạ cho đến việc bị mất đi cảm giác đau và cuối cùng là chính mình thấy bị “ô uế”. Tự nhận là “con điếm tinh thần”, cô xuất hiện trong các giấc mơ của Toru, ở bên anh và rồi nhờ anh giúp đỡ để được giải thoát hoàn toàn. Toàn bộ câu chuyện đan xen giữa mơ và thực. Bình thường người ta vẫn thường thấy, cuộc đời vật chất thực có xấu xa thế nào, con người vẫn muốn hướng thiện về mặt tâm hồn thì trong Biên niên ký Chim Vặn Dây Cót, tâm hồn con người trở nên đen tối khó cứu vãn, thậm chí khống chế xã hội và những mối quan hệ giữa người với người. Từ đây, tâm hồn xấu xa vươn ra ngoài và khống chế thế giới vật chất thực trong vòng quay của nó mà Toru cùng với Kumiko chỉ là một trong những nạn nhân. Thông qua hình tượng người anh trai tài năng mà thất đức của Kumiko, Noboru Wataya, Haruki Murakami đã tạo nên một chính khách giả dối, nham hiểm nhưng giỏi che giấu đến mức thay vì căm ghét, người ta thường yêu thích hắn. Những điều xấu xa mà hắn làm không ai thấy được nên họ không tin rằng họ đang bị nó điều khiển. Tôi nghi ngờ rằng, Noboru Wataya đã sử dụng Kano Creta để ban đầu khống chế Kumiko, em gái hắn vì nhìn từ sau lưng, họ cực kỳ giống nhau, vì vậy mà sau này, khi Toru tiếp xúc với Kano Creata trong mơ, anh cũng có thể gặp được người đàn bà gọi anh qua điện thoại hay bản chất của Kumiko mà cô đã che giấu chồng. Qua hành vi với Kano Creata, Wataya đã điều khiển được em gái khi cô bất ngờ có thai. Đứa con của Kumiko và Toru có thể mang huyết thống của Toru và sẽ mang tinh thần của Wataya. Noboru có lẽ rất trong sạch ở thế giới hiện tại, nhưng hắn có một thế giới ngầm trong những giấc mơ mà không phải ai cũng có thể tới. Tuy nhiên, Toru là một người có khả năng đặc biệt, cũng có thể khả năng này được đánh thức từ tiếng Chim Vặn Dây Cót. Ta thấy rằng trong truyện, bất cứ ai nghe thấy tiếng con chim này kêu quick, quick đều không phải là những người bình thường mà đều là những nhà ngoại cảm hoặc là liên hệ đặc biệt về mặt tâm linh với người khác. Vậy nên Toru, trong quá trình đi tìm con mèo, rồi sau này là tìm người vợ bỏ nhà đi một cách khó hiểu đã tìm hiểu về chính tâm hồn mình, về cái tôi hiện diện và cái tôi tinh thần. Tất cả những hành động đó đều thông qua giấc mơ, nhưng lại là những giấc mơ rất thật, thậm chí nếu người ta không đủ vững vàng vượt qua thử thách của giấc mơ đó, họ có thể bị điên. Trong câu chuyện này, không phải không có người trải qua giấc mơ quái gở ngoài Toru mà còn có Quế. Quế thực sự rất xuất sắc ngay từ khi còn nhỏ, nhưng giấc mơ hay sự thật mà Quế chứng kiến về chuyện có kẻ chôn tim mình đã khiến Quế bị câm. Và thật kỳ lạ, Quế với người mẹ Nhục đậu khấu của anh sau này lại là những người bạn thân nhất, kề vai sát cánh bên Toru qua những thử thách. Họ đều bình thường trong xã hội hiện đại một cách bất bình thường. Trong quá trình đi tìm bản thể, Toru hay sử dụng cái giếng cạn để có được một không gian đủ tối, yên tĩnh, trống rỗng để một mình đối diện với chính mình. Người ta thường thấy trong nhiều tác phẩm nghệ thuật, một người đi trong đường hầm sẽ tìm thấy ánh sáng ở cuối đường đó, theo phương chiều ngang về mặt hình học không gian. Cái giếng là một hình tượng theo phương thẳng đứng mà phía trên là ánh sáng, cái lộ ra khi Toru tìm đến thế giới thực. Hình tượng cái giếng cũng không phải tự Toru nghĩ ra mà là do một cựu binh Nhật trong Thế chiến thứ II đã kể cho anh về cuộc đời mình có liên quan đến cái giếng. Họ giống nhau khi nghĩ rằng có thể tìm thấy bản thể từ chiếc giếng đã khô khốc đó. Cựu binh thất bại, Toru thành công, nhưng vẫn là con người phải tự đấu tranh với chính sự hèn yếu trong bản thân mình mới có thể vượt qua sự kìm hãm của các thế lực xấu. Cuối cùng, Toru đã làm được những gì anh tin tưởng, và kể cả khi kết thúc, Kumiko vẫn chưa thật sự trở lại bên cạnh anh thì những gì anh làm cho cô đã đủ giải thoát cô khỏi gông xiềng của bóng tối. Câu chuyện này không chỉ đề cập tới mặt trái của chính khách Noboru Wataya mà còn là một quá trình tìm hiểu về lịch sử giai đoạn cuối của Thế chiến thứ II từ phe Nhật. Qua những lời kể từ viên cựu binh và Nhục đậu khấu, người ta có thể thấy những người đại diện cho cái gọi là “chính nghĩa” chống phát xít hành động thế nào đối với tù binh. Người Nhật hiện đại rất ghê sợ chiến tranh và chủ nghĩa phát xít. Mọi tội lỗi là của quân phiệt Nhật và Thiên Hoàng lúc đó, đồng thời họ cũng luôn muốn chứng minh rằng, chính người dân nước Nhật cũng là những nạn nhân chiến tranh. Vì thế, thông qua câu chuyện của tay cựu binh và viên bác sĩ thú y (cha của Nhục đậu khấu), ta nhận thấy những hành động vô nghĩa của quân đội phát xít Nhật, cùng với những cư xử rất dã man của Boris lột da (một kẻ đại diện cho những nhà cầm quyền người Nga dưới chế độ Stalin). Có thể chính Haruki Murakami cũng không định phát triển nhiều về mặt chính trị – xã hội cho Biên niên ký Chim Vặn Dây Cót lúc ban đầu, nhưng qua quá trình tìm hiểu lịch sử và phát triển câu chuyện của mình, ông đã có được những tư tưởng sâu sắc hơn rất nhiều. Ngoài ra, tên các nhân vật đều để ở chữ Katakana (chữ cứng) trong tiếng Nhật cho thấy một cá tính rất đặc biệt mà tác giả kì vọng ở họ. Sự thể hiện này sẽ không còn nữa nếu tác phẩm được dịch ra các thứ tiếng khác, âu cũng là một điều đáng tiếc. Thật ra, những gì mà tôi đề cập trên đây chỉ là một số những điều nhất định mà tôi cảm nhận rõ nhất về tác phẩm chứ không phải là tất cả. Để mà nói rằng tôi rất hiểu tác phẩm hay ý tưởng của Murakami thì hoàn toàn không phải. Cái mà tôi đọc được, tự nhận thấy từ chính tâm hồn mình là một sự đồng cảm sâu sắc của Murakami dành cho những người cô đơn. Vì thế, tôi không hài lòng với bản dịch cho lắm. Trần Tiễn Cao Đăng có thể dã dịch ra ý nghĩa của từng câu chữ theo nghĩa đen hoàn chỉnh nhưng sự chau chuốt quá đáng của bản dịch, cộng thêm với việc ít đồng cảm với tác phẩm khiến cho cuốn sách tiếng Việt ít nhiều mất đi sự tinh tế. Điều bù lại duy nhất là tác phẩm của “bố già” đã được giới thiệu đông đảo hơn với nhiều người đọc Việt Nam.