Là tác phẩm duy nhất được tác giả viết dành cho lứa tuổi thiếu nhi và thiếu niên, “Trên sa mạc và trong rừng thẳm” của Henryk Sienkiewicz là câu chuyện về hai cô cậu bé Stanislas Tarkowski mười bốn tuổi và Nelly Rawlinson tám tuổi trong chuyến hành trình băng qua gần khắp miền đông Phi Châu khô cằn và hoang dại để tìm đường trở về với gia đình sau khi bị bắt cóc bởi lực lượng nổi dậy của Madhi tại Ai Cập. Ngay sau khi xuất bản, tác phẩm đã được chào đón nhiệt liệt, dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và tái bản ngay sau đó. Trong suốt gần một thế kỉ qua, nhiều thế hệ trẻ đã lấy hình ảnh cậu bé người Ba Lan dũng cảm làm nguồn cảm hứng để phấn đấu vượt qua giới hạn của bản thân và làm nên điều kì diệu. 

 

 

Tóm tắt:

Câu chuyện xảy ra vào khoảng năm 1881, khi thực dân Anh thao túng chính quyền Ai Cập để thống trị lãnh thổ Sudan. Kĩ sư trưởng người Ba Lan Tarkowski và giám đốc người Anh Rawlinson của công ty kênh đào Suez, đồng thời cũng là cha của Stas và Nell, đã kết thân cùng nhau sau khi góa vợ và xem hai đứa trẻ như con ruột của mình. Trong một lần đi công tác tại El-Medineh, hai người cha đã cho phép bọn trẻ đi cùng dưới sự giám sát của bà vú Dinah. Ba người Sudan Chamis, Idris và Gebhr đã tiếp cận để lấy lòng tin của cả gia đình họ và nhân lúc Stas và Nell phải xuất phát sau cha của mình, họ đã lập tức bắt cóc hai cô cậu bé bằng lạc đà và đi dọc theo sông Nile để đến thành phố Khartoum. Nhóm người Sudan tin rằng bằng việc trao đổi bọn trẻ với vợ và các con của ngài Smain, vốn là anh họ của Đấng Tiên tri Mahdi vĩ đại, họ sẽ nhận được ân sủng của Đức ngài và cuộc sống của họ sẽ bước sang trang mới. Từ đây hành trình đày ải khủng khiếp xuyên qua châu lục nổi tiếng là hoang dã và nguy hiểm của hai cô cậu bé chưa đầy mười lăm tuổi chính thức bắt đầu.

Nhóm người bắt cóc thúc lạc đà chạy vun vút hàng giờ liền xuyên qua sa mạc. Sau nhiều lần cố gắng thuyết phục cũng như đe dọa ba người Sudan, Stas nhận ra khả năng để bọn họ đưa chúng trở về Cairo với cha chúng là bằng không bởi lẽ đức tin của người dân vào đức Mahdi (tên thật là Mohammed Ahmed) quá mạnh mẽ. Vì thế cậu bé tạm thời dành sự ưu tiên của mình vào việc giữ gìn sức khỏe cho Nell bé bỏng của mình sau khi cả đoàn trải qua trận vòi rồng cát kinh hoàng, vì trông cô bé “sống dở chết dở” với “dáng vẻ gầy guộc của một chú chim quá mệt mỏi và khuôn mặt trắng trẻo rám đi vì gió nắng”, mặc dù bản thân cậu cũng không khá gì hơn khi “đầu óc quay cuồng, cổ họng khô bỏng và mồm đầy cát”. Stas cũng từng hai lần nung nấu ý định dùng súng để kết liễu những kẻ bắt cóc và giải thoát cho Nell khỏi cảnh đọa đày, nhưng sự chần chừ khi phải giết chết những con người đang đứng trước mặt khiến em bỏ lỡ cơ hội hết lần này đến lần khác.

 

 

Trước khi Stas có thể hạ quyết tâm thì tất cả đã đặt chân đến thành phố Khartoum, nơi mà các bộ lạc thuộc tín đồ Mahdi đã nổi dậy và chặt đầu vị tướng Gordon của nước Anh đang cai quản tại đây. Tuy nhiên sau cuộc nói chuyện với Nur el-Tadhil, một viên emir hay còn gọi là thủ lĩnh quân sự tại thành phố, Idris cảm thấy thất vọng và bắt đầu hoang mang khi thái độ của các tín đồ Mahdi đối với chiến tích của hắn không cao trào và ngưỡng mộ như hắn đã tưởng tượng và khẳng định chắc nịch với bạn đồng hành của mình. Hắn cứ nghĩ rằng khi mang bọn trẻ da trắng đến trại của Mahdi, ba người bọn họ sẽ được “nhiệt tình đón tiếp với cánh tay dang rộng”, “hộ tống trong một ca khúc khải hoàn đến bệ kiến Đấng tiên tri” và được Người “rắc vàng và những lời khen ngợi lên đầu cả ba người” vì đã “không ngần ngại hi sinh tính mạng cho người em họ Fatma của Ngài”. Cùng với sự giúp sức của ông lão tốt bụng người Hi Lạp, bọn trẻ được ăn uống chút ít và dặn dò cách cư xử thuận theo đức Mahdi để có thể “được che chở dưới cánh của Ngài”. Thế nhưng cậu bé với lòng tín ngưỡng trung thành dành cho Chúa, đã từ chối tiếp nhận khoa học của Mahdi và phải chịu hậu quả sau đó là cả em và Nell đều bị đày tiếp tục đến Fashoda cùng với ba tên đã bắt cóc hai cô cậu bé. Trong thời gian chờ đợi, Stas vừa nhận viện trợ từ ông lão Hi Lạp lại vừa phải đi ăn xin để cứu đói cho Nell, trong khi tên Chamis lại cho chú chó Saba (đây chính là người hộ vệ đắc lực mà ông Rawlinson dành tặng Nell) thịt tươi mà chẳng đoái hoài gì đến lũ trẻ.

Trong suốt hành trình đi Fashoda, viên tù trưởng già Hatim đã chăm sóc bọn trẻ rất chặt chẽ và không để đám người bắt cóc hành hạ chúng thể theo yêu cầu của ông lão người Hi Lạp. Tuy hằng ngày vẫn nhận nửa viên thuốc kí ninh được ông lão tặng để phòng tránh bệnh sốt rét, song sức khỏe Nell vẫn không có dấu hiệu khá hơn khi “khuôn mặt cô bé gầy hẳn” và thay vì rám nắng, “cô bé mỗi lúc một trong suốt đi, đến nỗi hai bàn tay trông cứ như được nặn bằng sáp”. Cái chết đột ngột của bà vú già Dinah càng gieo rắc thêm đau thương và đè nặng trách nhiệm lên đôi vai bé nhỏ của cậu thiếu niên Ba Lan với thiên thần người Anh của mình. Nỗi bất hạnh không dừng lại tại đó khi đoàn người phát hiện rằng họ sẽ không được gặp ngài Smain tại Fashoda vì ngài đã đi săn bắt nô lệ về phía đông song Nile và không biết bao giờ trở lại. Ba tên bắt cóc bắt đầu tính toán cách xử lí hai đứa trẻ, nhưng sau khi bàn bạc chúng không còn cách nào khác ngoài việc tiếp tục mang lũ trẻ cùng hai nô lệ Kali và Mea trong khi lần theo dấu vết cắm trại mà ngài Smain để lại trên đường đi.

 

 

Sự xuất hiện của con sư tử nằm ngay trên đường đi đã tạo nên bước ngoặt lớn trong hành trình của bọn trẻ. Do quá hoảng sợ nên ba người Sudan đã đưa khẩu súng săn của Stas cho em bắn hạ sư tử, nhưng họ không ngờ chính họ cũng phải bỏ mạng vì quyết định của mình. Đứng trước ba xác chết còn mang hơi ấm, Stas cố gắng lờ đi cái cảm giác cay đắng đến nghẹn ngào khi Nell kinh sợ em và bắt đầu sắp xếp lại mọi thứ. Nhóm bốn người trẻ tuổi cùng với chú chó Saba và một con voi King to lớn đã đi trong vô định, chiến đấu với nhiều loài thú dữ như sư tử và loài báo wobo to lớn, thậm chí xây dựng nơi trú ẩn tạm thời trong các khu rừng nguyên sinh để hồi sức sau chuyến đi dài. Nell cuối cùng cũng bị cơn sốt rét đánh vật, nhưng may mắn thay Stas đã tìm thấy túp lều gần đó của một người Thụy Sĩ tên Linde đang nằm chờ chết vì bị lợn rừng tấn công và được bác giúp đỡ tận tình về mặt thuốc men, đồ dùng sinh tồn và đường đi. Băng qua nhiều ngọn núi, vùng thổ dân hoang dã và sa mạc, cuối cùng Stas và Nell cùng nhóm người của Kali và Mea đã tìm được đại úy Glenn và bác sĩ Clary (vốn là bạn của cha hai cô cậu bé) trước khi ngất xỉu vì khát và kiệt quệ. Hai người cha, với mái đầu đã bạc trắng, lập tức đón hai đứa trẻ về nước trong trạng thái tự hào đến không thể tin nổi. Mười năm sau Nell se duyên cùng Stas trong sự chúc phúc nhiệt liệt của hai người cha và quay lại thăm những người bạn đồng hành của mình thuở ấy. 

Hình ảnh cậu thiếu niên Ba Lan xuyên suốt tác phẩm

Có lẽ nhân vật để lại cảm xúc mãnh liệt và sâu sắc nhất trong “Trên sa mạc và trong rừng thẳm” chính là cậu bé Stanislas. Với cơ thể khỏe khoắn như một vận động viên thực thụ, đôi mắt ánh lên vẻ can trường, bộ óc sắc sảo và tình cảm chứa chan dành cho Nell bé nhỏ, thật không ngoa khi nói rằng cậu bé chính là nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ thiếu niên Ba Lan về lòng yêu nước, tình yêu và khả năng phi thường của con người. Chính hai người cha đã phải thừa nhận trong sự xúc động và tự hào rằng, “nếu như không có sự can đảm và nghị lực phi thường của cậu bé thì cô bé đã chết không phải chỉ một lần mà đã phải chết hàng nghìn lần, không phương cứu thoát”.

Nổi bật nhất phải kể đến khả năng nắm bắt tình hình cũng như giải quyết tình huống của cậu bé. Từ bé Stas đã nổi tiếng với cái tên “đứa con của sa mạc” với các kĩ năng bơi lội, bắn súng, chèo thuyền, cưỡi ngựa của em đều ở mức thượng thừa. Ngoài ra nhờ năng khiếu ngoại ngữ tuyệt vời (Stas có thể sử dụng nhiều thứ tiếng như Ba Lan, Anh, Pháp và Ả Rập), em có thể giao tiếp và để lại ấn tượng tốt cho hầu hết người dân nơi đây, “từ các kĩ sư, công nhân thuế quan cho đến người Ả Rập và người da đen”. Chính những chuyến đi cùng các nhóm người ở nhiều lĩnh vực khác nhau cùng với trí nhớ tuyệt vời đã giúp cậu bé tích lũy được kho tàng kiến thức khổng lồ cũng như cách để sinh tồn khi ở trong vùng đất châu Phi nơi cậu đang sinh sống. Cậu đã nhanh trí thả găng tay xuống đường, như cách Mị Châu đã làm ngày xưa, để dẫn đường cho cha đến tìm mình ngay sau khi phát hiện ra sự thật kinh hoàng rằng cậu và Nell đã bị bắt cóc. Stas còn nhận biết được chúng đã di chuyển ra xa sông Nile chỉ bằng việc quan sát vị trí của Mặt Trời đang nằm ở phía đông. Cậu bé cảm thấy tim mình thắt lại vì “nỗi đau đớn, sợ hãi và hổ thẹn” khi nhận ra mình quá nhỏ bé để kháng cự lại đám người bắt cóc, nhưng không lúc nào trong đầu cậu ngừng suy nghĩ cách giải thoát Nell ra khỏi cảnh địa ngục này. Những tính toán và diễn biến tâm lí phức tạp của người con trai mười bốn tuổi trước hai lựa chọn trốn thoát và giết người được tác giả lột tả một cách chân thực đến rùng mình:

“ Bọn Sudan và Bedouin khi tỉnh dậy mà không thấy mình sẽ lập tức lao ra khỏi hang, khi ấy, bằng hai phát đạn, ta sẽ hạ ngay hai tên đầu tiên, và trước khi hai tên sau kịp chạy tới thì khẩu súng đã được nạp đạn rồi. Chỉ còn lại mỗi mình Chamis thôi, với tên này thì ta đối phó dễ dàng rồi.

Giết bốn mạng người! Dù đó là bốn thằng vô lại đi nữa thì chuyện ấy cũng thật kinh khủng...Tội lỗi và kinh khủng!...Không! Không! Em không bao giờ làm nổi chuyện ấy.

Nếu vì bản thân thì hẳn em không làm chuyện ấy. Nhưng ở đây là vì Nell, vì phải bảo vệ Nell, phải cứu lấy Nell, phải cứu lấy mạng sống của Nell, vì rõ ràng cô bé không thể nào chịu đựng nổi và chắc chắn sẽ chết dọc đường, hoặc giữa các bộ tộc hoang dã đã biến thành “thú dữ” của lũ tín đồ Hồi giáo. So với cuộc sống của Nell, máu của những kẻ khốn nạn kia liệu có nghĩa lí gì và trong tình thế này có thể nào do dự được.

Vì Nell! Vì Nell!”

 

Một nhà khuyết danh đã từng nói: “Nghịch cảnh tiết lộ bản chất của một con người”. Có những người khi đứng trước ranh giới sinh tử, họ sẽ để lộ sự ích kỉ, yếu đuối của bản thân và chấp nhận hi sinh để cứu lấy chính họ. Ông lão người Hi Lạp Kaliopuli chính là một ví dụ điển hình, khi ông quyết định từ bỏ đạo Thiên Chúa để chấp nhận cải đạo theo Đức Mahdi với lí do “cần phải nhẫn nhục trước bạo lực, dù chỉ là sự nhẫn nhục hình thức”. Nhưng vẫn có những con người như cậu bé Stas, càng bị dồn vào góc đường cùng thì nhân cách cao đẹp càng trở nên mạnh mẽ và rõ nét hơn. Ánh mắt quyết đoán và lời đáp trả khẳng khái của cậu bé đã khiến cho vị lãnh tụ cao nhất của người Sudan phải “bối rối và không tìm được ngay câu trả lời” đến mức phải uống nước để che giấu sự bối rối của mình. Tự hỏi khi đứng trước những người có địa vị rất cao trong xã hội như Mahdi, có bao nhiêu người có đủ cam đảm lên tiếng bảo vệ đức tin của mình, bất chấp việc đặt bản thân vào hiểm họa như Stanislas?

“ Thưa tiên tri, tôi không biết thứ khoa học của Người, nên nếu tôi có thừa nhận nó thì chẳng qua cũng chỉ là sợ hãi, như một thằng hèn, như một người tồi tệ mà thôi. Liệu Người có muốn những kẻ hèn nhát và đểu cáng thu nhận học thuyết của Người?”

Sẽ có người đặt câu hỏi rằng, động lực nào đã giúp Stas làm nên tất cả những điều mà chính bản thân em chưa từng nghĩ rằng mình sẽ làm được? Tôi tin rằng chính các bạn đọc cũng đã cảm nhận được câu trả lời trên từng trang giấy, từng câu từ của quyển sách. Từ việc liều mình đánh nhau với gã Gebhr to lớn, trộm súng từ tay bọn bắt cóc, chiến đấu với các loài thú hoang dã cho đến băng qua rừng đêm một mình để tìm thuốc kí ninh chữa sốt rét và thậm chí không do dự mà nổ súng vào bốn con người có sức lực và vóc dáng lớn hơn em rất nhiều, tất cả những hành động đó đều vì một mục đích duy nhất: giải cứu Nell bé nhỏ thoát khỏi nỗi thống khổ và đem em về nhà an toàn. Nếu như tác giả có thể định nghĩa giúp tôi tình cảm của Stas dành cho Nell chính xác là loại tình cảm gì, có lẽ tôi đã không bâng khuâng và trằn trọc nhiều đến thế.

Nếu nói rằng đó là tình cảm và trách nhiệm của một người anh trai dành cho cô em gái bé bỏng của mình thì tôi nghĩ rằng vẫn không đủ.

Nếu nói rằng đó là tình yêu nam nữ thì tôi lại cảm giác không hẳn, vì các em còn quá nhỏ để nhận thức và cảm nhận sâu sắc được tất cả khía cạnh của tình yêu.

Tôi nghĩ có lẽ tình cảm của Stas bao gồm cả hai điều ấy, và thêm cả trách nhiệm đối với lời hứa danh dự rằng cho dù chuyện gì cũng sẽ không bao giờ bỏ rơi cô bé. Tất cả những cảm xúc ấy hòa vào nhau như một bảng pha màu rực rỡ và mỗi khi cơn giông tố ập đến, Stas lại dùng vẻ đẹp tâm hồn của chính em để vẽ nên những ước mơ và niềm tin về một tương lai tươi sáng để mọi người có thêm động lực để tiếp tục tiến về phía trước. Chỉ có những đại văn hào kiệt xuất như Henryk Sienkiewicz mới có thể truyền tải cảm xúc và tính cách của Stas theo một cách rất sống động và tinh tế đến nhường ấy:

“Trong trái tim cậu bé dâng tràn một tình thương bao la. Em cảm thấy mình vừa là người đỡ đầu, vừa là người anh lớn, và là người duy nhất bảo vệ Nell trong lúc này; em cảm thấy thương yêu cô em gái bé bỏng ấy vô cùng, yêu thương hơn nhiều so với lúc trước. Hồi ở Port Said em cũng đã yêu thương cô bé, song vẫn coi đó là một “nhóc con” nên em không bao giờ nghĩ tới chuyện hôn tay cô bé trước khi đi ngủ. Giá như có ai bảo em làm điều ấy chẳng hạn, thì em sẽ cho rằng đối với một chàng trai trẻ mười bốn tuổi đời, không thể làm một chuyện như thế mà không tổn hại tới danh giá và tuổi tác của mình. Còn giờ đây, nỗi bất hạnh chung đã thức tỉnh sự âu yếm ẩn náu trong lòng em, em hôn không chỉ một bàn tay mà cả hai bàn tay cô bé”.

 

Phong cách văn học đậm chất Henryk Sienkiewicz

Ít ai ngờ được rằng một nhà văn chuyên thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết lịch sử Ba Lan lại có thể cho ra đời một kiệt tác văn học dành cho thiếu nhi tuyệt vời đến vậy. Bằng một giọng văn tinh khiết và giàu cảm xúc, tác giả đã phác họa rõ nét toàn bộ chuyến hành trình đi xuyên châu Phi dưới góc nhìn của hai đứa trẻ người ngoại quốc. Từng cử chỉ, hành động của nhân vật như sống dậy qua ngòi bút tài hoa của tác giả càng khiến cho câu chuyện cuốn hút hơn bao giờ hết:

“Và bỗng nhiên em cảm thấy mũi và gò má lại lạnh toát đi, nhưng là một thứ lạnh khác hẳn, cái lạnh không phải nảy sinh từ nỗi sợ mà từ một quyết định kinh khủng không gì lay chuyển nổi, với quyết định ấy trái tim trong lồng ngực em hiện thời như biến thành sắt thép.

Mày sẽ không thể giết được Nell nữa đâu - em nhắc lại.”

Không chỉ khắc họa thành công sự trưởng thành của Stas, ông vẫn không quên lưu giữ lại nét ngây thơ hồn nhiên hiếm hoi của cậu bé khi ở bên cạnh Nell, như muốn nhắc nhở rằng Stas vẫn chỉ là một cậu bé mà thôi:

- Cái đồ Saba xấu xí! Xấu xí! Đã thế thì khi nó về, em sẽ không nói với nó một lời nào hết, em sẽ nói với nó rằng nó rất xấu.

Mặc dù không muốn cười chút nào, Stas cũng phải mỉm cười và hỏi:

- Làm sao em vừa có thể không nói với nó một lời nào mà đồng thời lại bảo cho nó biết rằng nó rất xấu được?

- Nó nhìn vẻ mặt của em thì nó biết chứ.

- Cũng có thể. Nhưng nó cũng chẳng có lỗi gì, và sau đó nó xông tới cứu chúng mình đấy thôi.

- Được rồi, nhưng là người lịch thiệp thì đâu có sủa để chào hỏi nhau.

- Người lịch thiệp thì cả khi từ biệt cũng không sủa, trừ khi anh ta là một con chó, mà Saba đúng là chó chứ còn gì nữa.

Bên cạnh những cuộc săn đuổi và màn đấu trí hồi hộp đến ngạt thở, nhà văn không quên ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hoang dã của núi rừng Phi châu, nơi mà chưa có nhà thám hiểm châu Âu nào đặt chân đến vào thời điểm hiện tại. Chỉ cần nhắm mắt lại, những câu chữ tươi mát sẽ ngay lập tức đưa ta vào thế giới trong truyện với những “thân cây mục ruỗng màu xám trông như một tấm thảm thêu”, “những bông hoa sặc sỡ như cánh bướm” và thậm chí là những loài vật kì lạ mà ta chưa bao giờ biết đến như loài voi nước và báo wobo khiến cho bộ tộc da đen không khỏi khiếp sợ. Đọc từng trang truyện mà có cảm nhận như tác giả đã từng bước khám phá, quan sát và ghi chú tỉ mỉ vẻ đẹp hoang sơ tại nơi này vậy:

Nơi nào ánh nắng mặt trời chiếu tới, ở đó mặt đất lại vàng rực bởi những loài lan kì lạ khác, nhỏ bé, màu vàng, trong đó hai cánh hoa vươn lên cao bên cạnh cánh thứ ba, trông giống như đầu một loài nào đó có những cái tai to dài nhọn hoắt. Một đôi nơi rừng được trang điểm bởi những bụi nhài dại, kết thành những tràng hoa gồm những dây mỏng mảnh nở hoa hồng hồng.

Hoàn toàn không nghe thấy tiếng chim hót, ngược lại trên các ngọn cây lại vang lên những tiếng kêu kì lạ nhất , khi thì nghe như tiếng cưa rít, khi như tiếng gõ thùng, khi lại như tiếng cò kêu, như tiếng cọt kẹt của những chiếc cửa cũ kĩ, như tiếng vỗ tay, tiếng mèo kêu meo meo, thậm chí như tiếng trò chuyện to tiếng và khích động của con người nữa”.

Nhà văn cũng rất chú ý về văn hóa cũng như lối sinh hoạt của người da đen tại nơi đây. Ông đã tìm hiểu rất kĩ về cách gọi tên, nói chuyện, chiến đấu cũng như những phong tục đặc trưng của thổ dân da đen để có thể đem lại kiến thức thú vị nhất dành cho những độc giả tò mò về họ. Chính Henryk chứ không ai khác đã cho chúng ta biết rằng ngoài giáo và tên, người da đen thường chiến đấu “bằng lửa, tiếng kêu la, bằng cách giả tiếng gà, đào những hố sâu và đặt bẫy bằng những cây gỗ”. Họ gọi các vị thần bằng cái tên “Mzimu” (trong câu chuyện nhờ sự trợ giúp của chú voi King và cậu bé Kali mà Nell được người da đen tôn sùng làm “Mzimu Tốt”) và lời nói của các vị thần thường được truyền đạt qua thầy phù thủy (nhưng thực chất chỉ là những kẻ chuyên lừa gạt dân làng bằng cách tạo tiếng kêu từ cái trống lớn làm bằng thân cây rỗng lòng và bịt da khỉ). Họ kết nghĩa huynh đệ bằng cách chia nhau lá gan của dê và đọc niệm chú trong khi vị chủ tọa ban phù chú và điệu nhảy thần linh. Ngạc nhiên một điều là cho dù có chiến tranh xảy ra giữa các bộ lạc thì phụ nữ hai bên vẫn có thể đi chợ và thực hiện các trao đổi buôn bán như bình thường một cách an toàn bên trong một khu vực gọi là Luela. Nếu không có những kiến thức uyên thâm về thiên nhiên và con người nơi đây, chắc hẳn tác giả đã không thể kể về họ một cách tự nhiên và rành mạch đến vậy.

 

 

Lời kết

Có thể nói “Trên sa mạc và trong rừng thẳm” là tác phẩm kinh điển mà mọi thiếu nhi trên thế giới này nên đọc một lần trong đời. Tác phẩm đã gợi nên khát vọng sống tươi đẹp, ước mơ đi tới những chân trời xa, thực hiện những kì tích phi thường, vượt mọi hiểm nguy và chiến thắng mọi bất công tàn ác. Dù cho phải gặp bao nhiêu chông gai thử thách, thì chỉ cần với một trái tim can đảm và trong sạch, chắc chắn bạn sẽ làm được những điều phi thường và kì diệu. Thượng đế sẽ không quay lưng với những ai không bỏ cuộc cho đến tận những giây phút cuối cùng.

Ở Phi Châu xa xôi ấy, có một bản hùng ca hát về những chiến binh nhỏ tuổi can trường vang lên trên khắp hoang mạc và trong rừng thẳm.

 

Tác giả: Ngọc Thanh - Bookademy

------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về các cuốn sách hay tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn/

Trở thành CTV viết reviews sách để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị cùng Bookademy, gửi CV (tiếng Anh hoặc Việt) về: [email protected]

 

Xem thêm

Một điều làm giảm sự thú vị của câu chuyện sinh tồn nơi hoang dã này là việc những đứa trẻ được đi cùng với những người hầu trong suốt thử thách của chúng. Mặc dù đôi khi lũ trẻ thể hiện sự khéo léo và Stas rất giỏi với một khẩu súng trường, nhưng những người hầu phải làm nhiều công việc hàng ngày cần thiết để duy trì sự sống của chúng. Khi những đứa trẻ nhận được sự giúp đỡ từ các nhân vật châu Phi, không phải chỉ vì người châu Phi là những người tốt muốn giúp hai đứa trẻ tìm đường về nhà, mà đúng hơn là vì họ là những kẻ khờ khạo, mê tín dị đoan coi những đứa trẻ da trắng là thần thánh hay linh hồn nhân từ. Toàn bộ cuốn sách được viết như một lời biện minh cho sự cai trị của người Châu Âu ở Châu Phi, nơi người da đen sẽ bị lạc lối nếu không có sự hướng dẫn và quản lý của người da trắng.

Câu chuyện có rất ít điều để cung cấp cho các cô gái, vì Nel chủ yếu đóng vai một cô gái khốn khổ gặp nạn cho hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng chói của Stas. Đối với bất cứ ai đã từng đọc một cuốn sách của Sienkiewicz, kết thúc là một kết luận bỏ qua. Người lớn đọc cuốn tiểu thuyết này khi còn nhỏ có thể có những kỷ niệm đẹp về ba hoặc bốn cảnh quan trọng, nhưng cuốn sách dài 47 chương và hầu hết các chương đó đều nhàm chán. Sienkiewicz là một nhà văn tài năng, vì vậy In Desert and Wilderness không phải là không có giá trị văn học, nhưng nó được coi là một trong những tác phẩm tồi tệ nhất của ông.

In Desert and Wilderness, xuất bản năm 1911, là một cuốn tiểu thuyết của tác giả người Ba Lan Henryk Sienkiewicz, người đoạt giải Nobel Văn học năm 1905. Câu chuyện diễn ra ở đông bắc châu Phi trong những năm 1880. Mặc dù Sienkiewicz đã viết các tiểu thuyết phiêu lưu lịch sử khác, nhưng In Desert and Wilderness đáng chú ý vì là cuốn sách duy nhất ông viết dành cho độc giả trẻ.

Cậu bé 14 tuổi người Ba Lan Stanislas (Stas) Tarkowski và cô bé 8 tuổi người Anh Nel Rawlinson sống ở Port Said, Ai Cập, nơi người cha góa vợ của họ làm kỹ sư cho Kênh đào Suez. Vì tình bạn thân thiết giữa cha của họ, Stas và Nel được nuôi dưỡng gần như anh chị em. Khi cha của chúng được gọi đi thực hiện nhiều dự án kỹ thuật khác nhau, lũ trẻ được giao ở nhà cho những người hầu đáng tin cậy. Vào thời kỳ này trong lịch sử của Châu Phi, một nhà thuyết giáo Hồi giáo được gọi là Mahdi đã kích động một cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của Anh. Trong khi những người cha đi vắng, Stas và Nel bị bắt cóc bởi những người Ả Rập có ý định đổi bọn trẻ lấy những tù nhân do người Anh giam giữ. Những kẻ bắt cóc hy vọng sẽ bắt được những con tin nhỏ của chúng như một món quà cho Mahdi ở Khartoum. Tuy nhiên, những đứa trẻ đã lên đường trốn thoát khỏi những kẻ bắt giữ chúng và thực hiện một hành trình gian khổ để đoàn tụ với cha của chúng.

Mặc dù cuốn sách này có thể dành cho trẻ em, nhưng theo phong cách điển hình của một thế kỷ trước, nó không hề ngớ ngẩn như rất nhiều tác phẩm văn học dành cho thanh thiếu niên được xuất bản ngày nay. Ngay cả những người trưởng thành cũng sẽ gặp khó khăn trong việc theo kịp lịch sử chính trị phức tạp của Ai Cập và Sudan. Chuỗi sự kiện dẫn đến vụ bắt cóc khá phức tạp và thử thách sự kiên nhẫn của độc giả ở mọi lứa tuổi. Khi những kẻ bắt giữ và những người bị bắt giữ cuối cùng cũng lên đường, nó thường giống một cuốn tiểu thuyết hơn là một tập bản đồ, mỗi câu đều chứa đầy những địa danh kỳ lạ. Đối với truyện dành cho trẻ em, có rất nhiều cảnh bạo lực thực tế phù hợp hơn với người lớn đọc. Mặt khác, người lớn sẽ không đánh giá cao những khía cạnh cổ tích hơn của câu chuyện, trong đó bất cứ thứ gì bọn trẻ cần để tồn tại đều rơi ngay vào lòng chúng một cách thần kỳ. Cuốn sách chứa một số cảnh khá ly kỳ, hầu hết liên quan đến các cuộc gặp gỡ với động vật hoang dã, nhưng chúng rất ít và xa, xen kẽ giữa các chuyến đi dài qua sa mạc.

Cuốn tiểu thuyết kinh điển này là cuốn tiểu thuyết yêu thích của tôi kể từ lần đầu tiên tôi đọc nó vào năm 17 tuổi. Kể từ đó, tôi đã đọc nó ba hoặc bốn lần (bằng cả tiếng Anh và bản gốc tiếng Ba Lan) và lại càng thấy thích thú hơn sau mỗi lần đọc. Đó là một cuộc dạo chơi kỳ ảo, theo chân chuyến phiêu lưu của Stas và Nell sau khi cả hai bị bắt cóc khỏi nhà ở Port Said, Ai Cập. Cuối cùng, cả hai phải đối mặt với nhiều nguy hiểm và đạt được những kỳ tích vượt trội đầy mê hoặc, vui nhộn và đồng thời cũng đáng tin theo cách nào đó. Liên kết với chuyến hành trình là một chủ đề bao trùm liên quan đến khả năng phục hồi của chủ nghĩa dân tộc, đạo đức và bản sắc Ba Lan khi đối mặt với mối đe dọa. Điều này đặc biệt hấp dẫn, vì đất nước này vẫn còn bị chia cắt vào thời điểm cuốn sách được viết. Một số đánh giá khác: Cuốn tiểu thuyết được viết vào năm 1911 về các sự kiện diễn ra vào năm 1885, vì vậy việc miêu tả chủ đề thuộc địa châu Phi của nó là hoàn toàn có thể hiểu được; nghĩa là cuốn sách là sản phẩm của thời đại. Tuy nhiên, nhìn lại từ thế kỷ 21, tôi luôn thấy khó chịu rằng những căng thẳng rõ ràng chưa bao giờ được giải quyết giữa cách xử lý của chủ đề thuộc địa châu Phi ở Trung Đông/ Cận Sahara và thông điệp mạnh mẽ về chủ nghĩa dân tộc Ba Lan trong cuốn tiểu thuyết. Về cách các nhân vật nói chuyện, tôi khá chắc chắn rằng đây là vấn đề của bản dịch tiếng Anh được liệt kê ở trên (xuất bản trước năm 1920). Có thể một bản dịch gần đây hơn sẽ làm cho giọng điệu hơi líu lưỡi trong văn xuôi gốc Ba Lan của Sienkiewicz trở nên rõ ràng hơn chăng?

"Trên sa mạc và trong rừng thẳm" là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu dành cho lứa tuổi mới lớn. Cuốn sách kể về hai đứa trẻ, Stas 14 tuổi và Nell 8 tuổi, bị bắt cóc ở Ai Cập trong Chiến tranh Mahdist. Những đứa trẻ phải đối mặt với một số thử thách, chẳng hạn như hành vi tệ bạc của những kẻ bắt cóc, sư tử, báo, bão, sốt và cái nắng gay gắt liên tục. Tác giả cũng mô tả một cách sinh động hoàn cảnh của những người châu Phi vật lộn với bệnh tật, nạn đói và sự tàn ác trong các trại Khartoum và Mahdist đổ nát. Sienkiewicz thể hiện kiến thức sâu rộng về địa lý châu Phi và tình yêu dành cho lục địa này, đưa người đọc vào cuộc hành trình qua sa mạc, rừng rậm, núi non, thảo nguyên và vùng đồng bằng khô hạn. Trong suốt chuyến hành trình, Stas thay đổi từ một cậu thiếu niên trẻ con hay khoác lác thành một thanh niên có kỷ luật và tháo vát. Cuốn tiểu thuyết cũng có những thiếu sót. Nhân vật Nell có vẻ quá hoàn hảo. Ngoài ra, vì cuốn tiểu thuyết được viết trong thời thuộc địa, người Ả Rập và người châu Phi da đen thường là đối tượng của những định kiến mà ngày nay sẽ bị phê phán. Tuy nhiên, Sienkiewicz miêu tả một số nhân vật da đen mạnh mẽ và biết cảm thông. Một điểm yếu khác là các sự kiện trong nửa sau của cuốn tiểu thuyết khó tin hơn so với nửa đầu. Nhìn chung, "Trên sa mạc và trong rừng thẳm" là một tác phẩm đáng đọc. Người đọc sẽ thấy mình đắm chìm trong câu chuyện. Đây là một tác phẩm chắc chắn đưa người đọc bước vào một thế giới khác.

Một cuộc phiêu lưu kỳ thú của cậu bé 13 tuổi người Ba Lan và cô bé 8 tuổi người Anh. Cuốn sách hấp dẫn nhờ cốt truyện và những mô tả về vùng sa mạc và rừng rậm đáng kinh ngạc. Thật tuyệt vời khi trẻ em có cơ hội tìm hiểu về thiên nhiên, từ đó hòa mình vào sự kỳ diệu của chúng. Tuy nhiên, lũ trẻ cũng nên biết về bối cảnh của cuốn sách này cũng như nhiều tác phẩm kinh điển khác. Trong bối cảnh hiện đại, rất nhiều giá trị và niềm tin đã hoặc nên được cho là lỗi thời.

- Nam tính: Cậu bé người Ba Lan là nhân vật chính được ngưỡng mộ vì là một nam nhi thực thụ. Tôi xin lỗi nhưng tôi không nghĩ nam tính quá mức là điều mà mọi người phải có để được tôn trọng, bởi vì thể hiện sự tổn thương cũng là một loại can đảm.

- Phân biệt giới tính: Cuốn sách hoàn toàn do nam giới thống trị với hầu hết các nhân vật là nam, còn lại là những phụ nữ nhu mì, cả tin và yếu ớt, chẳng có gì ngoài phẩm chất xinh đẹp và dễ mến.

- Săn bắn: Cậu bé có sở thích giết những sinh vật vô tội chỉ để thể hiện tài năng và bản lĩnh đàn ông của mình. Nếu không phải vì mục đích sinh tồn thì việc săn bắn thật tàn nhẫn.

- Phân biệt chủng tộc: Người da trắng được mô tả là văn minh, có một xã hội hoàn hảo đến mức bất kỳ người thuộc dân tộc nào khác đều bị coi là “hoang dã” hoặc giống như động vật. Thật buồn cười là hai đứa trẻ da trắng bị bắt cóc và nô lệ da trắng lại là một vấn đề lớn trong cuốn sách trong khi nước Anh, vốn được coi là một quốc gia tốt và văn minh, trên thực tế đã tàn sát không biết bao nhiêu bộ lạc và dân tộc. Tác giả đánh giá cao nước Anh bởi vì ông ta không biết những tội ác đất nước ấy gây ra cho Trung Đông. 

- Và sau đó chúng ta có, tôi không chắc, từ phân biệt đối xử với tôn giáo của người khác là gì? Tôi không thích cách tác giả làm cho các tín đồ Da đen trông có vẻ mù quáng và ngu ngốc. Ông ta cũng coi thường đạo Hồi. Tuy nhiên, đó không phải là lý do để vứt bỏ cuốn sách. Đọc cuốn sách này giúp tôi hiểu được những bất công mà con người (và động vật hoang dã) phải chịu đựng và nhận thức của những người thời xưa về tự nhiên, chủng tộc, giới tính, v.v."