Không ngẫu nhiên một thứ gì đó được tôn vinh và coi trọng, tất nhiên cuốn sách này cũng vậy. Cuốn sách Tư duy nhanh và chậm của tác giả Daniel Kahneman đã giành được một số giải danh giá như Sách khoa học hay nhất của Học viện Khoa học Quốc gia 2012; Sách hay nhất năm 2011 do Thời báo New York bình chọn; là cuốn sách được quan tâm nhất năm 2011 của tạp chí Los Angeles.
Tác giả Daniel Kahaneman là giáo sư tâm lý học thuộc Đại học Princeton. Ông được coi là nhà tâm lí học vĩ đại nhất trên thế giới còn sống, đã từng được trao giải Nobel kinh tế năm 2002. Là người gốc Do Thái, ông đem tư duy, những kiến thứ uyên bác về hành vi con người trong hành trình khám phá và nghiên cứu hơn 30 năm của ông với đồng nghiệp; cùng sự dí dỏm, hài hước của mình vào cuốn sách để bạn hiểu cái hay của cuốn sách không chỉ là hàm lượng tri thức học thuật mà còn mang tính giải trí và sự hết sức khiêm tốn của tác giả.
Tôi cho rằng bất kỳ tác giả nào, khi viết một cuốn sách đều hình dung sẵn trong đầu những lợi ích mà độc giả sẽ lĩnh hội được sau khi đọc nó. Với tôi, lợi ích của việc đọc cuốn sách này được ẩn dụ dưới hình ảnh chiếc bàn uống nước được đặt trong các văn phòng – nơi mọi người thường ngồi trao đổi ý kiến, hay truyền tai nhau những câu chuyện phiếm. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ làm giàu vốn ngữ vựng cho độc giả mỗi khi đi đến một vài quyết định nhanh trong cuộc sống.
Còn về cuốn sách, được nhiều người nổi tiếng nhận xét như sau:
“Với những ai quan tâm đến đầu tư hoặc hành vi con người, cuốn sách của Kahneman là một tác phẩm đáng đọc. Trong cuốn sách này, ông chỉ ra rằng trong khi chúng ta luôn cho rằng quyết định mà mình đưa ra là hợp lý, thì thực ra chúng ta lại đang mắc phải những thành kiến. Ít nhất cuốn sách cũng đem đến cho người đọc cơ hội tốt hơn để tránh những sai lầm hay giảm thiểu chúng” – Larry Swedroe, CBS News.
“Daniel Kahneman đã thể hiện một cách mạnh mẽ trong cuốn sách mới của mình về việc làm thế nào để con người dễ dàng tách khỏi sự hợp lý” – Christopher Shea, The Washington Post.
“Một câu chuyện hết sức sâu sắc và hấp dẫn, là sự hòa quyện giữa những nghiên cứu của mình và của các nhà tâm lý học, kinh tế và chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác…Kahneman đã mất hàng thập kỷ để nghiên cứu và chắt lọc những giá trị đó để đem lại biết bao điều thú vị, hấp dẫn cho độc giả. Đây thực sự là một cuốn sách rất đáng đọc. Bởi lẽ nó không phải là một cuốn sách khoa học bình thường, thường chỉ có một vài chương đầu tiên hữu ích, thú vị, còn các chương sau rất tẻ nhạt. Cuốn sách này là một trường hợp ngoại lệ hiếm hoi. Toàn bộ cuốn sách là sự hấp dẫn khó tả và chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng những điều đó vào cuộc sống hàng ngày. Tất cả mọi người đều nên đọc nó.” – Jesse Signal, Boston Globe.
“Lỗi lac… Từ này không thể nói hết được tầm quan trọng của những đóng góp của Dainel Kahneman trong việc hiểu cách thwucs chúng ta tư duy và lựa chọn. Ông đứng giữa những người khổng lồ giống như một tay thợ dệt với những sợi chỉ của Charles Darwin, Adam Smith và Sigmund Freud. Như mọi nhà tâm lý học quan trọng bậc nhất trong lịch sử nhân loại, Kahneman đã định hình lại tâm lý học nhận thức, phân tích tính hợp lý và lý trí, hiểu biết về nguy cơ, nghiên cứu về hạnh phúc và an sinh…Một tác phẩm kiệt xuất gây ấn tượng mạnh mẽ trong chính tham vọng của nó, truyền tải rất nhiều kiến thức, sự khôn ngoan với tâm thái hết sức khiêm tốn và nhân văn sâu sắc. Nếu trong năm nay bạn chỉ được đọc một cuốn sách, tôi khuyên bạn nên chọn cuốn sách này.” – Janice Gross Stein, The Globe and Mail.
Trong Tư duy nhanh và chậm, Kahneman mô tả hai cách thức mà não chúng ta vận hành. Ông gọi đó là Hệ thống 1 và Hệ thống 2. Nếu như Hệ thống 1, còn gọi là cơ chế nghĩ nhanh, tự động, thường xuyên được sử dụng, cảm tính, rập khuôn và tiềm thức; thì Hệ thống 2 với cơ chế nghĩ chậm, đòi hỏi nỗ lực, ít được sử dụng, dùng logic, có tính toán và ý thức. Trong một loạt thí nghiệm tâm lý, Daniel Kahneman và Amos Tversky (đồng nghiệp của ông) chúng minh rằng con người chúng ta thường đi đến quyết định theo cơ chế nghĩ nhanh hơn là nghĩ chậm. Phần lớn nội dung của cuốn sách là chỉ ra những sai lầm trong Hệ thống 1. Chẳng hạn, chúng ta vẫn tưởng con người vốn đầy lý trí, quyết định có suy tính cẩn thận, nhưng Kahneman và Tversky đã chứng minh trong cuộc sống hàng ngày và cả đời sống kinh tế, chúng ta thường quyết định một cách thiếu nhất quán, cảm tính và đầy chủ quan. Kahneman chứng minh rằng chúng ta tệ hơn những gì chúng ta tưởng: đó là chúng ta không biết những gì chúng ta không biết.
Cơ chế hoạt động của 2 hệ thống trong một con người, khi được nhìn nhận trên quy mô lớn hơn, có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động kinh tế xã hội. Hai hệ thống này chính là con người Kinh tế hư cấu sống trên mảnh đất lý thuyết và con người Hành động trong thế giới thực tại. – PGS.TS Trương Gia Bình, Chủ tịch Tập đoàn FPT.
Cuốn sách này được chia làm năm phần.
PHẦN I: HAI HỆ THỐNG
Dưới đây là một số ví dụ về những hoạt động tự động làm nên Hệ thống 1:
- Phát hiện ra một đồ vật nằm xa hơn so với các đồ vật khác.
- Nhận ra người khác đang giận dữ, vui mừng.
- Nhăn mặt khi ăn một quả chanh.
- Nhận ra sự ganh ghét, thù địch trong một giọng nói.
- Trả lời được câu hỏi 1+1=?
- Đọc chữ trên những tấm biển lớn.
- Lái xe trên một con đường vắng.
- Hiểu nghĩa những câu đơn giản.
- Nhận ra cụm từ “một người hiền lành và gọn gàng”, ám chỉ người thuộc loại nghề nghiệp nào.
Một vài hoạt động trí não trong danh sách trên diễn ra hoàn toàn tự động không cần bất cứ sự tập trung nào. Bạn không thể ngăn mình hiểu những câu nói đơn giản bằng ngôn ngữ mẹ đẻ hay nhận ra âm thanh lạ bất chợt xuất hiện, cũng như bạn không thể ngăn bản thân biết được phép cộng đơn giản 1+1= 2 hay nghĩ đến Hà Lan có những cánh đồng hoa tuy-lip rực rỡ, tuyệt đẹp. Khả năng của Hệ thống 1 còn bao gồm cả những kỹ năng bẩm sinh của loài người cũng như các loài động vật khác. Chúng ta sinh ra đều được chuẩn bị nhận thức về thế giới xung quanh, nhận biết các đồ vật, định hướng chú ý, tránh sự mất mát và khiếp sợ những con rắn có nọc độc chết người. Những hoạt động đó trở nên nhanh nhẹn và tự động vì nó thường xuyên được luyện tập. Hệ thống 1 còn học cách liên kết các ý tưởng (ví dụ: “Thủ đô của nước Việt Nam là gì?”), nó cũng học được những kỹ năng như đọc và hiểu những sắc thái khác nhau trong những tình huống xã hội khác nhau. Tri thức được lưu trữ trong bộ nhớ và chúng ta truy cập vào nó mà không cần huy động sự cố gắng cũng như phải có sự tập trung cao độ.
Hệ thống 1 hoạt động theo cơ chế tự động và mau lẹ, với rất ít hoặc hầu như không cần cố gắng và không tự động kiểm soát.
Còn các hoạt động của Hệ thống 2 rất đa dạng nhưng chúng có một điểm chung: Chúng đều đòi hỏi sự chú ý và sẽ kết thúc khi bạn không còn tập trung nữa. Dưới đây là một số hoạt động thuộc Hệ thống 2:
- Tập trung vào diễn biến của trận bóng chày.
- Dỏng tai lên đợi tiếng súng ra hiệu bắt đầu một cuộc đua.
- Tập trung lắng nghe tiếng nói của một người nhất định trong một căn phòng ồn ào.
- Duy trì tốc độ đi bộ nhanh hơn tốc độ đi bộ bình thường.
- Cho ai đó biết số điện thoại của bạn.
- So sánh hai chiếc điện thoại dựa trên giá trị sử dụng của chúng.
- Lục trong trí nhớ tên của một bộ phim đã được trình chiếu từ rất lâu.
- Đếm số xuất hiện chữ cái a trong một trang sách dày đặc chữ.
- Tìm kiếm một người đàn ông đầu trọc.
Trong tất cả những tình huống trên, bạn buộc phải tập trung chú ý và hiệu quả thường kém, thậm chí là tệ hại nếu bạn không sẵn sang hoặc sự chú ý của bạn bị chuyển hướng sang các chủ đề không thích hợp. Hệ thống 2 có khả năng thay đổi cách thức hoạt động của Hệ thống 1, bằng cách lập trình tự động những chức năng chú ý và ghi nhớ thông thường.
Cụm từ hay được sử dụng “tập trung chú ý” là để chỉ khả năng: Bạn phải sử dụng sự chú ý tạm thời của bản thân, đổi lại bạn có thể phán đoán được các hoạt động và nếu cố gắng sử dụng vượt quá khả năng chú ý của mình, bạn sẽ thất bại. Đó chính là dấu hiệu của những hoạt động đòi hỏi sự chú ý mà chúng có sự tương tác lẫn nhau, đó là lý do vì sao bạn không thể xử lý nhiều vấn đề phức tạp cùng một lúc. Bạn có thể vừa lau nhà vừa tám điện thoại với cô bạn thân, nhưng bạn không thể vừa tính nhẩm 11 x 97 vừa cố lái cho xe rẽ trái được.
Hệ thống 2 tập trung sự chú ý đối với những hoạt động tư duy đòi hỏi sự nỗ lực, bao gồm những phép tính phức tạp. Cơ chế hoạt động của Hệ thống 2 thường gắn với những kinh nghiệm chủ quan, sự lựa chọn và tập trung của chủ thể.
Theo suy nghĩ của tác giả về hai hệ thống,
Khi nghĩ về bản thân, chúng ta thường nhận mình gần với Hệ thống 2, là một con người ý thức và duy lý, có đức tin, luôn suy nghĩ chín chắn trong từng hành động khi phải đưa ra những quyết định và lựa chọn. Hệ thống 2 luôn nghĩ rằng nó chính là nguồn gốc của hành động, tuy nhiên, Hệ thống tự động 1 mới là “ người hùng” của vở kịch tâm lý này. Tôi mô tả Hệ thống 1 như là những ấn tượng và cảm xúc thụ động ban đầu, là nguồn gốc chính hình thành những niềm tin và lựa chọn cẩn trọng của hệ thống 2. Cơ chế tự động củ Hệ thống 1 hình thành lên những ý tưởng với những khía cạnh phức tạp kinh ngạc, nhưng Hệ thống 2 mới có khả năng cấu trúc lại những suy nghĩ đó tuần tự theo từng bước.
Sự tương tác giữa hai hệ thống là chủ đề lập đi lặp lại trong cuốn sách này. Hệ thống 1 hoạt động tự động và Hệ thống 2 thì thường xuyên thoải mái ở chế độ ít nỗ lực. Hệ thống 1 liên tục phát đi những tín hiệu gợi ý cho Hệ thống 2 như: ấn tượng, trực giác, sự chú ý và cảm xúc. Nêu chúng được Hệ thống 2 xác nhận, ấn tượng à trực giác sẽ chuyển thành niềm tin và thúc đẩy chúng trở thành những hành động tự động. Khi mọi thứ hoạt động nhuần nhuyễn, vốn thường ăn ý trong hầu hết thời gian, Hệ thống 2 sẽ tiếp nhận sự gợi ý của Hệ thống 1 mà rất ít thay đổi hoặc lhoong thay đổi gì.
Chúng ta cũng cảm giác cố gắng tập trung đọc một cuốn sách tẻ nhạt, đôi khi bạn đọc lại cả một đoạn văn vì bạn bỗng chẳng hiểu nó viết về cái gì. Chúng ta đều biết cảm giác cố gắng không nhìn chằm chằm vào một cặp đôi ăn vận kỳ cục ở bàn kế bên trong một nhà hàng. Hay tất cả mọi người sống trên đời này đều từng trải nghiệm cảm giác đừng nguyền rủa một ai đó cút xuống địa ngục. Một trong những nhiệm vụ của Hệ thống 2 là vượt qua những thôi thúc của Hệ thống 1. Hay chính Hệ thống 2 đảm nhận phần tự chủ trong chúng ta. Vì vậy, mà Hệ thống 2 càng cần đến sự chú ý và nỗ lực.
Nếu bỗng nhiên có cơ hội biến cuốn sách này thành một bộ phim thì hẳn Hệ thống 2 sẽ chỉ được nhận vai phụ, song nó lại đinh ninh mình là vai chính chứ chẳng sai. Trong bộ phim này, điểm hạn chế của vai diễn phụ - Hệ thống 2 là nó được vận hành bằng cơ chế nỗ lực và một trong những tính cách điển hình của nhân vật này là lười biếng, nó miễn cưỡng đầu tư thêm nỗ lực trừ khi rơi vào những tình huống bắt buộc. Hệ quả là, những tư duy và hành động mà Hệ thống 2 tin chọn lại thường bị nhân vật chính thực sự (Hệ thống 1) của bộ phim chỉ đạo. Tuy vậy, có những nhiệm vụ quan trọng mà chỉ Hệ thống 2 mới thực hiện được, bởi chúng đòi hỏi nỗ lực và hành động tự kiểm soát mà sự bản năng và bôc đồng của Hệ thống 1 không thể nào làm được.
Thông thường vừa đi bộ vừa suy nghĩ cu cơ là chuyện bình thường và trong thực tế còn là điều khá dễ chịu nữa, nhưng trong trường hợp những hoạt động này bị đẩy lên một mức căng thẳng nào đó thì sẽ là thách thức đối với nguồn lực có hạn của Hệ thống 2. Ví dụ, bạn đang đi chơi thoải mái với một người bạn, bỗng nhiên bạn bảo anh ta thử tính 23 x 45 bằng bao nhiêu, và tính ngay lập tức. Gần như anh ta sẽ khựng lại trong giây lát. Việc đang thảnh thơi đi dạo mà bắt não hoạt động tải một lượng dữ liệu lớn trong bộ nhớ ngắn hạn, quả thật rất khó khăn.
Hệ thống 2 – Bận rộn và suy yếu
Giờ đây người ta đã tổng kết một danh sách dài và đa dạng những tình huống và nhiệm vụ được cho là có khả năng rút kiệt sự tự chủ của con người. Tất cả đều tiềm ẩn những mâu thuẫn và đi ngược lại nhu cầu xu hướng tự nhiên của con người. Ví dụ:
- Tránh xa những con hổ
- Kiềm chế bộc lộ cảm xúc khi xem một bộ phim gay cấn, hồi hộp hoặc quá tình cảm, sướt mướt.
- Đưa ra một loạt lựa chon gây tranh cãi.
- Cố gắng gây ấn tượng với người khác.
- Phản ứng tử tế trước một hành động xấu của bạn đời.
Danh sách những chỉ dẫn suy yếu cũng khá đa dạng:
- Lên thực đơn ăn kiêng, tập gym.
- “Vung tay quá chán” trong một cơn cuồng mua sắm.
- Phản ứng thái quá khi bị khiêu khích.
- Thể hiện kém trong một nhiệm vụ phải tư duy và khi phải đưa ra lời giả thích cần sự logic.
Tất cả quá trình ấy khiến ta cảm thấy kiệt sức và không mấy dễ chịu. Không giống quá trình tư duy, sự suy yếu bản ngã khiến ta bị mất ít nhất một phần động lực sau mỗi nhiệm vụ đòi hỏi sự kiểm soát. Có thể sau khi bạn hoàn thành chúng, bạn không muốn cố gắng trong những nhiệm vụ tiếp theo, nếu như bạn bị bắt buộc thì vẫn có thể tiếp tục nhưng hay ho cho lắm.
Hệ thống 2 lười biếng
Hãy cố gắng xác định, càng nhanh càng tốt, nếu bạn thấy lập luận này hợp logic. Từ hai mệnh đề này thì kết luận sau có hợp lý không?
Hoa hồng là một loài hoa.
Vài loài hoa chóng tàn.
Cho nên có vài loài hoa hồng chóng tàn.
Thoáng qua có vẻ hợp lý, nhưng không.
Đa số các sinh viên đại học được hỏi đều xác nhận tam đoạn luận này hợp logic. Thực tế, lập luận này không chặt chẽ, bởi vì có thể xảy ra khả năng hoa hồng không nằm trong số những loài hoa chóng tàn. Một đáp án có vẻ hợp lý đã lập tức xuất hiện trong đầu bạn. Để tránh “cái bẫy” này đòi hỏi đầu óc phải làm việc căng thẳng – tức chống lại “tiếng nói” khe khẽ cất lên trong đầu: “Đúng rồi, đúng rồi!” khiến cho việc kiểm tra tính chuẩn xác của vấn đề trở nên khó khăn hơn và mọi người hầu như ngại suy nghĩ thấu đáo cho một vấn đề nào đó. Thí nghiệm này cho thấy, khi người ta đặt lòng tin vào một kết luận, họ sẽ có xu hướng tin tưởng vào những ý kiến bổ trợ cho kết luận đó, ngay cả khi chúng không có căn cứ.
Sự kỳ diệu của hiệu ứng mồi
Khi bạn nhìn thấy hay nghe từ ĂN (EAT) thì trong khoảnh khắc bạn sẽ điền từ còn thiều của từ SO_P là SOUP (cháo, súp) thay vì từ SOAP (xà phòng). Và ngược lại, nếu bạn nhìn thấy từ TẮM (WASH) thì chắc rằng bạn sẽ điền là SOAP chứ không phải SOUP. Đó là hiệu ứng mồi, cách mà từ ĂN đã mồi cho từ SOUP, từ TẮM mồi cho từ SOAP. “Hiệu ứng mồi” được thể hiện ở rất nhiều dạng thức. Và tất nhiên bạn sẽ không chỉ được mồi để bật ra ý tưởng liên quan đến súp, mà còn hàng nghìn ý tưởng liên quan khác như đói, béo, ăn kiêng…Một ý tưởng nhỏ bé có thể tạo làn sóng lan tỏa cho những ý tưởng nối tiếp nhau như khi ném một hòn sỏi xuống mặt hồ. Hiệu ứng mồi có thể chạm đến mọi ngóc ngách trong đời sống.
Ví dụ, hầu hết chúng ta đều nghĩ bầu cử là một hành động được cân nhắc kỹ lưỡng, không bị tác động bởi bất cứ điều gì và phiếu bầu của chúng ta không thể bị ảnh hưởng bởi địa điểm diễn ra cuộc bầu cử, nhưng thực tế lại chứng minh ngược lại. Một nghiên cứu về các yếu tố liên quan đến bầu cử ở Arizona năm 2000 đã chứng minh: Tỷ lệ ủng hộ gây quỹ cho các trường học đã tăng một cách đáng kể khi địa điểm bỏ phiếu được diễn ra ở trường học so với khi tổ chức bầu cử ở một địa điểm gần đó. Một thí nghiệm khác cũng cho thấy trưng bày những hình ảnh về các lớp học và trường học cũng giúp tăng xu hướng ủng hộ các sáng kiến của nhà trường của những người bỏ phiếu. Hiệu ứng hình ảnh đối với phụ huynh và những thành phần cử tri là khác nhau.
Hiệu ứng hào quang
Xu hướng yêu thích (hoặc ghét bỏ) mọi thứ thuộc về một người, bao gồm cả những thứ bạn không bao giờ trực tiếp quan sát được biết với tên gọi “Hiệu ứng hào quang”. Đó là cái tên hay cho sai lệch phổ biến, đóng vai trò lớn trong cách chúng ta nhận định về con người và hoàn cảnh. Đó là một trong những cách tái hiện một thế giới mà Hệ thống 1 vận hành một cách đơn giản hơn và nhiều liên kết hơn so với đời thực.
Bạn nghĩ thế nào về Ben và Alan khi thấy những điều này:
Alan: thông minh – chăm chỉ - bốc đồng – khó tính – cứng đầu – đố kỵ
Ben: đố lỵ - cứng đầu – khó tính – bốc đồng – chăm chỉ - thông minh
Giống hầu hết mọi người, bạn sẽ thấy Alan đáng mến hơn Ben rất nhiều. Có phải do nét tính cách “thông minh – chăm chỉ”? Nào bạn hãy quan sát thật kỹ lần nữa, có phải điều đó cũng xuất hiện trong phần tính cách của Ben? Những nét tính cách đầu tiên trong danh sách đã làm thay đổi hầu hết ý nghĩa của những tính cách cuất hiện phía sau. Sự cứng đầu của một người thông minh thường dễ được chấp nhận và thậm chí còn khiến người ta phải tôn trọng hơn nhưng sự thông minh trong một kẻ đố kỵ và cứng đầu khiến anh ta trở nên nguy hiểm hơn rất nhiều. Tuy vậy, thứ tự xuất hiện là cả vấn đề , bởi vì hiệu ứng hào quang sẽ làm tăng sức nặng của những ấn tượng đầu tiên, đôi khi khiến những thông tin phía sau trở nên vô nghĩa.
Bạn chỉ biết điều mà bạn biết (WYSIATI)
Sự kết hợp giữa Hệ thống 1 tìm kiếm sự liên kết với Hệ thống 2 lười biếng khiến cho Hệ thống 2 sẽ xác lập rất nhiều niềm tin bản năng , phản ánh khá sát những ấn tượng thông thường do Hệ thống 1 xác lập. Tất nhiên, Hệ thống 2 có khả năng hệ thống hóa và cẩn trọng hơn khi tiếp cận với các chứng cứ và sẽ có một loạt lựa chọn được đánh dấu trước khi đưa ra quyết định, ví dụ khi mua một căn nhà, bạn sẽ phải tìm kiếm cho được những thông tin mà bạn không có. Tuy nhiên, Hệ thống 1 được cho là ảnh hưởng nhiều hơn đến các quyết định cần sự suy tính cẩn trọng và đầu vào của nó không bao giờ ngừng thu nhận thông tin. Cơ chế nhảy tắt đến kết luận dựa trên dữ liệu giới hạn cơ bản rất quan trọng trong việc lý giải tư duy trực giác, và được tác giả sử dụng cụm từ viết tắt cho khái niệm này: WYSIATI (What you see is all there is – bạn chỉ biết cái mà bạn biết).
WYSIATI giải thích tại sao chúng ta có thể suy nghĩ rất nhanh và làm thế nào mà chỉ từ rất ít thông tin trong thế giới phức tạp này, chúng ta xây dựng thành một câu chuyện có ý nghĩa. Hầu hết thời gian, những câu chuyện gắn kết với nhau, được chúng ta đặt cạnh nhau một cách tương thích nhằm cổ vũ cho những hành động có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, tôi cũng dungfWWYSIATI để giải thích cho rất nhiều những loại sai lệch khi phải đưa ra nhận định và lựa chọn, sau đây là một số cách lý giải:
- Tự tin thái quá: Khi áp đặt nguyên tắc WYSIATI thì chất lượng hay số lượng các bằng chứng không có mấy giá trị đối với một chủ thể đầy tự tin. Sự tự tin mà các cá nhân có được trong đức tin của họ phụ thuộc hầu hết vào sức thuyết phục của câu chuyện mà họ kể từ những gì họ nhìn thấy , dù chỉ rất ít. Con người hiếm khi thừa nhận một khả năng hiển nhiên có thể xảy ra, đó là lập luận của chúng ta thiếu tính phản biện. Bởi vì đó là tất cả những gì mà chúng ta biết. Hơn thế nữa, hệ thống liên kết có xu hướng ngừng hoạt động ngay khi tìm thấy một khía cạnh liên kết, và ngăn chặn nghi ngờ và sự tối nghĩa.
- Hiệu ứng khung: Những cách diễn giải khác nhau từ cùng một nguồn dữ liệu thường tạo ra nhiều tâm trạng khác nhau. Câu khẳng định “tỷ lệ sống sót sau một tháng sau phẫu thuật là 90%” nghe dễ chịu hơn câu khẳng định “tỷ lệ tử vong sau một tháng phẫu thuật là 10%”, mặc dù hai câu có ý nghĩa tương đương. Tương tự, khi miêu tả thịt nguội đã được “giảm 90% chất béo” sẽ hấp dẫn hơn khi miêu tả thịt nguồi với “10% chất béo”. Rõ ràng các công thức tương đương nhau về nghĩa nhưng thông thường một người chỉ nhìn thấy một công thức và đó là tất cả những gì anh ta biết.
- Bỏ qua đánh giá cơ bản: Steve, anh chàng chỉn chu và cẩn thận, người được mọi người cho là có nhiều khả năng trở thành thủ thư mẫn cán. Dù anh ta chỉ được mô tả bằng hai nét tính cách nổi bật và sống động nhất, dù bạn biết chắc số lượng nông dân cũng có tính cách như thế nhiều hơn so với những người làm thủ thư, nhưng thực tế thì con số thống kê chắc chắn không xuất hiện trong hiểu biết của bạn khi phải trả lời cho câu hỏi phỏng đoán nghề nghiệp của anh chàng này. Tất cả những gì bạn biết đến chỉ có từng ấy mà thôi.
PHẦN II: SUY NGHIỆM VÀ SAI LỆCH
Phần này cập nhật những nghiên cứu về những phán đoán suy nghiệm và khám phá một vấn đề cơ bản: Tại sao con người lại khó khăn tư duy dựa trên những hiện thực thống kê? Chúng ta dễ dàng tư duy liên tưởng, tư duy ẩn dụ, hay tư duy nguyên nhân – hệ quả nhưng chúng ta lại thấy khó khăn khi tư duy dựa trên hiện thực thống kê,bởi sự tư duy này đòi hỏi não bộ của chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều thứ xảy ra cùng một lúc, đó chính là điều mà Hệ thống 1 không được thiết kế đảm nhiệm.
PHẦN III: TỰ TIN THÁI QUÁ
Những khó khăn của việc tư duy dựa trên hiện thực thống kê là nội dung của phần III này, trong đó mô tả những giới hạn của não bộ chúng ta như: Niềm tin thái quá vào những gì chúng ta tin là mình hiểu biết và hiển nhiên đó chính là sự bất lực của chúng ta trong việc nhận ra sự “vô tri” của chính mình ở cấp độ cao nhất của quá trình nhận thức, và sự thiếu chắc chắn cảu thế giới mà chúng ta đang sống. Chúng ta dễ dãi đánh giá quá cao sự hiểu biết của mình về thế giới, bên cạnh đó, lại đánh giá quá thấp vai trò cơ hội trong mỗi sự kiện diễn ra hàng ngày. Đây chính là sự tự tin thái quá được chính ảo tưởng giá trị về sự “nhận thức muộn” nuôi nấng. Cùng những câu chuyện phiếm của Kahneman mở ra cho chúng ta bài học hữu ích mỗi người có thể học tập từ quá khứ trong khi cưỡng lại sức quyến rũ của “nhận thức muộn” và “ảo tưởng về giá trị”.
PHẦN IV: NHỮNG LỰA CHỌN
Phần này tập trung thảo luận các nguyên tắc của ngành Kinh tế học về bản chất của vấn đề ra quyết định, với giả định các nhân tố kinh tế học và lý trí. Kahneman có đưa ra quan điểm hiện nay về những khái niệm chính trong “lý thuyết viễn cảnh” được hình thành bởi một mô hình hai hệ thống, một mô hình của sự lựa chọn mà ông cùng đồng nghiệp Amos đã xuất bản năm 1979. Sau đó, chỉ ra một vài lựa chọn của con người sai lệch so với nguyên tắc của tư duy duy lý. Ông phải xử lý một xu hướng đáng tiếc thường thấy của con người khi giải quyết các vấn đề, đó là tách biệt các vấn đề, và chịu ảnh hưởng từ các “hiệu ứng khung”, trong đó các quyết định được đưa ra dựa trên những lựa chọn các yếu tố bất hợp lý liên quan. Những quan sát như vậy, hoàn toàn có thể dễ dàng được giải thích bằng Hệ thống 1, lại trở thành một thách thức lớn đối với giả định các yếu tố chuẩn trong Kinh tế học đều lý trí vốn đã rất được ưa chuộng.
PHẦN V: HAI BẢN THỂ
Phần này mô tả các nghiên cứu gần đây mà trong đó tác giả muốn giới thiệu tới sự khác biệt giữa hai cái tôi, một cái tôi kinh nghiệm và một cái tôi ghi nhớ, cả hai có những mối quan tâm riêng. Ví dụ, chúng ta có thể thấy con người có hai kiểu trải nghiệm không mấy dễ chịu. Một số trải nghiệm của chúng ta diễn ra trong thời gian dài, do đó chắc chắn nó là trải nghiệm tệ hại hơn những trải nghiệm còn lại. Nhưng chức năng tự động của bộ nhớ - một tính năng của Hệ thống 1 – có những nguyên tắc, mà chúng ta có thể lợi dụng sao cho những ký ức tệ hơn được ghi nhớ tốt hơn. Sau này khi con người chọn những hồi ức để nhớ lại, một cách tự nhiên, họ sẽ được dẫn dắt bởi sự ghi nhớ bản thân và nhờ vào đó (cái tôi kinh nghiệm) đã gợi đến những ký ức không cần thiết. Sự phân biệt giữa hai cái tôi được ứng dụng để kiểm nghiệm hành vi, ở đó chúng ta lại một lần nữa nhận thấy cái gì khiến cho cái tôi kinh nghiệm hạnh phúc hóa ra là không hoàn toàn là cái làm cho cái tôi ghi nhớ. Làm thế nào để hai cái tôi này trong cùng một cơ thể, có thể theo đuổi hạnh phúc là một câu hỏi không hề dễ dàng trả lời được, trong đó hành xử đúng đắn của đại đa số mọi người đã trở thành một chuẩn mực chung được quy ước và công nhận là cách xử sự khách quan, đa số hành xử đúng đắn sẽ lầ tham chiếu chung để đánh giá hành động của từng cá nhân riêng lẻ.
Trên đây là một phần tóm gọn lại những ý chính trong cuốn sách Tư duy nhanh và chậm. Biết rằng chúng chưa thể nào lột tả hết những nghiên cứu lớn của tác giả cũng như sự dí dỏm, thông minh của ông trong từng tình huống, ví dụ ông đưa ra, nhưng mong rằng đây sẽ là lý do bạn chọn cuốn sách để tô điểm vào “thế giới sách” của chính mình.
Review chi tiết bởi Thu - Bookademy
---------------
Trở thành CTV viết reviews sách để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị cùng Bookademy. Gửi CV (Tiếng Anh hoặc Tiếng Việt) về: [email protected]
Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về các cuốn sách hay tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn
"Tư duy nhanh và chậm" đã mang đến một cuộc cách mạng trong cách chúng ta hiểu về tâm trí con người. Một trong những đóng góp quan trọng nhất của cuốn sách là việc chia tâm trí thành hai hệ thống: Hệ thống 1 và Hệ thống 2.
- Hệ thống 1: Đây là hệ thống tư duy nhanh, tự động và không cần nỗ lực. Nó chịu trách nhiệm cho những suy nghĩ và hành động hàng ngày của chúng ta, như nhận diện khuôn mặt, hiểu ngôn ngữ đơn giản, hay phản ứng lại những kích thích đột ngột. Hệ thống 1 hoạt động dựa trên kinh nghiệm và trực giác, giúp chúng ta đưa ra những quyết định nhanh chóng.
- Hệ thống 2: Ngược lại, hệ thống 2 hoạt động chậm hơn, cần nỗ lực hơn và đòi hỏi sự tập trung. Hệ thống 2 chịu trách nhiệm cho những hoạt động phức tạp như tính toán, suy luận logic, và đưa ra những quyết định quan trọng.
Kahneman cho rằng, mặc dù cả hai hệ thống đều quan trọng, nhưng hệ thống 1 thường chiếm ưu thế trong cuộc sống hàng ngày. Điều này dẫn đến nhiều sai lầm trong suy nghĩ và quyết định của chúng ta.
Bằng cách hiểu rõ cách hoạt động của hệ thống 1, chúng ta có thể nhận biết những cái bẫy tư duy mà mình thường mắc phải, như hiệu ứng khung hình, sai lầm đánh giá xác suất, hay thiên vị xác nhận.
Khi chúng ta hiểu rõ về hai hệ thống, chúng ta có thể chủ động hơn trong việc sử dụng hệ thống 2 để kiểm soát hệ thống 1, từ đó đưa ra những quyết định sáng suốt hơn.
Hiểu rõ về cách người khác tư duy sẽ giúp chúng ta giao tiếp hiệu quả hơn, tránh những hiểu lầm không đáng có.
Ví dụ: Khi chúng ta nhìn thấy một con chó, hệ thống 1 sẽ nhanh chóng nhận ra đó là một con chó. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn biết giống chó đó là gì, chúng ta sẽ phải sử dụng hệ thống 2 để phân tích các đặc điểm của con chó đó.
"Tư duy nhanh và chậm" đã cung cấp cho chúng ta một công cụ vô cùng hữu ích để hiểu rõ hơn về bản thân và thế giới xung quanh. Bằng cách hiểu rõ về hai hệ thống tư duy, chúng ta có thể trở nên tỉnh táo hơn, đưa ra những quyết định tốt hơn và sống một cuộc sống ý nghĩa hơn.