Không ngẫu nhiên một thứ gì đó được tôn vinh và coi trọng, tất nhiên cuốn sách này cũng vậy. Cuốn sách Tư duy nhanh và chậm của tác giả Daniel Kahneman đã giành được một số giải danh giá như Sách khoa học hay nhất của Học viện Khoa học Quốc gia 2012; Sách hay nhất năm 2011 do Thời báo New York bình chọn; là cuốn sách được quan tâm nhất năm 2011 của tạp chí Los Angeles.

Tác giả Daniel Kahaneman là giáo sư tâm lý học thuộc Đại học Princeton. Ông được coi là nhà tâm lí học vĩ đại nhất trên thế giới còn sống, đã từng được trao giải Nobel kinh tế năm 2002. Là người gốc Do Thái, ông đem tư duy, những kiến thứ uyên bác về hành vi con người trong hành trình khám phá và nghiên cứu hơn 30 năm của ông với đồng nghiệp; cùng sự dí dỏm, hài hước của mình vào cuốn sách để bạn hiểu cái hay của cuốn sách không chỉ là hàm lượng tri thức học thuật mà còn mang tính giải trí và sự hết sức khiêm tốn của tác giả.

Tôi cho rằng bất kỳ tác giả nào, khi viết một cuốn sách đều hình dung sẵn trong đầu những lợi ích mà độc giả sẽ lĩnh hội được sau khi đọc nó. Với tôi, lợi ích của việc đọc cuốn sách này được ẩn dụ dưới hình ảnh chiếc bàn uống nước được đặt trong các văn phòng – nơi mọi người thường ngồi trao đổi ý kiến, hay truyền tai nhau những câu chuyện phiếm. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ làm giàu vốn ngữ vựng cho độc giả mỗi khi đi đến một vài quyết định nhanh trong cuộc sống.

Còn về cuốn sách, được nhiều người nổi tiếng nhận xét như sau:

“Với những ai quan tâm đến đầu tư hoặc hành vi con người, cuốn sách của Kahneman là một tác phẩm đáng đọc. Trong cuốn sách này, ông chỉ ra rằng trong khi chúng ta luôn cho rằng quyết định mà mình đưa ra là hợp lý, thì thực ra chúng ta lại đang mắc phải những thành kiến. Ít nhất cuốn sách cũng đem đến cho người đọc cơ hội tốt hơn để tránh những sai lầm hay giảm thiểu chúng” – Larry Swedroe, CBS News.

“Daniel Kahneman đã thể hiện một cách mạnh mẽ trong cuốn sách mới của mình về việc làm thế nào để con người dễ dàng tách khỏi sự hợp lý” – Christopher Shea, The Washington Post.

“Một câu chuyện hết sức sâu sắc và hấp dẫn, là sự hòa quyện giữa những nghiên cứu của mình và của các nhà tâm lý học, kinh tế và chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác…Kahneman đã mất hàng thập kỷ để nghiên cứu và chắt lọc những giá trị đó để đem lại biết bao điều thú vị, hấp dẫn cho độc giả. Đây thực sự  là một cuốn sách rất đáng đọc. Bởi lẽ nó không phải là một cuốn sách khoa học bình thường, thường chỉ có một vài chương đầu tiên hữu ích, thú vị, còn các chương sau rất tẻ nhạt. Cuốn sách này là một trường hợp ngoại lệ hiếm hoi. Toàn bộ cuốn sách là sự hấp dẫn khó tả và chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng những điều đó vào cuộc sống hàng ngày. Tất cả mọi người đều nên đọc nó.” – Jesse Signal, Boston Globe.

“Lỗi lac… Từ này không thể nói hết được tầm quan trọng của những đóng góp của Dainel Kahneman trong việc hiểu cách thwucs chúng ta tư duy và lựa chọn. Ông đứng giữa những người khổng lồ giống như một tay thợ dệt với những sợi chỉ của Charles Darwin, Adam Smith và Sigmund Freud. Như mọi nhà tâm lý học quan trọng bậc nhất trong lịch sử nhân loại, Kahneman đã định hình lại tâm lý học nhận thức, phân tích tính hợp lý và lý trí, hiểu biết về nguy cơ, nghiên cứu về hạnh phúc và an sinh…Một tác phẩm kiệt xuất gây ấn tượng mạnh mẽ trong chính tham vọng của nó, truyền tải rất nhiều kiến thức, sự khôn ngoan với tâm thái hết sức khiêm tốn và nhân văn sâu sắc. Nếu trong năm nay bạn chỉ được đọc một cuốn sách, tôi khuyên bạn nên chọn cuốn sách này.” – Janice Gross Stein, The Globe and Mail.

Trong Tư duy nhanh và chậm, Kahneman mô tả hai cách thức mà não chúng ta vận hành. Ông gọi đó là Hệ thống 1Hệ thống 2. Nếu như Hệ thống 1, còn gọi là cơ chế nghĩ nhanh, tự động, thường xuyên được sử dụng, cảm tính, rập khuôn và tiềm thức; thì Hệ thống 2 với cơ chế nghĩ chậm, đòi hỏi nỗ lực, ít được sử dụng, dùng logic, có tính toán và ý thức. Trong một loạt thí nghiệm tâm lý, Daniel Kahneman và Amos Tversky (đồng nghiệp của ông) chúng minh rằng con người chúng ta thường đi đến quyết định theo cơ chế nghĩ nhanh hơn là nghĩ chậm. Phần lớn nội dung của cuốn sách là chỉ ra những sai lầm trong Hệ thống 1. Chẳng hạn, chúng ta vẫn tưởng con người vốn đầy lý trí, quyết định có suy tính cẩn thận, nhưng Kahneman và Tversky đã chứng minh trong cuộc sống hàng ngày và cả đời sống kinh tế, chúng ta thường quyết định một cách thiếu nhất quán, cảm tính và đầy chủ quan. Kahneman chứng minh rằng chúng ta tệ hơn những gì chúng ta tưởng: đó là chúng ta không biết những gì chúng ta không biết.

Cơ chế hoạt động của 2 hệ thống trong một con người, khi được nhìn nhận trên quy mô lớn hơn, có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động kinh tế xã hội. Hai hệ thống này chính là con người Kinh tế hư cấu sống trên mảnh đất lý thuyết và con người Hành động trong thế giới thực tại. – PGS.TS Trương Gia Bình, Chủ tịch Tập đoàn FPT.

Cuốn sách này được chia làm năm phần.

http://static.ybox.vn/2017/9/15/03b91ca4-9a22-11e7-a311-56c566ee3692.JPG

PHẦN I: HAI HỆ THỐNG

Dưới đây là một số ví dụ về những hoạt động tự động làm nên Hệ thống 1:

  • Phát hiện ra một đồ vật nằm xa hơn so với các đồ vật khác.
  • Nhận ra người khác đang giận dữ, vui mừng.
  • Nhăn mặt khi ăn một quả chanh.
  • Nhận ra sự ganh ghét, thù địch trong một giọng nói.
  • Trả lời được câu hỏi 1+1=?
  • Đọc chữ trên những tấm biển lớn.
  • Lái xe trên một con đường vắng.
  • Hiểu nghĩa những câu đơn giản.
  • Nhận ra cụm từ “một người hiền lành và gọn gàng”, ám chỉ người thuộc loại nghề nghiệp nào.

Một vài hoạt động trí não trong danh sách trên diễn ra hoàn toàn tự động không cần bất cứ sự tập trung nào. Bạn không thể ngăn mình hiểu những câu nói đơn giản bằng ngôn ngữ mẹ đẻ hay nhận ra âm thanh lạ bất chợt xuất hiện, cũng như bạn không thể ngăn bản thân biết được phép cộng đơn giản 1+1= 2 hay nghĩ đến Hà Lan có những cánh đồng hoa tuy-lip rực rỡ, tuyệt đẹp. Khả năng của Hệ thống 1 còn bao gồm cả những kỹ năng bẩm sinh của loài người cũng như các loài động vật khác. Chúng ta sinh ra đều được chuẩn bị nhận thức về thế giới xung quanh, nhận biết các đồ vật, định hướng chú ý, tránh sự mất mát và khiếp sợ những con rắn có nọc độc chết người. Những hoạt động đó trở nên nhanh nhẹn và tự động vì nó thường xuyên được luyện tập. Hệ thống 1 còn học cách liên kết các ý tưởng (ví dụ: “Thủ đô của nước Việt Nam là gì?”), nó cũng  học được những kỹ năng như đọc và hiểu những sắc thái khác nhau trong những tình huống xã hội khác nhau. Tri thức được lưu trữ trong bộ nhớ và chúng ta truy cập vào nó mà không cần huy động sự cố gắng cũng như phải có sự tập trung cao độ.

Hệ thống 1 hoạt động theo cơ chế tự động và mau lẹ, với rất ít hoặc hầu như không cần cố gắng và không tự động kiểm soát.

Còn các hoạt động của Hệ thống 2 rất đa dạng nhưng chúng có một điểm chung: Chúng đều đòi hỏi sự chú ý và sẽ kết thúc khi bạn không còn tập trung nữa. Dưới đây là một số hoạt động thuộc Hệ thống 2:

  • Tập trung vào diễn biến của trận bóng chày.
  • Dỏng tai lên đợi tiếng súng ra hiệu bắt đầu một cuộc đua.
  • Tập trung lắng nghe tiếng nói của một người nhất định trong một căn phòng ồn ào.
  • Duy trì tốc độ đi bộ nhanh hơn tốc độ đi bộ bình thường.
  • Cho ai đó biết số điện thoại của bạn.
  • So sánh hai chiếc điện thoại dựa trên giá trị sử dụng của chúng.
  • Lục trong trí nhớ tên của một bộ phim đã được trình chiếu từ rất lâu.
  • Đếm số xuất hiện chữ cái a trong một trang sách dày đặc chữ.
  • Tìm kiếm một người đàn ông đầu trọc.

Trong tất cả những tình huống trên, bạn buộc phải tập trung chú ý và hiệu quả thường kém, thậm chí là tệ hại nếu bạn không sẵn sang hoặc sự chú ý của bạn bị chuyển hướng sang các chủ đề không thích hợp. Hệ thống 2 có khả năng thay đổi cách thức hoạt động của Hệ thống 1, bằng cách lập trình tự động những chức năng chú ý và ghi nhớ thông thường.

Cụm từ hay được sử dụng “tập trung chú ý” là để chỉ khả năng: Bạn phải sử dụng sự chú ý tạm thời của bản thân, đổi lại bạn có thể phán đoán được các hoạt động và nếu cố gắng sử dụng vượt quá khả năng chú ý của mình, bạn sẽ thất bại. Đó chính là dấu hiệu của những hoạt động đòi hỏi sự chú ý mà chúng có sự tương tác lẫn nhau, đó là lý do vì sao bạn không thể xử lý nhiều vấn đề phức tạp cùng một lúc. Bạn có thể vừa lau nhà vừa tám điện thoại với cô bạn thân, nhưng bạn không thể vừa tính nhẩm 11 x 97 vừa cố lái cho xe rẽ trái được.

Hệ thống 2 tập trung sự  chú ý đối với những hoạt động tư duy đòi hỏi sự nỗ lực, bao gồm những phép tính phức tạp. Cơ chế hoạt động của Hệ thống 2 thường gắn với những kinh nghiệm chủ quan, sự lựa chọn và tập trung của chủ thể.

Theo suy nghĩ của tác giả về hai hệ thống,

Khi nghĩ về bản thân, chúng ta thường nhận mình gần với Hệ thống 2, là một con người ý thức và duy lý, có đức tin, luôn suy nghĩ chín chắn trong từng hành động khi phải đưa ra những quyết định và lựa chọn. Hệ thống 2 luôn nghĩ rằng nó chính là nguồn gốc của hành động, tuy nhiên, Hệ thống tự động 1 mới là “ người hùng” của vở kịch tâm lý này. Tôi mô tả Hệ thống 1 như là những ấn tượng và cảm xúc thụ động ban đầu, là nguồn gốc chính hình thành những niềm tin và lựa chọn cẩn trọng của hệ thống 2. Cơ chế tự động củ Hệ thống 1 hình thành lên những ý tưởng với những khía cạnh phức tạp kinh ngạc, nhưng Hệ thống 2 mới có khả năng cấu trúc lại những suy nghĩ đó tuần tự theo từng bước.

Sự tương tác giữa hai hệ thống là chủ đề lập đi lặp lại trong cuốn sách này. Hệ thống 1 hoạt động tự động và Hệ thống 2 thì thường xuyên thoải mái ở chế độ ít nỗ lực. Hệ thống 1 liên tục phát đi những tín hiệu gợi ý cho Hệ thống 2 như: ấn tượng, trực giác, sự chú ý và cảm xúc. Nêu chúng được Hệ thống 2 xác nhận, ấn tượng à trực giác sẽ chuyển thành niềm tin và thúc đẩy chúng trở thành những hành động tự động. Khi mọi thứ hoạt động nhuần nhuyễn, vốn thường ăn ý trong hầu hết thời gian, Hệ thống 2 sẽ tiếp nhận sự gợi ý của Hệ thống 1 mà rất ít thay đổi hoặc lhoong thay đổi gì.

Chúng ta cũng cảm giác cố gắng tập trung đọc một cuốn sách tẻ nhạt, đôi khi bạn đọc lại cả một đoạn văn vì bạn bỗng chẳng hiểu nó viết về cái gì. Chúng ta đều biết cảm giác cố gắng không nhìn chằm chằm vào một cặp đôi ăn vận kỳ cục ở bàn kế bên trong một nhà hàng. Hay tất cả mọi người sống trên đời này đều từng trải nghiệm cảm giác đừng nguyền rủa một ai đó cút xuống địa ngục. Một trong những nhiệm vụ của Hệ thống 2 là vượt qua những thôi thúc của Hệ thống 1. Hay chính Hệ thống 2 đảm nhận phần tự chủ trong chúng ta. Vì vậy, mà Hệ thống 2 càng cần đến sự chú ý và nỗ lực.

Nếu bỗng nhiên có cơ hội biến cuốn sách này thành một bộ phim thì hẳn Hệ thống 2 sẽ chỉ được nhận vai phụ, song nó lại đinh ninh mình là vai chính chứ chẳng sai. Trong bộ phim này, điểm hạn chế của vai diễn phụ - Hệ thống 2 là nó được vận hành bằng cơ chế nỗ lực và một trong những tính cách điển hình của nhân vật này là lười biếng, nó miễn cưỡng đầu tư thêm nỗ lực trừ khi rơi vào những tình huống bắt buộc. Hệ quả là, những tư duy và hành động mà Hệ thống 2 tin chọn lại thường bị nhân vật chính thực sự (Hệ thống 1) của bộ phim chỉ đạo. Tuy vậy, có những nhiệm vụ quan trọng mà chỉ Hệ thống 2 mới thực hiện được, bởi chúng đòi hỏi nỗ lực và hành động tự kiểm soát mà sự bản năng và bôc đồng của Hệ thống 1 không thể nào làm được.

Thông thường vừa đi bộ vừa suy nghĩ cu cơ là chuyện bình thường và trong thực tế còn là điều khá dễ chịu nữa, nhưng trong trường hợp những hoạt động này bị đẩy lên một mức căng thẳng nào đó thì sẽ là thách thức đối với nguồn lực có hạn của Hệ thống 2. Ví dụ, bạn đang đi chơi thoải mái với một người bạn, bỗng nhiên bạn bảo anh ta thử tính 23 x 45 bằng bao nhiêu, và tính ngay lập tức. Gần như anh ta sẽ khựng lại trong giây lát. Việc đang thảnh thơi đi dạo mà bắt não hoạt động tải một lượng dữ liệu lớn trong bộ nhớ ngắn hạn, quả thật rất khó khăn.

Hệ thống 2 – Bận rộn và suy yếu

Giờ đây người ta đã tổng kết một danh sách dài và đa dạng những tình huống và nhiệm vụ được cho là có khả năng rút kiệt sự tự chủ của con người. Tất cả đều tiềm ẩn những mâu thuẫn và đi ngược lại nhu cầu xu hướng tự nhiên của con người. Ví dụ:

  • Tránh xa những con hổ
  • Kiềm chế bộc lộ cảm xúc khi xem một bộ phim gay cấn, hồi hộp hoặc quá tình cảm, sướt mướt.
  • Đưa ra một loạt lựa chon gây tranh cãi.
  • Cố gắng gây ấn tượng với người khác.
  • Phản ứng tử tế trước một hành động xấu của bạn đời.

Danh sách những chỉ dẫn suy yếu cũng khá đa dạng:

  • Lên thực đơn ăn kiêng, tập gym.
  • “Vung tay quá chán” trong một cơn cuồng mua sắm.
  • Phản ứng thái quá khi bị khiêu khích.
  • Thể hiện kém trong một nhiệm vụ phải tư duy và khi phải đưa ra lời giả thích cần sự logic.

Tất cả quá trình ấy khiến ta cảm thấy kiệt sức và không mấy dễ chịu. Không giống quá trình tư duy, sự suy yếu bản ngã khiến ta bị mất ít nhất một phần động lực sau mỗi nhiệm vụ đòi hỏi sự kiểm soát. Có thể sau khi bạn hoàn thành chúng, bạn không muốn cố gắng trong những nhiệm vụ tiếp theo, nếu như bạn bị bắt buộc thì vẫn có thể tiếp tục nhưng hay ho cho lắm.

Hệ thống 2 lười biếng

Hãy cố gắng xác định, càng nhanh càng tốt, nếu bạn thấy lập luận này hợp logic. Từ hai mệnh đề này thì kết luận sau có hợp lý không?

Hoa hồng là một loài hoa.

Vài loài hoa chóng tàn.

Cho nên có vài loài hoa hồng chóng tàn.

Thoáng qua có vẻ hợp lý, nhưng không.

Đa số các sinh viên đại học được hỏi đều xác nhận tam đoạn luận này hợp logic. Thực tế, lập luận này không chặt chẽ, bởi vì có thể xảy ra khả năng hoa hồng không nằm trong số những loài hoa chóng tàn. Một đáp án có vẻ hợp lý đã lập tức xuất hiện trong đầu bạn. Để tránh “cái bẫy” này đòi hỏi đầu óc phải làm việc căng thẳng – tức chống lại “tiếng nói” khe khẽ cất lên trong đầu: “Đúng rồi, đúng rồi!” khiến cho việc kiểm tra tính chuẩn xác của vấn đề trở nên khó khăn hơn và mọi người hầu như ngại suy nghĩ thấu đáo cho một vấn đề nào đó. Thí nghiệm này cho thấy, khi người ta đặt lòng tin vào một kết luận, họ sẽ có xu hướng tin tưởng vào những ý kiến bổ trợ cho kết luận đó, ngay cả khi chúng không có căn cứ.

Sự kỳ diệu của hiệu ứng mồi

Khi bạn nhìn thấy hay nghe từ ĂN (EAT) thì trong khoảnh khắc bạn sẽ điền từ còn thiều của từ SO_P là SOUP (cháo, súp) thay vì từ SOAP (xà phòng). Và ngược lại, nếu bạn nhìn thấy từ TẮM (WASH) thì chắc rằng bạn sẽ điền là SOAP chứ không phải SOUP. Đó là hiệu ứng mồi, cách mà từ ĂN đã mồi cho từ SOUP, từ TẮM mồi cho từ SOAP. “Hiệu ứng mồi” được thể hiện ở rất nhiều dạng thức. Và tất nhiên bạn sẽ không chỉ được mồi để bật ra ý tưởng liên quan đến súp, mà còn hàng nghìn ý tưởng liên quan khác như đói, béo, ăn kiêng…Một ý tưởng nhỏ bé có thể tạo làn sóng lan tỏa cho những ý tưởng nối tiếp nhau như khi ném một hòn sỏi xuống mặt hồ. Hiệu ứng mồi có thể chạm đến mọi ngóc ngách trong đời sống.

Ví dụ, hầu hết chúng ta đều nghĩ bầu cử là một hành động được cân nhắc kỹ lưỡng, không bị tác động bởi bất cứ điều gì và phiếu bầu của chúng ta không thể bị ảnh hưởng bởi địa điểm diễn ra cuộc bầu cử, nhưng thực tế lại chứng minh ngược lại. Một nghiên cứu về các yếu tố liên quan đến bầu cử ở Arizona năm 2000 đã chứng minh: Tỷ lệ ủng hộ gây quỹ cho các trường học đã tăng một cách đáng kể khi địa điểm bỏ phiếu được diễn ra ở trường học so với khi tổ chức bầu cử ở một địa điểm gần đó. Một thí nghiệm khác cũng cho thấy trưng bày những hình ảnh về các lớp học và trường học cũng giúp tăng xu hướng ủng hộ các sáng kiến của nhà trường của những người bỏ phiếu. Hiệu ứng hình ảnh đối với phụ huynh và những thành phần cử tri là khác nhau.

Hiệu ứng hào quang

Xu hướng yêu thích (hoặc ghét bỏ) mọi thứ thuộc về một người, bao gồm cả những thứ bạn không bao giờ trực tiếp quan sát được biết với tên gọi “Hiệu ứng hào quang”. Đó là cái tên hay cho sai lệch phổ biến, đóng vai trò lớn trong cách chúng ta nhận định về con người và hoàn cảnh. Đó là một trong những cách tái hiện một thế giới mà Hệ thống 1 vận hành một cách đơn giản hơn và nhiều liên kết hơn so với đời thực.

Bạn nghĩ thế nào về Ben và Alan khi thấy những điều này:

Alan: thông minh – chăm chỉ - bốc đồng – khó tính – cứng đầu – đố kỵ

Ben: đố lỵ - cứng đầu – khó tính – bốc đồng – chăm chỉ - thông minh

Giống hầu hết mọi người, bạn sẽ thấy Alan đáng mến hơn Ben rất nhiều. Có phải do nét tính cách “thông minh – chăm chỉ”? Nào bạn hãy quan sát thật kỹ lần nữa, có phải điều đó cũng xuất hiện trong phần tính cách của Ben? Những nét tính cách đầu tiên trong danh sách đã làm thay đổi hầu hết ý nghĩa của những tính cách cuất hiện phía sau. Sự cứng đầu của một người thông minh thường dễ được chấp nhận và thậm chí còn khiến người ta phải tôn trọng hơn nhưng sự thông minh trong một kẻ đố kỵ và cứng đầu khiến anh ta trở nên nguy hiểm hơn rất nhiều. Tuy vậy, thứ tự xuất hiện là cả vấn đề , bởi vì hiệu ứng hào quang sẽ làm tăng sức nặng của những ấn tượng đầu tiên, đôi khi khiến những thông tin phía sau trở nên vô nghĩa.

Bạn chỉ biết điều mà bạn biết (WYSIATI)

Sự kết hợp giữa Hệ thống 1 tìm kiếm sự liên kết với Hệ thống 2 lười biếng khiến cho Hệ thống 2 sẽ xác lập rất nhiều niềm tin bản năng , phản ánh khá sát những ấn tượng thông thường do Hệ thống 1 xác lập. Tất nhiên, Hệ thống 2 có khả năng hệ thống hóa và cẩn trọng hơn khi tiếp cận với các chứng cứ và sẽ có một loạt lựa chọn được đánh dấu trước khi đưa ra quyết định, ví dụ khi mua một căn nhà, bạn sẽ phải tìm kiếm cho được những thông tin mà bạn không có. Tuy nhiên, Hệ thống 1 được cho là ảnh hưởng nhiều hơn đến các quyết định cần sự suy tính cẩn trọng và đầu vào của nó không bao giờ ngừng thu nhận thông tin. Cơ chế nhảy tắt đến kết luận dựa trên dữ liệu giới hạn cơ bản rất quan trọng trong việc lý giải tư duy trực giác, và được tác giả sử dụng cụm từ viết tắt cho khái niệm này: WYSIATI (What you see is all there is – bạn chỉ biết cái mà bạn biết).

WYSIATI giải thích tại sao chúng ta có thể suy nghĩ rất nhanh và làm thế nào mà chỉ từ rất ít thông tin trong thế giới phức tạp này, chúng ta xây dựng thành một câu chuyện có ý nghĩa. Hầu hết thời gian, những câu chuyện gắn kết với nhau, được chúng ta đặt cạnh nhau một cách tương thích nhằm cổ vũ cho những hành động có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, tôi cũng dungfWWYSIATI để giải thích cho rất nhiều những loại sai lệch khi phải đưa ra nhận định và lựa chọn, sau đây là một số cách lý giải:

  • Tự tin thái quá: Khi áp đặt nguyên tắc WYSIATI thì chất lượng hay số lượng các bằng chứng không có mấy giá trị đối với một chủ thể đầy tự tin. Sự tự tin mà các cá nhân có được trong đức tin của họ phụ thuộc hầu hết vào sức thuyết phục của câu chuyện mà họ kể từ những gì họ nhìn thấy , dù chỉ rất ít. Con người hiếm khi thừa nhận một khả năng hiển nhiên có thể xảy ra, đó là lập luận của chúng ta thiếu tính phản biện. Bởi vì đó là tất cả những gì mà chúng ta biết. Hơn thế nữa, hệ thống liên kết có xu hướng ngừng hoạt động ngay khi tìm thấy một khía cạnh liên kết, và ngăn chặn nghi ngờ và sự tối nghĩa.
  • Hiệu ứng khung: Những cách diễn giải khác nhau từ cùng một nguồn dữ liệu thường tạo ra nhiều tâm trạng khác nhau. Câu khẳng định “tỷ lệ sống sót sau một tháng sau phẫu thuật là 90%” nghe dễ chịu hơn câu khẳng định “tỷ lệ tử vong sau một tháng phẫu thuật là 10%”, mặc dù hai câu có ý nghĩa tương đương. Tương tự, khi miêu tả thịt nguội đã được “giảm 90% chất béo” sẽ hấp dẫn hơn khi miêu tả thịt nguồi với “10% chất béo”. Rõ ràng các công thức tương đương nhau về nghĩa nhưng thông thường một người chỉ nhìn thấy một công thức và đó là tất cả những gì anh ta biết.
  • Bỏ qua đánh  giá  cơ bản: Steve, anh chàng chỉn chu và cẩn thận, người được mọi người cho là có nhiều khả năng trở thành thủ thư mẫn cán. Dù anh ta chỉ được mô tả bằng hai nét tính cách nổi bật và sống động nhất, dù bạn biết chắc số lượng nông dân cũng có tính cách như thế nhiều hơn so với những người làm thủ thư, nhưng thực tế thì con số thống kê chắc chắn không xuất hiện trong hiểu biết của bạn khi phải trả lời cho câu hỏi phỏng đoán nghề nghiệp của anh chàng này. Tất cả những gì bạn biết đến chỉ có từng ấy mà thôi.  

PHẦN II: SUY NGHIỆM VÀ SAI LỆCH

Phần này cập nhật những nghiên cứu về những phán đoán suy nghiệm và khám phá một vấn đề cơ bản: Tại sao con người lại khó khăn tư duy dựa trên những hiện thực thống kê? Chúng ta dễ dàng tư duy liên tưởng, tư duy ẩn dụ, hay tư duy nguyên nhân – hệ quả nhưng chúng ta lại thấy khó khăn khi tư duy dựa trên hiện thực thống kê,bởi sự tư duy này đòi hỏi não bộ của chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều thứ xảy ra cùng một lúc, đó chính là điều mà Hệ thống 1 không được thiết kế đảm nhiệm.

http://static.ybox.vn/2017/9/15/12c774a2-9a22-11e7-bb32-56c566ee3692.JPG

PHẦN III: TỰ TIN THÁI QUÁ

Những khó khăn của việc tư duy dựa trên hiện thực thống kê là nội dung của phần III này, trong đó mô tả những giới hạn của não bộ chúng ta như: Niềm tin thái quá vào những gì chúng ta tin là mình hiểu biết và hiển nhiên đó chính là sự bất lực của chúng ta trong việc nhận ra sự “vô tri” của chính mình ở cấp độ cao nhất của quá trình nhận thức, và sự thiếu chắc chắn cảu thế giới mà chúng ta đang sống. Chúng ta dễ dãi đánh giá quá cao sự hiểu biết của mình về thế giới, bên cạnh đó, lại đánh giá quá thấp vai trò cơ hội trong mỗi sự kiện diễn ra hàng ngày. Đây chính là sự tự tin thái quá được chính ảo tưởng giá trị về sự “nhận thức muộn” nuôi nấng. Cùng những câu chuyện phiếm của Kahneman mở ra cho chúng ta bài học hữu ích mỗi người có thể học tập từ quá khứ trong khi cưỡng lại sức quyến rũ của “nhận thức muộn” và “ảo tưởng về giá trị”.

http://static.ybox.vn/2017/9/15/210c2710-9a22-11e7-aca2-2e995a9a3302.JPG

PHẦN IV: NHỮNG LỰA CHỌN

Phần này tập trung thảo luận các nguyên tắc của ngành Kinh tế học về bản chất của vấn đề ra quyết định, với giả định các nhân tố kinh tế học và lý trí. Kahneman có đưa ra quan điểm hiện nay về những khái niệm chính trong “lý thuyết viễn cảnh” được hình thành bởi một mô hình hai hệ thống, một mô hình của sự lựa chọn mà ông cùng đồng nghiệp Amos đã xuất bản năm 1979. Sau đó, chỉ ra một vài lựa chọn của con người sai lệch so với nguyên tắc của tư duy duy lý. Ông phải xử lý một xu hướng đáng tiếc thường thấy của con người khi giải quyết các vấn đề, đó là tách biệt các vấn đề, và chịu ảnh hưởng từ các “hiệu ứng khung”, trong đó các quyết định được đưa ra dựa trên những lựa chọn các yếu tố bất hợp lý liên quan. Những quan sát như vậy, hoàn toàn có thể dễ dàng được giải thích bằng Hệ thống 1, lại trở thành một thách thức lớn đối với giả định các yếu tố chuẩn trong Kinh tế học đều lý trí vốn đã rất được ưa chuộng.

PHẦN V: HAI BẢN THỂ

Phần này mô tả các nghiên cứu gần đây mà trong đó tác giả muốn giới thiệu tới sự khác biệt giữa hai cái tôi, một cái tôi kinh nghiệm và một cái tôi ghi nhớ, cả hai có những mối quan tâm riêng. Ví dụ, chúng ta có thể thấy con người có hai kiểu trải nghiệm không mấy dễ chịu. Một số trải nghiệm của chúng ta diễn ra trong thời gian dài, do đó chắc chắn nó là trải nghiệm tệ hại hơn những trải nghiệm còn lại. Nhưng chức năng tự động của bộ nhớ - một tính năng của Hệ thống 1 – có những nguyên tắc, mà chúng ta có thể lợi dụng sao cho những ký ức tệ hơn được ghi nhớ tốt hơn. Sau này khi con người chọn những hồi ức để nhớ lại, một cách tự nhiên, họ sẽ được dẫn dắt bởi sự ghi nhớ bản thân và nhờ vào đó (cái tôi kinh nghiệm) đã gợi đến những ký ức không cần thiết. Sự phân biệt giữa hai cái tôi được ứng dụng để kiểm nghiệm hành vi, ở đó chúng ta lại một lần nữa nhận thấy cái gì khiến cho cái tôi kinh nghiệm hạnh phúc hóa ra là không hoàn toàn là cái làm cho cái tôi ghi nhớ. Làm thế nào để hai cái tôi này trong cùng một cơ thể, có thể theo đuổi hạnh phúc là một câu hỏi không hề dễ dàng trả lời được, trong đó hành xử đúng đắn của đại đa số mọi người đã trở thành một chuẩn mực chung được quy ước và công nhận là cách xử sự khách quan, đa số hành xử đúng đắn sẽ lầ tham chiếu chung để đánh giá hành động của từng cá nhân riêng lẻ.

Trên đây là một phần tóm gọn lại những ý chính trong cuốn sách Tư duy nhanh và chậm. Biết rằng chúng chưa thể nào lột tả hết những nghiên cứu lớn của tác giả cũng như sự dí dỏm, thông minh của ông trong từng tình huống, ví dụ ông đưa ra, nhưng mong rằng đây sẽ là lý do bạn chọn cuốn sách để tô điểm vào “thế giới sách” của chính mình.

 

Review chi tiết bởi Thu - Bookademy

---------------

Trở thành CTV viết reviews sách để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị cùng Bookademy. Gửi CV (Tiếng Anh hoặc Tiếng Việt) về: [email protected]

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về các cuốn sách hay tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Xem thêm

"Tư duy nhanh và chậm" đã mang đến một cuộc cách mạng trong cách chúng ta hiểu về tâm trí con người. Một trong những đóng góp quan trọng nhất của cuốn sách là việc chia tâm trí thành hai hệ thống: Hệ thống 1 và Hệ thống 2.

- Hệ thống 1: Đây là hệ thống tư duy nhanh, tự động và không cần nỗ lực. Nó chịu trách nhiệm cho những suy nghĩ và hành động hàng ngày của chúng ta, như nhận diện khuôn mặt, hiểu ngôn ngữ đơn giản, hay phản ứng lại những kích thích đột ngột. Hệ thống 1 hoạt động dựa trên kinh nghiệm và trực giác, giúp chúng ta đưa ra những quyết định nhanh chóng.

- Hệ thống 2: Ngược lại, hệ thống 2 hoạt động chậm hơn, cần nỗ lực hơn và đòi hỏi sự tập trung. Hệ thống 2 chịu trách nhiệm cho những hoạt động phức tạp như tính toán, suy luận logic, và đưa ra những quyết định quan trọng.

Kahneman cho rằng, mặc dù cả hai hệ thống đều quan trọng, nhưng hệ thống 1 thường chiếm ưu thế trong cuộc sống hàng ngày. Điều này dẫn đến nhiều sai lầm trong suy nghĩ và quyết định của chúng ta.

Bằng cách hiểu rõ cách hoạt động của hệ thống 1, chúng ta có thể nhận biết những cái bẫy tư duy mà mình thường mắc phải, như hiệu ứng khung hình, sai lầm đánh giá xác suất, hay thiên vị xác nhận.

Khi chúng ta hiểu rõ về hai hệ thống, chúng ta có thể chủ động hơn trong việc sử dụng hệ thống 2 để kiểm soát hệ thống 1, từ đó đưa ra những quyết định sáng suốt hơn.

Hiểu rõ về cách người khác tư duy sẽ giúp chúng ta giao tiếp hiệu quả hơn, tránh những hiểu lầm không đáng có.

Ví dụ: Khi chúng ta nhìn thấy một con chó, hệ thống 1 sẽ nhanh chóng nhận ra đó là một con chó. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn biết giống chó đó là gì, chúng ta sẽ phải sử dụng hệ thống 2 để phân tích các đặc điểm của con chó đó.

"Tư duy nhanh và chậm" đã cung cấp cho chúng ta một công cụ vô cùng hữu ích để hiểu rõ hơn về bản thân và thế giới xung quanh. Bằng cách hiểu rõ về hai hệ thống tư duy, chúng ta có thể trở nên tỉnh táo hơn, đưa ra những quyết định tốt hơn và sống một cuộc sống ý nghĩa hơn.

Tư duy Nhanh và Chậm của Daniel Kahneman không chỉ là một cuốn sách, mà còn là một cuộc cách mạng trong cách chúng ta hiểu về bản thân và cách chúng ta đưa ra quyết định. Cuốn sách đã vượt qua giới hạn của một nghiên cứu khoa học để trở thành một hiện tượng văn hóa, ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều lĩnh vực trong cuộc sống.

Kahneman đã phơi bày những góc khuất trong tư duy của chúng ta, cho thấy rằng con người không hoàn toàn hợp lý như chúng ta vẫn tưởng. Thay vào đó, chúng ta bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố tâm lý, cảm xúc và định kiến.

Hiểu rõ về hai hệ thống tư duy giúp chúng ta nhận biết và kiểm soát những sai lầm tư duy thường gặp. Nhờ đó, chúng ta có thể đưa ra những quyết định sáng suốt hơn trong cuộc sống cá nhân, công việc và đầu tư.

Kahneman và Amos Tversky đã đặt nền móng cho lĩnh vực này, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hành vi của người tiêu dùng và nhà đầu tư. Các doanh nghiệp sử dụng những kiến thức từ cuốn sách để thiết kế các chiến dịch marketing hiệu quả hơn, khai thác tâm lý khách hàng. Các nhà hoạch định chính sách sử dụng những phát hiện của Kahneman để thiết kế các chính sách hiệu quả hơn, khuyến khích người dân đưa ra những lựa chọn tốt hơn. Cuốn sách đã góp phần thay đổi cách chúng ta dạy và học, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cách học sinh tiếp thu kiến thức. Cuốn sách đã tạo ra một làn sóng nghiên cứu mới về tâm lý học, kinh tế học hành vi và khoa học quyết định.

Kahneman đã có khả năng chuyển tải những khái niệm khoa học phức tạp thành những câu chuyện hấp dẫn và dễ hiểu. Cuốn sách đưa ra rất nhiều ví dụ thực tế từ cuộc sống hàng ngày, giúp người đọc dễ dàng hình dung và liên hệ. Những kiến thức trong cuốn sách có thể được áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống.

"Tư duy Nhanh và Chậm" là một cuốn sách có giá trị lâu dài. Nó không chỉ cung cấp cho chúng ta những kiến thức mới về bản thân mà còn là một công cụ hữu ích để chúng ta sống một cuộc sống tốt đẹp hơn. Cuốn sách đã và đang tiếp tục tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến xã hội.

Tư duy Nhanh và Chậm của Daniel Kahneman không chỉ là một cuốn sách bán chạy mà còn là một cột mốc quan trọng trong lĩnh vực tâm lý học và kinh tế hành vi. Cuốn sách đã tổng hợp và trình bày một cách mạch lạc, dễ hiểu những nghiên cứu sâu rộng của tác giả về cách con người ra quyết định.

Khái niệm về Hệ thống 1 (nhanh, trực giác) và Hệ thống 2 (chậm, suy luận) đã trở thành một trong những đóng góp quan trọng nhất của Kahneman. Mô hình này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những lý do tại sao con người lại đưa ra những quyết định có vẻ mâu thuẫn.

Kahneman, cùng với Amos Tversky, đã phát triển lý thuyết triển vọng, một lý thuyết về ra quyết định dưới điều kiện không chắc chắn. Lý thuyết này cho thấy rằng con người đánh giá mất mát lớn hơn so với lợi nhuận tương đương.

Cách thức mà một vấn đề được trình bày (khung) có thể ảnh hưởng đáng kể đến quyết định của chúng ta. Kahneman đã chứng minh điều này qua nhiều thí nghiệm nổi tiếng.

Công trình của Kahneman đã xây dựng trên nền tảng của các nhà tâm lý học trước đó như Herbert Simon, người đã đề xuất khái niệm "hạn chế về tính hợp lý" (bounded rationality). Tuy nhiên, Kahneman đã đi sâu hơn vào việc nghiên cứu các quy tắc ngầm mà con người sử dụng để đơn giản hóa các quyết định phức tạp.

So với các nghiên cứu khác trong lĩnh vực kinh tế hành vi, công trình của Kahneman có tính tổng hợp và bao quát hơn. Ông đã kết hợp các kiến thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau như tâm lý học nhận thức, kinh tế học, và khoa học quyết định để tạo ra một bức tranh toàn diện về cách con người ra quyết định.

Cuốn sách đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế học hành vi, một lĩnh vực nghiên cứu về những yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến quyết định kinh tế.

Các doanh nghiệp sử dụng những kiến thức từ cuốn sách để thiết kế các chiến dịch marketing hiệu quả hơn, khai thác tâm lý khách hàng.

Các nhà hoạch định chính sách sử dụng những phát hiện của Kahneman để thiết kế các chính sách hiệu quả hơn, khuyến khích người dân đưa ra những lựa chọn tốt hơn cho sức khỏe, tài chính, và các vấn đề xã hội khác.

"Tư duy Nhanh và Chậm" là một cuốn sách mang tính đột phá, đã và đang có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Công trình của Kahneman đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của con người và những giới hạn của tư duy. Cuốn sách không chỉ là một tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học mà còn là một công cụ hữu ích cho bất kỳ ai muốn hiểu rõ hơn về cách mình và những người xung quanh đưa ra quyết định.

Tư duy nhanh và chậm của Daniel Kahneman không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn là một công cụ vô cùng hữu ích cho các nhà kinh doanh. Bằng cách hiểu rõ về hai hệ thống tư duy của con người, chúng ta có thể đưa ra những quyết định kinh doanh sáng suốt hơn và đạt được thành công bền vững.

Bằng cách nắm bắt được cách khách hàng tư duy, các doanh nghiệp có thể tạo ra những sản phẩm, dịch vụ và chiến dịch marketing phù hợp với tâm lý của họ. Hệ thống 1 thường bị thu hút bởi những yếu tố trực quan, cảm xúc, trong khi hệ thống 2 lại đánh giá cao thông tin chi tiết và logic. Trong kinh doanh, rủi ro luôn hiện hữu. Hiểu rõ về những sai lầm tư duy thường gặp sẽ giúp các nhà quản lý đưa ra những quyết định thận trọng hơn và giảm thiểu thiệt hại. Khi đàm phán, việc hiểu rõ về cách đối tác tư duy sẽ giúp chúng ta đưa ra những đề xuất hấp dẫn và đạt được thỏa thuận có lợi cho cả hai bên. Một người lãnh đạo giỏi không chỉ cần có kiến thức chuyên môn mà còn phải có khả năng hiểu và quản lý con người. Bằng cách áp dụng những kiến thức từ cuốn sách, các nhà lãnh đạo có thể xây dựng một đội ngũ làm việc hiệu quả và tạo ra một môi trường làm việc tích cực.

Mặc dù hệ thống 1 giúp chúng ta đưa ra quyết định nhanh chóng, nhưng nó cũng dễ dẫn đến những sai lầm. Các doanh nghiệp nên có những quy trình ra quyết định rõ ràng, dựa trên dữ liệu và phân tích kỹ lưỡng.

Hệ thống 1 rất nhạy cảm với những trải nghiệm cảm xúc. Do đó, các doanh nghiệp cần tạo ra những trải nghiệm tích cực cho khách hàng để xây dựng lòng trung thành.

Các doanh nghiệp nên khuyến khích nhân viên đặt câu hỏi, đưa ra ý kiến trái chiều và không ngại thử nghiệm những ý tưởng mới.

Nâng cao nhận thức của nhân viên về các sai lầm tư duy thường gặp sẽ giúp họ đưa ra những quyết định tốt hơn cho công ty.

"Tư duy nhanh và chậm" là một cuốn sách không thể thiếu cho bất kỳ ai làm việc trong lĩnh vực kinh doanh. Bằng cách áp dụng những kiến thức từ cuốn sách, các doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả hoạt động, đưa ra những quyết định sáng suốt hơn và đạt được thành công bền vững.

“Tư Duy Nhanh Và Chậm” (Thinking, Fast and Slow) của tác giả Daniel Kahneman là một tác phẩm kinh điển giúp chúng ta hiểu sâu hơn về cách con người đưa ra quyết định. Cuốn sách khai thác hai hệ thống tư duy của con người: Hệ thống 1 (tư duy nhanh) và Hệ thống 2 (tư duy chậm). Trong đó, tư duy nhanh mang tính tự động, bản năng và nhanh chóng, còn tư duy chậm đòi hỏi sự suy nghĩ kỹ càng, logic và có cân nhắc.

Một trong những thông điệp quan trọng của cuốn sách chính là tầm quan trọng của việc tư duy chậm. Kahneman chỉ ra rằng, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường sử dụng tư duy nhanh để đưa ra các quyết định. Mặc dù hệ thống này giúp chúng ta phản ứng nhanh chóng và hiệu quả trong các tình huống quen thuộc, nhưng nó dễ dẫn đến những sai lầm do sự thiên lệch và định kiến. Tư duy nhanh thường phụ thuộc vào trực giác, cảm xúc, và các mô hình đã hình thành sẵn trong đầu, khiến ta dễ dàng bỏ qua các thông tin quan trọng hoặc phức tạp.

Ngược lại, tư duy chậm lại yêu cầu sự cân nhắc kỹ lưỡng và phân tích sâu sắc. Nó giúp chúng ta đánh giá mọi tình huống một cách toàn diện hơn, từ đó đưa ra các quyết định chính xác và hợp lý hơn. Điều này đặc biệt quan trọng trong những vấn đề phức tạp hoặc mới mẻ, nơi mà trực giác không thể cung cấp giải pháp đúng đắn. Kahneman nhấn mạnh rằng, nếu chúng ta rèn luyện khả năng tư duy chậm, chúng ta có thể giảm thiểu những sai lầm đáng tiếc trong cuộc sống, từ các quyết định tài chính đến các vấn đề xã hội và cá nhân.

Tại sao chúng ta cần suy nghĩ kỹ hơn? Theo Kahneman, việc áp dụng tư duy chậm không chỉ giúp cải thiện chất lượng quyết định mà còn giảm bớt sự ảnh hưởng của những yếu tố như áp lực thời gian, căng thẳng hay sự cám dỗ của các giải pháp tức thời. Ví dụ, khi đầu tư tài chính, nếu chỉ dựa vào tư duy nhanh, chúng ta dễ bị cuốn vào các xu hướng nhất thời hoặc các quyết định cảm tính, dẫn đến thua lỗ. Ngược lại, việc tư duy chậm cho phép chúng ta phân tích kỹ lưỡng hơn về rủi ro, lợi nhuận và các yếu tố thị trường.

Cuốn sách khuyến khích chúng ta dành nhiều thời gian hơn để suy nghĩ, không vội vàng ra quyết định khi chưa có đủ thông tin. Việc này không chỉ giúp chúng ta tránh những sai lầm mà còn nâng cao khả năng sáng tạo, tư duy phản biện và đưa ra các giải pháp đổi mới.

“Tư Duy Nhanh Và Chậm” không chỉ là một tác phẩm khoa học mà còn là một lời nhắc nhở quan trọng về giá trị của việc dành thời gian để tư duy chậm. Đây là một cuốn sách cần thiết cho bất kỳ ai muốn nâng cao chất lượng quyết định trong cuộc sống và công việc.

Một trong những điểm nổi bật của cuốn sách là khả năng áp dụng vào nhiều khía cạnh thực tiễn, từ công việc đến đời sống cá nhân. Ví dụ, việc nhận diện thành kiến xác nhận (confirmation bias) - xu hướng chỉ tìm kiếm và tin vào những thông tin phù hợp với quan điểm sẵn có - giúp chúng ta tránh được những sai lầm trong việc đưa ra quyết định. Thay vì vội vàng kết luận dựa trên cảm tính, chúng ta có thể dùng Hệ thống 2 để phân tích kỹ lưỡng hơn, từ đó đưa ra quyết định sáng suốt.

Cuốn sách cũng làm sáng tỏ khái niệm hiệu ứng mỏ neo (anchoring effect), một hiện tượng mà con người bị ảnh hưởng bởi thông tin ban đầu khi đánh giá hay ra quyết định. Ứng dụng hiệu ứng này, bạn có thể cải thiện kỹ năng thương lượng bằng cách đặt ra những con số chiến lược, tạo lợi thế cho mình trong đàm phán.

Một bài học hữu ích khác từ cuốn sách là về ảo tưởng kiểm soát (illusion of control), giải thích lý do tại sao con người thường đánh giá cao khả năng kiểm soát các sự kiện ngẫu nhiên. Nhận thức được điều này giúp bạn giảm thiểu lo âu trong cuộc sống và hiểu rõ giới hạn của bản thân, từ đó có sự chuẩn bị tốt hơn cho những tình huống bất ngờ.

Ngoài ra, "Tư Duy Nhanh và Chậm" còn giúp cải thiện kỹ năng quản lý thời gian. Bằng cách sử dụng Hệ thống 2 để lên kế hoạch thay vì dựa vào sự bốc đồng của Hệ thống 1, bạn có thể đưa ra các quyết định hiệu quả hơn, tối ưu hóa năng suất công việc.

"Tư Duy Nhanh và Chậm" không chỉ là cuốn sách về lý thuyết mà còn là một cẩm nang thực tiễn cho những ai muốn nâng cao chất lượng cuộc sống. Bằng cách hiểu rõ hơn về cách tư duy và những sai lầm phổ biến mà con người dễ mắc phải, bạn có thể áp dụng những nguyên tắc này để cải thiện kỹ năng ra quyết định, từ đó sống cuộc sống tự tin và thông thái hơn. Đây là cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai muốn hiểu sâu hơn về tâm lý con người và cách vận dụng nó vào cuộc sống hàng ngày.

Daniel Kahneman, người đoạt giải Nobel Kinh tế, đã mang đến cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về cách bộ não chúng ta hoạt động qua cuốn sách "Tư Duy Nhanh Và Chậm". Ông chia tư duy của con người thành hai hệ thống: Hệ thống 1 - tư duy nhanh, trực giác, và hệ thống 2 - tư duy chậm, phân tích.

Điểm nhấn của cuốn sách chính là việc khám phá những giới hạn của hệ thống 1 - hệ thống mà chúng ta thường sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Hệ thống này, mặc dù nhanh chóng và hiệu quả, lại dễ mắc phải những sai lầm do các "cái bẫy" tư duy.

Những cái bẫy tư duy phổ biến mà tác giả đề cập:

- Hiệu ứng halo: Chúng ta thường đánh giá một người dựa trên một ấn tượng ban đầu, và từ đó mở rộng ra các đánh giá khác về họ.

- Sai lầm kết nối giả tạo: Chúng ta tìm kiếm các mẫu hình và mối liên hệ, ngay cả khi chúng không tồn tại, dẫn đến những kết luận sai lầm.

- Chi phí chìm: Chúng ta có xu hướng tiếp tục đầu tư vào một quyết định sai lầm trong quá khứ, chỉ vì đã đầu tư quá nhiều vào đó.

- Hiệu ứng hiện trạng: Chúng ta có xu hướng giữ nguyên hiện trạng và kháng cự lại sự thay đổi.

Tại sao chúng ta hay mắc sai lầm?

- Tư duy nhanh quá hấp dẫn: Hệ thống 1 luôn muốn đưa ra câu trả lời nhanh chóng, đôi khi bỏ qua những thông tin quan trọng.

- Chúng ta quá tự tin vào bản thân: Chúng ta thường đánh giá quá cao khả năng phán đoán của mình.

- Môi trường xã hội tác động: Áp lực từ xã hội, văn hóa, và các mối quan hệ cũng khiến chúng ta đưa ra những quyết định không hợp lý.

"Tư Duy Nhanh Và Chậm" không chỉ là một cuốn sách về tâm lý học, mà còn là một công cụ hữu ích để chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân và những quyết định của mình. Bằng cách nhận thức được những cái bẫy tư duy, chúng ta có thể rèn luyện hệ thống 2, đưa ra những quyết định sáng suốt hơn và tránh được những sai lầm đáng tiếc.

"Tư Duy Nhanh Và Chậm" là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai muốn hiểu rõ hơn về cách bộ não hoạt động và cách chúng ta đưa ra quyết định. Cuốn sách không chỉ mang tính học thuật mà còn rất thực tế, giúp chúng ta ứng dụng những kiến thức này vào cuộc sống hàng ngày.

Làm sao bạn có thể dự đoán được việc này sẽ xảy ra hay không?

Một cách hiệu quả là hãy nhớ tỉ lệ cơ sở (base rate). Nó ám chỉ tỉ lệ cơ sở trong thống kê, mà các bản thống kê khác phụ thuộc vào. Ví dụ, tưởng tượng một hãng tắc xi lớn có 20% xe màu vàng 80% xe màu đỏ. Nghĩa là tỉ lệ cơ sở với xe tắc xi màu vàng là 20% và với xe màu đỏ là 80%. Nếu bạn gọi xe và muốn đoán màu của nó, hãy nhớ tỉ lệ cơ sở và bạn sẽ đưa ra được dự đoán tương đối chính xác.

Vì vậy ta nên luôn luôn nhớ tỉ lệ cơ sở khi dự đoán một sự việc, nhưng không may là điều này thường không xảy ra. Trên thực tế, việc quên mất tỉ lệ cơ sở xảy ra cực kì phổ biến.

Một trong những lí do tự ta lại quên mất tỉ lệ cơ sở là ta tập trung vào thứ mình kì vọng hơn là thứ có khả năng xảy ra cao nhất. Ví dụ, tưởng tượng lại những chiếc tắc xi trên: Nếu bạn thấy 5 chiếc xe đỏ chạy qua, bạn có thể sẽ bắt đầu cảm thấy khả năng cao chiếc tiếp theo sẽ có màu đỏ. Nhưng bất kể có bao nhiêu xe dù màu nào đi qua, xác suất chiếc xe tiếp theo có màu đỏ vẫn vào khoảng 80% - và nếu ta nhớ tỉ lệ cơ sở, ta sẽ nhận ra điều này. Nhưng thay vào đó, ta thường tập trung vào thứ mình kì vọng muốn thấy, một chiếc xe màu vàng, và vì vậy ta rất dễ mắc sai lầm.

Bỏ quên tỉ lệ cơ sở là một lỗi phổ biến liên quan tới vấn đề của con người khi đối mặt với số liệu. Ta thường hay quên rằng mọi thứ sẽ hồi quy về trung bình. Nghĩa là thừa nhận rằng tất cả mọi tình huống đều có giá trị trung bình, và những dao động khỏi giá trị trung bình cuối cùng cũng sẽ về lại điểm cân bằng.

Ví dụ, nếu một tiền đạo bóng đá ghi 5 bàn thắng trung bình 1 tháng, lại ghi đến 10 bàn trong tháng 9, huấn luyện viên của cô sẽ rất vui sướng, nhưng nếu suốt năm còn lại cô lại chỉ ghi 5 bàn 1 tháng, huấn luyện viên sẽ chỉ trích cô vì không giữ phong độ. Tuy nhiên, cô không đáng bị phê bình bởi vì cô chỉ đang hồi quy về giá trị trung bình!

Ta thường gặp tình huống phải đưa ra phán xét nhanh chóng. Để làm điều này, tâm trí của ta đã phát triển những lối tắt nhỏ để giúp ta ngay lập tức hiểu được môi trường xung quanh. Đây được gọi là những quy tắc dựa theo kinh nghiệm - suy nghiệm (Heuristics).

Đa phần, những quá trình này rất có ích, nhưng vấn đề là tâm trí ta thường tận dụng chúng quá mức. Áp dụng các quy tắc này trong những tình huống không phù hợp có thể dẫn đến sai lầm. Để hiểu hơn về các quy tắc dựa theo kinh nghiệm là gì và những lỗi kéo theo, ta có thể xem xét hai loại sau: suy nghiệm thay thế (substitution heuristic) và suy nghiệm sẵn có (availability heuristic).

Tự nghiệm thay thế xảy ra khi ta trả lời một câu hỏi dễ hơn một câu hỏi thực sự được đưa ra.

Ví dụ, hãy thử câu hỏi này: "Một phụ nữ ứng cử chức cảnh sát trưởng. Liệu cô ấy sẽ thành công trong chức vụ đó tới đâu?" Ta tự động thay thế câu hỏi lẽ ra mình cần phải trả lời với câu dễ hơn, như, "Liệu cô ấy có trông giống người sẽ trở thành một cảnh sát trưởng tốt hay không?"

Tự nghiệm này nghĩa là thay vì nghiên cứu hồ sơ và chính sách của ứng viên, ta chỉ đơn giản hỏi bản thân một câu hỏi dễ hơn nhiều là liệu người phụ nữ này có khớp với hình ảnh trong tâm trí của ta về một viên cảnh sát trưởng tốt hay không. Không may là, nếu cô ấy không khớp với hình ảnh tâm trí đó, ta sẽ loại bỏ cô - kể cả cô có nhiều năm kinh nghiệm đấu tranh tội phạm, điều khiến cô trở thành một ứng viên sáng giá.

Tiếp theo là tự nghiệm sẵn có, là khi bạn cho rằng một thứ có khả năng xảy ra cao hơn chỉ vì bạn thường xuyên nghe về nó hơn, hay thấy nó dễ nhớ hơn.

Ví dụ, đột quỵ gây tử vong nhiều hơn tai nạn giao thông, nhưng một nghiên cứu cho thấy 80% những người được hỏi cho rằng có nhiều người chết vì tai nạn giao thông hơn. Đó là bởi vì ta nghe nhiều về cái chết kiểu này trên truyền thông hơn, và bởi vì chúng để lại ấn tượng sâu đậm hơn; ta nhớ những cái chết do tai nạn khủng khiếp dễ dàng hơn là chết do đột quỵ, và vì vậy ta dễ có phản ứng không phù hợp với những nguy hiểm này.

Tưởng tượng bạn gặp một ai đó tên Ben tại bữa tiệc và thấy anh ta rất dễ gần. Sau đó, khi ai đó hỏi liệu bạn có biết ai muốn quyên góp cho quỹ từ thiện không. Bạn nghĩ đến Ben, cho dù điều duy nhất bạn biết về anh ta là người thân thiện.

Nói cách khác, bạn thích một phần trong tính cách của Ben, và vì vậy bạn tưởng rằng mình thích mọi thứ khác về anh ấy. Chúng ta thường yêu hay ghét một người kể cả khi ta biết rất ít về họ.

Xu hướng đơn giản hóa mọi thứ khi chưa có đủ thông tin của tâm trí thường dẫn đến những lỗi phán đoán. Hiện tượng này được gọi là sự nhất quán cảm xúc phóng đại, còn được gọi là hiệu ứng hào quang (halo effect): cảm giác tích cực về sự dễ gần của Ben khiến bạn đặt một vòng hào quang lên Ben, kể cả khi bạn không hiểu anh ta là mấy.

Nhưng đây không chỉ là cách duy nhất tâm trí của ta đi đường tắt khi đưa ra phán xét.

Con người còn mắc thiên kiến xác nhận (confirmation bias), xu hướng đồng tình với thông tin nào ủng hộ niềm tin trước đây của họ, cũng như chấp nhận bất cứ điều gì hợp với nó.

Ta có thể quan sát hiện tượng này khi đặt câu hỏi, "Liệu James có thân thiện không?". Các nghiên cứu chỉ ra, khi đối mặt với câu hỏi kiểu này mà không có thông tin nào khác, chúng ta rất dễ coi James là một người thân thiện - bởi vì tâm trí sẽ tự động đồng tình với ý kiến được gợi ý.

Hiệu ứng hào quang và thiên kiến xác nhận cùng xảy ra đồng thời bởi vì tâm trí ta hấp tấp đưa ra phán xét nhanh. Nhưng điều này thường dẫn đến sai lầm, bởi vì ta không phải lúc nào cũng có đủ dữ liệu để phán đoán chính xác. Tâm trí của ta dựa trên những gợi ý có thể sai lầm và đơn giản hóa quá khích mọi thứ để lấp chỗ trống trong dữ liệu, đưa chúng ta đến những kết luận có khả năng sai lầm cao.

Giống như thả mồi, những hiện tượng nhận thức này có thể xảy ra một cách hoàn toàn vô thức và tác động lên những lựa chọn, phán đoán và hành động của ta.

Bạn nghĩ gì trong đầu khi bạn nhìn thấy các chữ cái "SO_P"? Có thể chưa có gì. Nhưng nếu bạn nhìn thấy chữ "EAT" (ĂN) đầu tiên? Bây giờ, khi nhìn lại chữ "SO_P", bạn sẽ có thể điền nốt nó thành "SOUP." Quá trình này lại còn được gọi là mồi (Priming).

Chúng ta bị thả mồi khi bắt gặp một từ, một khái niệm hoặc một sự kiện khiến ta liên tưởng đến những từ và khái niệm liên quan. Nếu bạn nhìn chữ "SHOWER" (TẮM) thay vì chữ "EAT" (ĂN) bên trên, có thể bạn sẽ hình dung ra chữ "SOAP" (XÀ PHÒNG).

Hiện tượng thả mồi này không chỉ ảnh hưởng tới cách ta nghĩ mà còn tới cách ta hành động. Giống như tâm trí bị ảnh hưởng khi nghe một số từ và khái niệm nhất định, cơ thể bạn cũng có thể bị ảnh hưởng. Một ví dụ tiêu biểu về hiện tượng này có thể được tìm thấy trong 1 nghiên cứu trong đó những người tham giả bị thả mồi bằng những từ gắn với tuổi già, như "Florida" và "nếp nhăn", có phản ứng đi chậm hơn bình thường.

Đáng ngạc nhiên là, chúng ta hoàn toàn không ý thức được suy nghĩ và hành động của mình bị tác động bởi việc thả mồi.

Vì vậy thả mồi cho thấy, trái với lập luận của nhiều người, chúng ta không phải lúc nào cũng có thể kiểm soát có ý thức những hành động, phán đoán và lựa chọn của mình. Thay vào đó chúng ta luôn luôn bị định hướng bởi những điều kiện xã hội và văn hóa nhất định.

Ví dụ, nghiên cứu được thực hiện bởi Kathleen Vohs chứng minh rằng chỉ nghĩ đến tiền sẽ khiến mọi người sống cá nhân hơn. Những người bị thả mồi bằng khái niệm tiền bạc - ví dụ, như nhìn ảnh đồng tiền - sẽ hành động độc lập và ít sẵn sàng dính líu, phụ thuộc hay chấp nhận yêu cầu từ người khác hơn. Một ngụ ý từ nghiên cứu của Vohns là sống trong xã hội chứa đầy những kích thích gắn với tiền có thể khiến mọi người sống ích kỉ hơn.

Thả mồi, giống như các nhân tố xã hội khác, có thể ảnh hưởng suy nghĩ và từ đó lựa chọn, phán xét, hành vi của một cá nhân - và chúng lại phản chiếu lại vào văn hóa và ảnh hưởng tới kiểu xã hội mà chúng ta đang sống.