Cho đến nay Trăm năm cô đơn vẫn là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của Gabriel Garcia Márquez, nhà văn Columbia, người được giải Nobel về văn học năm 1982.

Trăm năm cô đơn ra đời (1967) đã gây dư luận sôi nổi trên văn đàn Mỹ Latinh và lập tức được cả thế giới hâm mộ. Sau gần hai mươi năm, Trăm năm cô đơn đã có mặt ở khắp nơi trên hành tinh chúng ta để đến với mọi người và mọi nhà.

Trăm năm cô đơn là câu chuyện về dòng họ Buênđya tồn tại bảy thế hệ, người đầu tiên bị trói vào gốc cây và người cuối cùng bị kiến ăn, một dòng họ tự lưu đày vào cõi cô đơn để trốn tội loạn luân. Trong cõi cô đơn ấy, những Accađiô, Aurêlianô, Rêmêđiôt và những Amaranta đã ra đời, sống với số phận bi đát như đã được định trước: lay lắt trong nỗi cô đơn và hoài nhớ, thấp thỏm lo phạm tội loạn luân. Nhưng rồi họ yêu nhau mãnh liệt và lấy nhau với hy vọng tình yêu sẽ cải tạo nòi giống mình. Nhưng họ vẫn đẻ ra những đứa con có đuôi lợn và chính nó đã kết liễu dòng họ Buênđya.

Trăm năm cô đơn là lời kêu gọi mọi người hãy sống đúng bản chất người – tổng hòa các mối quan hệ xã hội – của mình, hãy vượt qua mọi định kiến, thành kiến cá nhân, hãy lấp bằng mọi hố ngăn cách cá nhân để cá nhân mình tự hòa đồng với gia đình, với cộng đồng xã hội. Vì lẽ đó Garcia Márquez từng tuyên bố cuốn sách mà ông để cả đời sáng tác là cuốn sách về cái cô đơn và thông qua cái cô đơn ông kêu gọi mọi người đoàn kết, đoàn kết để đấu tranh, đoàn kết để chiến thắng tình trạng chậm phát triển của Mỹ Latinh, đoàn kết để sáng tạo ra một thiên huyền thoại khác hẳn. Một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai bị kẻ khác định đoạt số phận mình ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu có lối thoát và hạnh phúc là cái có khả năng thực sự, và nơi những dòng họ bị kết án trăm năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ hai để tái sinh trên mặt đất này.

Người đọc tìm đến với Trăm năm cô đơn bởi đó là cuốn sách văn học thực sự mang hơi thở đời sống hiện đại – cuốn sách của niềm tin và những số phận con người.

Trích dẫn

Rất nhiều năm sau này, trước đội hành hình, đại tá Aureliano Buendía đã nhớ lại buổi chiều xa xưa ấy, cái buổi chiều cha chàng dẫn chàng đi xem nước đá. Thời ấy Macondo là một làng gồm vài chục nóc nhà tranh vách đất dựng bên bờ con sông nước trong như pha lê, ào ào chảy qua những tảng đá nhẵn thín, trắng bong, to như những quả trứng thời tiền sử. Thế giới lúc ấy còn ở buổi hồng hoang, chưa có tên gọi các đồ vật và để gọi chúng cần phải dùng ngón tay chỉ đích vào từng cái một. Cứ vào tháng ba hàng năm, một gia đình digan rách rưới dựng một túp lều bạt ngay cạnh làng, rồi với tiếng kèn trống om xòm quảng cáo những phát minh mới. Ðầu tiên, họ mang tới đá nam châm. Một người digan lực lưỡng, hàm râu lởm chởm, bàn tay lông lá, tự giới thiệu mình tên là Melquíades, làm ngay một thí nghiệm kinh rợn trước công chúng về cái mà chính ông ta gọi là kỳ quan thứ tám của các thuật sĩ luyện đá giả kim uyên bác xứ Macedonia. Từ nhà này sang nhà khác ông ta kéo hai thỏi kim loại đã nhiễm từ, và thế gian kinh ngạc khi nhìn thấy xanh, chảo, vạc, kìm, bếp lò rơi đổ ngổn ngang, đồ gỗ kêu cọt kẹt bởi đinh, ốc vít đang như muốn tuột ra khỏi chúng, và hơn nữa, những vật bằng sắt bị mất từ lâu bỗng lại ló ra ở ngay nơi chủ nó từng mất công tìm kiếm. Rồi sau đó, mọi người bị lôi cuốn đổ ra đường, lũ lượt, ồn ĩ theo sau những trò ảo thuật đầy thích thú của Melquíades. “Mỗi một vật đều có cuộc sống”, người digan quảng cáo với giọng lanh lảnh, “vấn đề là ở chỗ biết đánh thức tâm hồn nó”. José Arcadio Buendía, người có trí tưởng tượng thường đi xa hơn cả bản thể của giới tự nhiên và còn vượt quá rất xa những phép màu và trò huyền ảo, nghĩ rằng có thể sử dụng phát minh vô bổ ấy vào việc moi vàng từ trong lòng đất. Melquíades, vốn là người cao thượng, nói trước cho ông biết: “Ðồ này không dùng vào việc ấy được” Nhưng José Arcadio Buendía lúc ấy vẫn không tin đức tính cao thượng của người dân digan, vì vậy đã đổi ngay một con lừa và một cặp dê đực để lấy hai thanh nam châm. Úrsula Iguarán, vợ ông, từng nghĩ tới việc dùng những gia súc này vào việc mở rộng ngôi nhà ở của họ vốn dĩ tồi tàn, đã không thuyết phục được ông. “Ôi dào, rồi chúng ta sẽ có ối vàng để xây nhà, lo gì mình ơi”, ông cãi lại. Trong vài tháng liền, ông trần lưng làm việc để biến những dự đoán của mình thành hiện thực. Ông đào bới cặn kẽ khắp vùng, kể cả dưới lòng sông, rồi kéo rê hai thanh nam châm, khấn rõ to lời cầu nguyện của Melquíades. Vật duy nhất mà ông đào bới được là một bộ giáp trụ từ thế kỷ XV, bị lớp han rỉ phủ kín, bên trong như một quả bí khổng lồ chứa đầy đá Khi José Arcadio Buendía và bốn người đàn ông trong đội khai quật của mình tháo rời được bộ giáp trụ này, họ thấy một bộ xương người đã hóa vôi, cổ còn lủng lẳng đeo một hộp thánh tích bằng đồng đựng mớ tóc phụ nữ.

Những người digan trở lại làng vào tháng ba. Lần này họ mang theo một kính viễn vọng và một kính lúp có mặt gương to bằng mặt trống, họ trưng bày chúng như thể trưng bày phát kiến mới nhất của những người Do Thái ở Amsterdam. Họ cho một cô digan ngồi ở đầu làng và đặt cái kính viễn vọng ở ngay cửa vào của túp lều bạt. Sau khi trả năm đồng real, dân chúng ghé mắt vào kính viễn vọng và họ nhìn thấy cô digan ở ngay trong tầm tay mình. “Khoa học đã rút ngắn khoảng cách”, Melquíades quảng cáo: “Chẳng bao lâu, không cần phải ra khỏi nhà mình, con người đã có thể biết được bất kỳ điều gì xảy ra trên trái đất”. Một buổi trưa nóng bỏng, bọn họ làm một thử nghiệm khủng khiếp bằng chiếc kính lúp khổng lồ: chồng một đống cỏ khô ở giữa đường rồi lấy kỉnh lúp chiếu tia mặt trời vào, thế là cả đống cỏ bùng cháy. José Arcadio Buendía, người vẫn chưa nguôi buồn về sự thất bại của việc dùng nam châm tìm vàng, lại nẩy ra ý định sử dụng phát minh ấy như một thứ vũ khí. Một lần nữa, Melquíades lại khuyên can ông. Nhưng rồi chính Melquíades phải nhận lại hai thanh nam châm và nhận thêm ba đồng tiền thời thuộc địa để đổi cho José Arcadio Buendía chiếc kính lúp. Úrsula khóc lóc thảm thiết. Số tiền ấy là một phần của túi tiền vàng mà cha bà đã tích cóp trong suốt cuộc đời ăn đói mặc rách và bà đã chôn chúng dưới gầm giường chờ dịp cần thiết mới tiêu đến. José Arcadio Buendía, ngay đến an ủi vợ cũng không có ý định, đã vội dốc toàn lực vào những việc thí nghiệm với đam mê của một nhà khoa học và hơn thế nữa còn dấn thân vào những nguy hiểm chết người. Ðể làm rõ hiệu quả của kính lúp đối với quân địch, chính ông đã tự mình đứng ngay vào vùng ánh sáng là nơi kính lúp đã hội tụ tia nhiệt mặt trời, và ông bị bỏng, những vết bỏng này trở thành ung nhọt phải mất nhiều thời gian mới chữa lành. Suýt nữa ông đốt nhà vì không thể chịu nổi những lời rỉa rói của bà vợ, người từng cảnh giác trước nỗi nguy hiểm của phát minh này. Ông ở lỳ trong phòng mình nhiều giờ liền, tính toán về những khả năng chiến lược của thứ vũ khí mới sáng chế, cho đến khi ông viết được một bản chỉ dẫn mạch lạc có tính sư phạm và đầy sức thuyết phục. Ông gửi nó cho nhà chức trách, có kèm nhiều bằng chứng của kinh nghiệm bản thân và vài bản vẽ thuyết trình. Ông giao nó cho một sứ giả mang đi. Người này đi xuyên rừng, bị lạc trong đầm lầy đáng sợ, vượt qua những con sông cuộn sóng, suýt nữa thì mất mạng vì thú dữ, vì thất vọng và dịch bệnh, trước khi tìm thấy con đường mà những con lừa của người đưa thư vẫn qua lại. Mặc dù đường đi đến thủ đô thời ấy là rất khó khăn, José Arcadio Buendía đã dự định sẽ chế tạo rất nhanh thứ vũ khí này nếu như chính phủ ra lệnh thử nó ngay trước mặt các nhà quân sự và ông sẽ đích thân hướng dẫn cho họ về nghệ thuật phức tạp của chiến tranh sử dụng năng lượng mặt trời. Trong nhiều năm liền ông chờ đợi thư phúc đáp của chính phủ. Cuối cùng, chán chường vì chờ đợi, ông đành phải than phiền với Melquíades về sự thất bại của công việc vừa ở bước khởi đầu. Vậy là người digan lại có dịp bày tỏ tư chất cao thượng của mình: trả lại ông những đồng tiền Doblón để lấy lại chiếc kính lúp ngoài ra còn để lại một số tấm bản đồ của người Bồ Ðào Nha, và một vài dụng cụ đi biển. Tự tay mình, Melquíades còn viết một bản tổng kết chặt chẽ về những nghiên cứu của thày tu Hermann, rồi đặt vào vị trí của nó để ông có thể sử dụng kính thiên văn, la bàn và thước đo góc 60 độ. Trong những năm tháng mưa dài lê thê, José Arcadio Buendía ở lỳ trong cái phòng nhỏ làm ở cuối nhà để không một ai quấy rầy mình trong lúc làm thí nghiệm. Nhờ hoàn toàn bỏ thói quen ăn, ngủ đúng giờ, ông ở ngoài sân suốt đêm để theo dõi đường đi của các vì sao và suýt nửa mắc bệnh đau đầu vì ý muốn xây dựng một phương pháp chính xác để tìm phương Nam. Khi đã thành thạo sử dụng và điều khiển các dụng cụ, ông có ý niệm về một khoảng không gian mênh mông cho phép ông đi thuyền trên những biển xa lạ, đến những miền đất hoang vu không bóng người và kết bạn với những người hiển hách mà không cần phải ra khỏi bàn làm việc của mình. Ðấy là thời kỳ ông mắc tật nói một mình, đi dạo khắp nhà chẳng để ý tới ai trong lúc Úrsula và bọn nhóc nhổ cỏ trong vườn, chăm bón chuối và khoai sọ sắn và củ từ, bí ngô và cà dái dê. Không một dấu hiệu báo trước nào, bỗng nhiên ông ngừng mọi hoạt động sôi nổi để chìm đắm trong suy tưởng. Vài ngày liền, ông cứ như người bị bỏ bùa mê, giọng thì thầm nhắc đi nhắc lại cho chính mình nghe hàng loạt những phỏng đoán đầy kinh ngạc mà ông không cần tin vào sự hiểu biết của chính mình. Cuối cùng, vào giờ ăn trưa, một ngày thứ ba tháng chạp, ông xổ tung tất cả nỗi căng thẳng trong tâm tưởng mình. Bọn trẻ cả đời sẽ nhớ mãi vẻ trang trọng của cha chúng khi ông ngồi vào đầu bàn, người run rẩy lên cơn sốt, gầy rộc đi vì công việc quan sát kéo dài và vì lòng chua xót bởi trí tưởng tượng. Ông đã công bố cho chúng biết phát kiến của mình: “Trái đất tròn như thể quả cam ấy?“ Bà Úrsula không chịu được nữa. “Nếu ông có điên thì một mình ông điên thôi”, bà gào, “nhưng xin ông chớ có nhồi sọ bọn trẻ những ý nghĩ bông lông của mình nhét. José Arcadio Buendía lặng thinh, không để cho mình sợ hãi trước cơn thất vọng của bà vợ mà trong lúc bực mình bà đã quẳng kính thiên văn xuống sàn nhà làm nó vỡ toang. Ông làm cái khác và tụ tập những người đàn ông trong làng ở ngay trong phòng nhỏ rồi bằng thứ lý thuyết khó hiểu đối với bọn người này ông đã chứng minh cho họ thấy khả năng trở lại điểm xuất phát ban đầu nếu cứ nhằm hướng đông cho tàu thuyền chạy. Cả làng đều nhất loạt đồng ý với nhau rằng José Arcadio Buendía đã mất trí. Giữa lúc ấy, Melquíades trở lại để dàn xếp mọi việc. Ông công khai biểu dương trí thông minh của con người bằng việc đơn thuần nghiên cứu thiên văn, đã xây dựng được một lý thuyết từng được công nhận trong thực tiễn mặc dù cho đến lúc ấy ở làng Macondo vẫn chưa ai biết tới, và để bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình ông đã tặng lại José Arcadio Buendía một phòng thí nghiệm giả kim, một kỷ vật sẽ gây ảnh hưởng quyết định đối với tương lai của làng này.

Vào thời ấy, Melquíades già đi nhanh đến mức ai cũng phải ngạc nhiên. Trong những chuyến đầu tiên đến làng này hầu như ông cùng trạc tuổi với José Arcadio Buendía. Nhưng trong lúc ông này vẫn giữ được sức khỏe vâm váp của mình, cái sức chỉ cầm hai tai con ngựa có thể quật ngã nó, thì người digan dường như đã bị suy nhược bởi những đau đớn khủng khiếp. Thực ra đó là hậu quả của rất nhiều thứ bệnh lạ lùng do ông nhiễm phải trong những chuyến du lịch vòng quanh thế giới. Theo như chính lời ông kể với José Arcadio Buendía trong lúc giúp ông này dựng phòng thí nghiệm thì thần chết đuổi theo ông khắp miền, nó cứ đánh hơi ống quần ông mà theo riết nhưng vẫn không túm được ông. Cuộc đời ông là cả một cuộc trốn chạy trước không biết bao nhiêu thứ tai ương và hoạn nạn đã giống xuống đầu cái giống người. Ông qua khỏi bệnh phong ở Ba Tư, bệnh hoại huyết ở quần đảo Mã Lai, bệnh hủi ở Alexandria, bệnh phù thũng ở Nhật Bản, bệnh dịch hạch ở đảo Madagascar, nạn động đất ở Sicily và nạn đắm tàu xảy ra thường ngày ở eo biển Magallanes[4]. Cái con người kỳ vĩ đó, người từng nói rằng mình nắm được các bí quyết của Nostradamus[5], là một người mang vẻ buồn rầu, bởi mặt trời buồn bao quanh ông, với con mắt Á châu dường như đã biết được mặt trái của sự vật. Ông dùng một chiếc mũ rộng vành màu đen nom như cánh quạ xòe và một chiếc áo nỉ khoác ngoài bị rêu xanh hàng thế kỷ phủ lên. Nhưng dù có sức hiểu biết quảng bác là thế và có môi trường hoạt động bí hiểm là thế, ông vẫn có một tư chất người, một tư chất thế tức, là cái làm cho ông gắn bó với những vấn đề nhỏ nhặt của cuộc sống thường ngày: ông than vãn về những mệt mỏi của tuổi già, do phải chịu đựng hoàn cảnh kinh tế túng thiếu, và từ lâu ông không mỉm cười vì bệnh hoại huyết đã nhổ hết răng. José Arcadio Buendía hiểu rõ rằng cái buổi trưa ngột ngạt Melquíades đã bộc bạch những chuyện riêng tư của đời mình mãi mãi sẽ là ngọn nguồn của một tình bạn vĩ đại. Bọn trẻ đầy thán phục trước những câu chuyện huyền thoại của ông. Aureliano, lúc ấy chưa quá năm tuổi, sẽ phải nhớ suốt đời hình ảnh Melquíades mà cậu đã được nhìn thấy: ông ngồi để cho ánh sáng chói chang trắng bạc từ cửa sổ chiếu vào mặt, trong lúc mồ hôi ròng ròng chảy trên hai thái dương và với giọng nói trầm vang của cây đại phong cầm ông đã rọi ánh sáng vào những miền tối tăm nhất của trì tưởng tượng. José Arcadio, ông anh cậu có lẽ sẽ di lại cho con cháu mình cái hình ảnh kỳ diệu ấy như di lại một kỷ vật truyền đời. Trái lại, Úrsula lại giữ mãi kỷ niệm xấu về chuyến thăm viếng ấy, bởi vì bà bước vào phòng đúng lúc Melquíades do đãng trí đã làm vỡ một chai thủy ngân.

 

Nguồn: downloadsach.com 

------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về các cuốn sách hay tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn/

Trở thành CTV viết reviews sách để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị cùng Bookademy, gửi CV (tiếng Anh hoặc Việt) về: [email protected] 

Xem thêm

Đây không phải là cuốn tiểu thuyết điển hình của bạn. Nó khó hiểu, mang tính ẩn dụ mạnh mẽ và quan tâm nhiều đến lịch sử và thông điệp hơn bất kỳ cái nhìn sâu sắc nào về các nhân vật của nó. Đồng thời, nó đôi khi trữ tình, đẹp đẽ, sáng tạo và được ban cho những chuyến đi bất ngờ đến với điều kỳ diệu, ngay khi nó dường như sa lầy vào một thực tế vô cùng khắc nghiệt.


Đó là câu chuyện về thị trấn Macondo và gia đình đã giúp thành lập thị trấn, trải dài suốt hàng trăm năm tựa đề. Rõ ràng, khi bạn xem lại các chi tiết của tác phẩm này, toàn bộ tác phẩm là một phép ẩn dụ cho những gì đã xảy ra với Columbia, từ thời kỳ đầu phải đối mặt với những kẻ xâm lược Tây Ban Nha cho đến các hành động bóc lột của các công ty nhằm cướp đi của cải từ đất nước mà không quan tâm đến cái giá phải trả về con người cho những nỗ lực của họ, và bước vào thế giới tham nhũng chính trị hiện đại được hỗ trợ bởi các mối đe dọa vũ lực hầu như không được che đậy.

 

Gia đình mà cuốn sách kể về rất độc đáo về nhiều mặt, bao gồm những nhân vật vừa vô cùng mạnh mẽ vừa bị điều khiển bởi những nỗi ám ảnh, nhưng lại thiển cận, tách biệt khỏi thế giới thực bởi những tưởng tượng nội tâm của chính họ. Ở đây, chúng ta tìm thấy người anh hùng nổi loạn và người vợ thống trị sát cánh cùng những hồn ma, người Do Thái lang thang và những người gypsy vô cùng bí ẩn. Tuy nhiên, tất cả những nhân vật này đều được nhìn từ xa, mặc dù chúng ta biết rõ những suy nghĩ và ý tưởng bên trong của họ, và rất khó để có cảm xúc với bất kỳ ai trong số họ. Về mặt này, sự giống nhau quá mức của những cái tên qua nhiều thế hệ khác nhau trong gia đình cũng không giúp ích được gì và việc thường xuyên tham khảo biểu đồ phả hệ ở đầu cuốn sách là cần thiết để cố gắng giữ mọi thứ rõ ràng.


 Về mặt phong cách, hãy chuẩn bị cho những câu dài hàng trang và những bài diễn thuyết dài nhiều trang đột ngột không liên quan ngay đến những diễn biến hiện tại. Thường thì bài văn xuôi này khá hay và đôi khi rất hiệu quả trong việc vẽ ra những bức tranh về một số sự kiện rất khủng khiếp theo những cách có thể khắc sâu vào não bạn. Ngoài ra, hãy chuẩn bị đầy đủ cho những chuyến bay của chủ nghĩa hiện thực huyền diệu, khi bạn đi từ những điều trần tục hàng ngày đến những điều rõ ràng là không thể có trong cuộc sống đời thường, những món đồ thường làm nổi bật sự tương phản sâu sắc và tầm thường của những điều bình thường.


Nếu bạn đang tìm một câu chuyện thẳng thắn với những người bình thường thì đây không phải là nơi để tìm. Thay vào đó, nếu bạn đang tìm kiếm điều gì đó rất khác thường và sẵn sàng làm việc để tìm ra cốt lõi của những gì đang xảy ra thì công việc này có thể khá bổ ích. Thật nghi ngờ nếu chỉ đọc một lần tác phẩm này sẽ bộc lộ hết tiềm năng của nó, có quá nhiều ý nghĩa, biểu tượng và ẩn dụ bị chôn vùi ở đây cần được kiểm tra cẩn thận để mang lại kho báu đầy đủ của nó. Chủ đề của nó không mang tính nâng cao tinh thần, sự vô ích, sự vô nhân đạo thường xuyên của con người đối với người khác là rõ ràng, sự lặp đi lặp lại của các hành động và kiểu tính cách từ thế hệ này sang thế hệ khác dẫn người ta đến con đường đặt câu hỏi rằng bất cứ thứ gì có mục đích gì, và sự cô lập cần thiết của mỗi cá nhân với những người khác vẫn lan tỏa khắp nơi. một đám mây đen bao trùm toàn bộ tác phẩm. Đây là một tác phẩm u ám, vàng được chôn cất cẩn thận và người đọc phải là một nhà thăm dò siêng năng.

"Trăm Năm Cô Đơn" của Gabriel Garcia Marquez là một tác phẩm văn học lớn, nhưng không dễ đọc. Bạn sẽ không thể lật trang nhanh như khi đọc một tiểu thuyết của John Grisham hay "Mật mã Da Vinci." Thay vào đó, bạn phải dành thời gian đọc từng trang, thấm từng câu chữ và cảm nhận những hình ảnh mà tác giả tạo nên. Marquez từng nói rằng ông kể chuyện giống như cách bà của ông kể cho ông nghe, với một gương mặt không biểu cảm. Điều này rất quan trọng khi bạn đọc sách, bởi đó chính là giọng điệu mà cuốn sách truyền tải.

Nếu bạn có thể vượt qua 50 trang đầu tiên, bạn sẽ thấy hứng thú với câu chuyện, nhưng 50 trang đầu thực sự khá thử thách. Có lúc, bạn sẽ thấy khó theo dõi các nhân vật vì hầu hết họ đều có tên là Jose Arcadio hoặc Aureliano, nhưng may mắn là cuốn sách có một cây gia phả ở đầu để giúp bạn theo dõi. 

Câu chuyện xoay quanh gia đình Buendia, từ khi lập ra ngôi làng hư cấu Macondo cho đến khi kết thúc. Gia đình này trải qua nhiều cuộc chiến tranh, hôn nhân, sự ra đời và cái chết, cũng như nhiều tiến bộ công nghệ và các cuộc xâm lăng của những người Di-gan và các công ty chuối (mà thực sự công ty chuối đóng vai trò rất quan trọng). Bạn sẽ nhận ra, như bà Ursula, rằng thời gian trong gia đình này không trôi thẳng, mà quay vòng tròn. Và khi vòng tròn đó khép lại với Macondo và gia đình Buendia, bạn sẽ hiểu rằng Marquez đã dẫn dắt bạn qua một hành trình văn học tuyệt vời. Cuốn sách này rất đáng đọc, nhưng hãy chuẩn bị tinh thần cho một trải nghiệm đọc không hề dễ dàng.

Lần đầu tiên tôi đọc "Trăm năm cô đơn" không lâu sau khi nó được xuất bản lần đầu bằng tiếng Anh, gần 40 năm trước. Đó là một tác phẩm tuyệt vời và kỳ diệu, nếu bạn muốn giới thiệu về văn học Mỹ Latinh. Sau đó, tôi đã đọc một số tác phẩm khác của Marquez, đáng chú ý là "Tình yêu thời thổ tả" (Vintage International) khoảng 20 năm sau đó, nhưng không có tác phẩm nào có thể làm say đắm "tình yêu" đầu tiên của tôi, tác phẩm này, vì vậy tôi nghĩ rằng nên đọc lại. "Phép thuật" của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo không hề mất đi sức hấp dẫn của nó.


Câu chuyện kể về sáu thế hệ của một gia đình, được thành lập bởi Jose Arcadio Buendia và Ursula Iguaran, những người cũng đã giúp thành lập thị trấn Macondo, ở vùng đất thấp của Colombia, mặc dù đất nước này không bao giờ được xác định cụ thể. Sự giao phối cận huyết (và giao phối xa) trong một gia đình này đơn giản là đáng kinh ngạc. Tôi không nhớ phiên bản gốc có biểu đồ phả hệ ở phần đầu không, nhưng phiên bản này thì có, và nó cung cấp một tài liệu tham khảo vô giá để giữ cho những cuộc ngoại tình và thế hệ con cháu sau này được chính xác, đặc biệt là vì nhiều cá nhân qua nhiều thế hệ có cùng tên. "Scarlet Letter" được tiên tri cho một gia đình có mức độ huyết thống cao như vậy là gì? Rằng một đứa trẻ sẽ được sinh ra với một cái đuôi lợn.


Marquez làm người đọc choáng ngợp với cường độ văn phong của mình, như thể ông có một cuốn sách 1600 trang trong người, nhưng được giới hạn 400 trang. Đó là bản phác thảo đầy giận dữ của một nghệ sĩ đường phố, khiến từng nét vẽ trong một bức chân dung trở nên có giá trị. Điểm mạnh, sự điên rồ và tương tác của những người đàn ông và phụ nữ được mô tả trong những sự kiện đáng nhớ. Và có vẻ như có sự cân bằng và phát triển thực tế trong các nhân vật của ông. Marquez cũng là bậc thầy của sự chuyển tiếp, từ sự kiện này sang sự kiện khác và từ thế hệ này sang thế hệ khác với các nhân vật của ông chuyển từ tã lót, sang tuổi trưởng thành, rồi đến sự suy yếu của họ.


Ngay từ lần đọc đầu tiên, tôi đã nhớ đến Rebeca, với chứng nghiện "đáng xấu hổ" của cô ấy là ăn đất. Lần đầu tiên, tôi cho rằng đó là do "chủ nghĩa hiện thực huyền ảo" của Marquez, vì không ai thực sự ăn đất. Vài năm sau, tôi biết rằng đó là một vấn đề y tế lan rộng, thường do thiếu hụt khoáng chất mà người đó đang cố gắng khắc phục. Tác giả cũng mô tả căn bệnh mất ngủ đã lan đến Macondo, kèm theo một căn bệnh hay quên. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, hay sự hay quên của thế hệ "hiện tại" đã đánh mất những câu chuyện của quá khứ?


Việc xác định khoảng thời gian diễn ra chậm rãi. Marquez nhắc đến Sir Frances Drake, nhưng ông ấy không rõ là ai. Chỉ khi chụp ảnh gia đình, dưới dạng ảnh daguerreotype, người ta mới nhận ra rằng bức ảnh phải chụp vào những năm 1840 - 1850, với sáu thế hệ nữa. Có rất nhiều chủ đề: vì đây là Châu Mỹ Latinh, Marquez có những gringos bắt buộc và các đồn điền chuối của họ (than ôi, đúng là như vậy). Có một cuộc chiến tranh vô tận, vô nghĩa, với hai bên cuối cùng không thể tuyên bố họ đang chiến đấu vì điều gì, ngoại trừ, tất nhiên, chính cuộc chiến tranh đó; có những người phụ nữ khiến đàn ông phát điên vì vẻ đẹp của họ, và có sự độc ác của phụ nữ với nhau (than ôi, một lần nữa, "tình chị em"); có sự phát triển kinh tế, và cuộc nổi loạn của công nhân, và việc sử dụng những thành viên khác cùng giai cấp, nhưng mặc quân phục, để đàn áp nó; có vai trò của Giáo hội Công giáo ở Mỹ Latinh, và thậm chí là một thành viên gia đình sẽ trở thành Giáo hoàng và có những miêu tả không nao núng về quá trình lão hóa, than ôi, đối với thế lực thứ ba.


Khi đọc lại, tôi nhận thấy một phần của cuốn tiểu thuyết đã được phát triển thêm nhiều trong Innocent Erendira: and Other Stories (Perennial Classics) . Cũng nằm gọn trong cuốn sách là một tài liệu tham khảo quan trọng: "Trong số đó có Jose Arcadio Segundo và Lorenzo Gavilan, một đại tá trong cuộc cách mạng Mexico, bị lưu đày ở Macondo, người đã nói rằng ông đã chứng kiến chủ nghĩa anh hùng của đồng chí Artemio Cruz." Kiểm tra tiểu sử của Marquez, ông là bạn lâu năm của Carlos Fuentes, đã đưa tài liệu tham khảo này vào 100 năm, đó là điềm báo cho tôi, vì tôi đang cân nhắc đọc lại cuốn tiểu thuyết tuyệt vời The Death of Artemio Cruz: A Novel (FSG Classics) của Fuentes . Và về mặt điềm báo, thậm chí là redux, liệu các kế hoạch du lịch trong tương lai có bao gồm việc gặp một nhân vật khác trong cuốn sách, Nữ hoàng Madagascar không?


Tôi vừa ăn tối với một người phụ nữ từng là Đại sứ tại một trong những quốc gia Mỹ Latinh. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ mẹ đẻ của bà, và bà vẫn đọc một số tác phẩm của các nhà văn Mỹ Latinh bằng tiếng Tây Ban Nha để "duy trì kỹ năng ngôn ngữ của mình". Đối với "100 năm", bà đã đọc nó bốn lần, mỗi lần bằng tiếng Anh. Đó là một kỷ lục mà tôi khó có thể lặp lại, nhưng cuốn tiểu thuyết này, tôn vinh Giải thưởng Nobel với tên gọi của nó, có thể cần đọc lại lần thứ ba, nếu tôi có đủ thời gian. Nó già đi một cách đẹp đẽ, không bị suy yếu, và mang lại nhiều ý nghĩa hơn khi đọc lần thứ hai.

Trong thế giới của câu chuyện này, sự cô đơn có thể được chia sẻ cũng như được trân trọng. Nó có thể là thứ mang lại sự an ủi, nhưng nó cũng có thể là gánh nặng không thể chịu đựng được.


Trong thế giới của câu chuyện này, một phần là thực tế và một phần là tưởng tượng, với sự khác biệt giữa hai thứ dao động theo biên độ ngẫu nhiên, băng là một viên ngọc quý hiếm, chiến tranh được tưởng tượng là được chiến đấu bằng kính lúp và hệ thống miễn dịch có thể kháng cự gần như vô hạn với các tác nhân gây bệnh. Sự ngoan cố và chủ nghĩa giáo điều trở thành công cụ để sinh tồn và kích động chiến tranh, và giữ cho trí tưởng tượng ở trạng thái chờ đợi. Nỗi sợ hãi được xếp hạng thấp hơn sự tò mò nhưng sự tò mò có thể đánh bại sự gắn kết xã hội và mục đích chung. Sự tò mò thống trị, bắt đầu từ khi sinh ra, hoàn toàn không liên quan đến bất kỳ loại sáp nào của Icarus.


Trong thế giới của câu chuyện này, sự phát triển và đa dạng của quần thể chim có thể hoạt động như một ngọn hải đăng định hướng cũng như một nguồn âm thanh của sự điên rồ. Những phát minh có thể nằm trong trí tưởng tượng và như là chuẩn mực, có thể can thiệp vào cuộc sống gia đình với khuynh hướng giám sát và làm cho các thành viên trẻ tuổi của gia đình trở nên cứng nhắc. Bói toán và những chuyến bay kỳ thú khác có thể cùng tồn tại với sự đổi mới khoa học và kỹ thuật với những người du mục lang thang là những người đổi mới. Cũng có một phần của chủ nghĩa hư vô hậu hiện đại, nơi các từ ngữ đã đệ đơn ly hôn với người tham chiếu của chúng.


Trong thế giới của câu chuyện này, mất trí nhớ là một căn bệnh truyền nhiễm tập thể cũng như chứng mất ngủ. Có sự đều đặn nhưng cũng có một đặc điểm mất cân bằng, ví dụ như điệu nhảy, hậu quả của độ chính xác của máy đếm nhịp và đàn piano. Sự duyên dáng xã hội và sự cứng nhắc của cách cư xử cũng có ở đây, cũng như sự thận trọng và các hình thức công cụ ngôn ngữ khác của sự thao túng xã hội. Nhưng những tưởng tượng và các công cụ được sử dụng để chứng minh chúng, có thể bị phá hủy với sự nhiệt tình như khi chúng được phát minh ra.


Trong thế giới của câu chuyện này, đất đai của vùng đất có thể bị giẫm đạp, thậm chí bị tiêu thụ, mà không tính đến bất kỳ vị thần nào và thậm chí không cần vươn tới sự giúp đỡ của họ. Chiến tranh được gây ra bởi những chia rẽ thông thường, những tinh thần ý thức hệ thông thường, kết hợp với cả cơn sốt tôn giáo và phản tôn giáo. Sự giả dối và lừa đảo, và những kẻ lừa đảo lan truyền vào lãnh thổ với các khái niệm thay thế và những viên thuốc trơ. Sự tàn ác và hung bạo của các nhà lãnh đạo hòa hợp tốt với chủ nghĩa giáo điều chính trị của họ.


Trong thế giới của câu chuyện này, việc không thể ngủ không phải vì lo lắng hay lương tâm cắn rứt, mà là vì một bệnh dịch. Đam mê và tình dục không dữ dội nhưng ồn ào, đủ để đánh thức người chết và được thực hiện ở những nơi không thích hợp. Như thường lệ, những người chiến đấu trong những cuộc chiến này không biết tại sao họ lại làm như vậy. Sự thuần chủng về mặt di truyền dẫn đến những thách thức đối với hiện trạng, và với đặc điểm là thiếu xương sống, chúng thực hiện bạo lực đối với những con thú hoang sở hữu nó.


Trong thế giới của câu chuyện này, sự phấn khích của quyền lực (mặc dù phần sau là hư cấu) bị phản đối bởi những cảm xúc say mê và cường điệu khác, khiến quyền lực lún sâu như một con lợn trong đống phân vinh quang tạm thời. Sự cô lập khiến quyền lực giảm theo cấp số nhân, khiến nạn nhân của nó mất phương hướng và cô đơn hơn bao giờ hết. Địa ngục sau đó trở thành sự thiếu hụt những người khác chống lại Sartrian.


Trong thế giới của câu chuyện này, hoàn cảnh gia đình, mối quan hệ, tên gọi và đặc điểm là kết quả của sự nhiễu loạn và kết hợp ngẫu nhiên tích tụ điện tích khi cọ xát với nhau, với sự đẩy lùi tiếp theo khi thu thập cùng một dấu hiệu, và kết hợp lại nếu không. Sự bất ổn trong quan điểm xảy ra mà không có sự chậm trễ ngớ ngẩn của sự không hành động.


Trong thế giới của câu chuyện này, vẻ đẹp, vẻ đẹp đáng kinh ngạc, vẻ đẹp không thể tin được xuất hiện và truyền tải cả những phản ứng điển hình và không điển hình, mê hoặc cả kẻ yếu và kẻ mạnh, nhưng lại gây ra sự cô đơn cho người mang nó. Nhưng vẻ đẹp này là tự nhiên, để phân biệt với vẻ đẹp giả tạo của những người có thẩm quyền, thường được gói trong vòng tay và giấy nhăn.


Trong thế giới của câu chuyện này, thị trấn và làng mạc có thể được biến đổi bằng cả sự sáng tạo cũng như sự nghi ngờ, bởi những kẻ phá hoại đồi trụy mở các hình tam giác của họ cho bất kỳ hình trụ nào sẵn lòng và trả tiền. Sự khoan dung cũng như sự kỳ thị người nước ngoài được thể hiện rõ ràng đối với phát ban da của các yếu tố nước ngoài lan rộng qua các ranh giới và hòa nhập với cư dân, biến đổi kiến trúc của nó và buộc họ phải có những cách cư xử giả tạo và quá mức khéo léo, thận trọng và khoan dung về mặt dân tộc.


Trong thế giới của câu chuyện này, trực giác có thể chiến thắng nhận thức, và nhận thức đôi khi có thể chiến thắng trực giác, nhưng băng có thể được tạo ra trong một khu rừng nhiệt đới. Sự tham ăn được ca ngợi là lòng hiếu khách. Đôi khi, dạ dày có thể có khối lượng không giới hạn. Những suy nghĩ phù phiếm đôi khi bị kìm nén nhanh chóng nhưng các mô tả sử dụng các câu chạy hiệu quả và tuyệt vời như các thế hệ con người trải dài trong câu chuyện này; màn trình diễn đáng kinh ngạc này của những âm mưu văn học.

"Cứ đủ để tôi chắc chắn rằng bạn và tôi tồn tại ở thời điểm này."


Ít kỷ niệm đọc sách nào có thể sánh với cảm giác ngọt ngào của một ngày xuân ấm áp khi tôi còn là sinh viên, ngồi trên cỏ bên bờ sông và bắt đầu đọc cuốn tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của Gabriel Garcia Marquez. Cuốn sách ngay lập tức cuốn hút tôi, và tôi say mê theo dõi các câu chuyện huyền thoại về gia đình Buendía và thị trấn hư cấu Macondo qua nhiều thế hệ, cho đến khi ánh sáng mặt trời tắt dần. Âm thanh của con sông tạo nên một nhịp điệu nhẹ nhàng cho việc đọc của tôi, giúp tôi cảm nhận rõ ràng sự trôi chảy của thời gian, từ việc này đến việc khác. Cuốn tiểu thuyết này thực sự là một kiệt tác, không chỉ là một tác phẩm quan trọng của văn học Mỹ Latinh mà còn được công nhận quốc tế với vẻ đẹp và sự sâu sắc lớn lao. Những câu chuyện trong cuốn sách kết hợp với nhau tạo thành một mạng lưới phê phán lịch sử, bình luận về chủ nghĩa thực dân, đấu tranh chính trị, chiến tranh, sống dưới chế độ độc tài, cũng như các vấn đề cá nhân như gia đình, di sản và tình yêu hoặc sự thiếu vắng nó. Đây là một cuốn sách dày đặc nhưng đầy mê hoặc, sẽ mãi mãi lưu lại trong trái tim và tâm trí của người đọc.


Trăm năm cô đơn được viết chỉ trong 18 tháng nhưng sẽ tồn tại mãi như một tác phẩm quan trọng của thế kỷ 20. Cuốn sách đã bán được hơn 50 triệu bản bằng hơn 25 ngôn ngữ (với bản dịch tiếng Anh của Gregory Rabassa, người được Marquez chọn và được cho là dịch tốt hơn bản gốc tiếng Tây Ban Nha) và vẫn tiếp tục quyến rũ bạn đọc khắp nơi. Đây là một viên đá tảng của văn học Mỹ Latinh hiện đại, giúp Marquez trở thành một cái tên quen thuộc cùng với Jorge Luis Borges, từ người mà Marquez đã lấy nhiều cảm hứng (đặc biệt từ câu chuyện *Khu Vườn Những Con Đường Rẽ Nhánh*, đã ảnh hưởng đến kết thúc vòng tròn của tiểu thuyết).


Harold Bloom viết về Trăm năm cô đơn* rằng “Đó là toàn bộ câu chuyện, nơi mọi thứ có thể và không thể đều xảy ra cùng một lúc.” Đúng như vậy, có cảm giác như toàn bộ cuộc sống đang tràn ra từ cuốn sách, một sử thi gia đình kéo dài từ những năm 1820 đến 1920. Marquez kết hợp việc tạo ra huyền thoại với các sự kiện lịch sử, sử dụng chủ nghĩa hiện thực huyền bí để khám phá ý nghĩa đang ẩn hiện ngay trước mắt trong thực tế lịch sử. Carlos Fuentes viết trong *Tiểu thuyết Lớn của Mỹ Latinh* rằng việc kể chuyện của Marquez là “một hành động tri thức, một sự phủ nhận các tài liệu giả mạo của nhà nước mà đã che đậy thực tại của chúng ta.” Trong khi Marquez nói trong một cuộc phỏng vấn năm 1988 rằng “không có một dòng nào trong các tiểu thuyết của tôi không dựa trên thực tế,” điều này dường như xác nhận phân tích của Fuentes và chỉ ra rằng việc kể chuyện thực tế là một phương pháp để mở khóa những điều trước đây không thể thấy trong cuộc sống.


Với cách tiếp cận hiện thực huyền bí này, Marquez có thể chuyển từ những câu chuyện về những người đàn ông khổng lồ, phụ nữ bay lên trời, hay những cơn mưa kéo dài vô lý đến những sự kiện lịch sử thực sự, như cuộc Thảm sát Chuối khi Công ty Trái cây United Fruit (hiện là Chiquita) kêu gọi quân đội tàn sát công nhân đình công theo yêu cầu của Mỹ. Thông qua tác phẩm này và các điều tra về sự can thiệp quân sự của Mỹ, các chế độ độc tài và những nhà cách mạng, Marquez đã tách câu chuyện lịch sử ra khỏi lăng kính thực dân, và trao cho lịch sử một cuộc sống huyền thoại riêng để hoạt động tự do hơn. Điều này cũng mở ra cho cuốn tiểu thuyết nhiều cách đọc khác nhau, với nhiều chủ đề có thể được nhấn mạnh.


“Bí mật của một tuổi già tốt đẹp đơn giản là một giao ước danh dự với sự cô đơn.”


Cô đơn là một chủ đề chính trong cuốn tiểu thuyết, với cảm giác cô đơn của Buendía được phóng đại trong sự cách ly của Macondo, nơi dần sụp đổ về cuối cuốn sách. Nỗi cảm giác đất nước của mình đang sụp đổ trước các lực lượng bên ngoài được thể hiện mạnh mẽ khi cuốn tiểu thuyết kết thúc. Khi công nghệ mới xuất hiện và các xã hội khác bắt đầu hòa nhập, những người của thế hệ cũ cảm thấy ngày càng cô đơn hơn với thế giới. Tuy nhiên, tất cả những điều này không diễn ra theo cách đơn giản, và cái kết cho thấy lịch sử là một quá trình vòng tròn, liên tục sáng tạo và hủy bỏ. “...thời gian không trôi qua...nó đang quay vòng….”


Trăm năm cô đơn thật sự xứng đáng để đọc và giữ một vị trí rất đặc biệt trong trái tim tôi. Đây là một sự kết hợp tuyệt vời giữa hiện thực huyền bí và cái nhìn sâu sắc về lịch sử, là một tác phẩm quan trọng trong văn học thế giới. Đây là cuốn sách để đọc và đọc lại nhiều lần.

Cuốn tiểu thuyết đã dạy tôi rất nhiều thứ. Nó cho tôi thấy rằng nỗi buồn và tình yêu thường đi cùng nhau, và cuộc sống vừa đơn giản vừa phức tạp. Nó dạy tôi rằng nhiều điều ước thực sự trở thành hiện thực, nhưng không bao giờ theo cách chúng ta mong đợi và thường kèm theo một điều kiện. Nó dạy tôi rằng mặt trời và mưa luôn đi đôi, mặc dù đôi khi chúng ta phải chờ đợi bốn năm, mười một tháng và hai ngày để mưa ngừng rơi. Nó cho tôi hiểu rằng có nhiều cách để yêu như có nhiều người yêu trên thế giới, và con người có thể vừa lười biếng vừa năng động, vừa tốt bụng vừa xấu xa, vừa trẻ tuổi vừa già nua, vừa xấu xí vừa đẹp đẽ, vừa trung thực vừa không trung thực, vừa hạnh phúc vừa buồn bã, tất cả cùng tồn tại đồng thời – cùng nhau và đơn độc.

Nó dạy tôi rằng chúng ta luôn khao khát những gì mình không có, cho đến khi chúng ta đạt được điều đó. Lúc đó, chúng ta lại bắt đầu khao khát những gì đã mất khi những ước mơ của chúng ta trở thành hiện thực.

Cuốn tiểu thuyết này đã mở ra cho tôi một thế giới kỳ quặc và lôi cuốn tôi vào đó theo cách không cuốn sách nào khác làm được. Trong từng thành viên của gia đình Buendía, tôi thấy một mối liên hệ nào đó với bản thân mình hoặc là chính tôi. Macondo là một thế giới thu nhỏ, và bất cứ nơi đâu tôi đi, nó luôn theo tôi như một cái bóng. Nó không phải là nơi giàu có, yên bình hay đẹp đẽ. Nó chỉ là Macondo. Không hơn không kém.

Cuốn sách yêu thích của tôi? Có quá nhiều, nhưng tôi không nghĩ có cuốn nào yêu thích hơn cuốn này.

Tôi mua cuốn sách này cách đây ba năm, ngay sau khi dịch Covid bùng phát. Tôi hiểu tại sao một số người coi thường nó vì nó thiếu thứ tự thời gian, thiếu sự đồng cảm với nỗi đau của con người, việc sử dụng tên chung cho các nhân vật khác nhau và bao gồm cả ấu dâm và bạo lực quá mức. Không thể phủ nhận nó khác xa với những gì người ta cho là đẹp. Tuy nhiên, tôi có một số suy nghĩ muốn chia sẻ với độc giả hiện tại và tương lai.


Đầu tiên, tôi không hiểu tại sao nó lại được trao giải Nobel và nhận được nhiều lời khen ngợi từ nhiều chính trị gia. Có lẽ cuốn sách này có một ý nghĩa đặc biệt đối với họ, nếu bạn hiểu được ý tôi.


Thứ hai, không thể phủ nhận rằng cuốn sách đã miêu tả một câu chuyện đau buồn khó hiểu và khó chấp nhận. Tuy nhiên, hãy tin tôi khi tôi nói rằng chúng ta đang sống trong một thế giới phản ánh thế giới được mô tả trong cuốn sách này. Sự khác biệt duy nhất là chúng ta có thể không nhận ra nó, vì chúng ta chọn nhắm mắt làm ngơ hoặc vì chúng ta sống trong những khu dân cư có đặc quyền. Nếu bạn đến thăm các quốc gia như Ukraine, Ấn Độ, Trung Quốc, Syria, Mexico, Sudan và nhiều quốc gia khác, bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy những điều hèn hạ được miêu tả trong cuốn sách này trở nên mờ nhạt như thế nào so với thực tế khắc nghiệt mà người dân ở những khu vực đó phải đối mặt. Tôi cho rằng cuốn sách này đã đánh giá thấp mức độ thực sự của thực tế và con người của chúng ta. Ý định của tôi không phải là bi quan hay hư vô mà là truyền đạt sự thật.


Thứ ba, một cách để tiếp cận việc đọc cuốn sách này là coi các từ và câu theo đúng giá trị bề ngoài mà không đi sâu vào logic và lập luận. Đừng tập trung vào những câu hỏi như ai là ai hoặc tại sao một số việc nhất định lại xảy ra. Thay vào đó, hãy đọc cuốn sách như thể bạn đang thưởng thức một bức tranh trừu tượng. Đọc mà không cần phải quay lại và phân tích, vì không có trật tự logic, không có lý do và không có mối liên hệ bao quát. Các nhân vật sống trong một thế giới ngẫu nhiên và không có phương hướng. Chúng ta cố gắng thiết lập trật tự đơn giản vì ngay từ đầu đã không có trật tự cố hữu nào tồn tại. Mỗi sự kiện đều đủ mạnh để đứng riêng lẻ như một hình ảnh đáng chú ý. Hãy trân trọng từng khoảnh khắc trong cuốn sách và kiềm chế việc tìm kiếm câu trả lời. Nó không phải là một cuốn sách bạn đọc và sau đó mổ xẻ trong bài kiểm tra SAT.


Tôi hiếm khi thấy những cuốn sách thú vị, thậm chí cả "House of Mirth", cuốn sách khiến tôi mất hứng thú do những mô tả và suy đoán phức tạp và không cần thiết về suy nghĩ bên trong của con người. Tuy nhiên, cuốn sách này thì khác. Nó thực sự quyến rũ, nếu không muốn nói là tuyệt vời.


Tôi hy vọng bạn tìm được cách hoàn thành cuốn sách này và rút ra được ý nghĩa từ nó.

" "Những gì bạn đã mong đợi?" Anh ấy lẩm bẩm. "Thơi gian trôi" . “Chuyện là thế đấy,” Úrsula nói, “nhưng không nhiều lắm.” Khi nói điều đó, cô nhận ra rằng mình đang đưa ra câu trả lời giống như câu trả lời mà đại tá Aureliano Buendía đã đưa ra trong phòng giam của ông, và một lần nữa cô rùng mình trước bằng chứng rằng thời gian không trôi qua, như cô vừa thừa nhận, mà nó đang quay trở lại một vòng tròn." --- Trăm Năm Cô Đơn 


Thú thực là tôi đang bối rối. Tôi đọc cuốn sách này vì danh tiếng của nó: Giải Nobel, lựa chọn số 4 của độc giả NY Times trong số những cuốn sách hay nhất trong 125 năm qua. Khẳng định nổi tiếng của William Kennedy rằng “đây là tác phẩm văn học đầu tiên kể từ Sách Sáng thế ký mà toàn thể nhân loại phải đọc”. Tôi không thấy nó. Tôi chấp nhận rằng vấn đề là của tôi.


Đừng hiểu sai ý tôi: rõ ràng cuốn sách này rất đáng được quan tâm. Các trang viết nhỏ giọt những bình luận sâu sắc về nhiều vấn đề quan trọng, bao gồm tình yêu, sự phù phiếm, kiến thức, ký ức, thời gian, chiến tranh và quyền lực. Câu chuyện vừa buồn cười vừa u sầu. Có rất nhiều ẩn dụ và ám chỉ. Tác giả nổi tiếng, mang tính đột phá và sử dụng xuất sắc chủ nghĩa hiện thực huyền ảo một cách tinh tế đến mức hoàn hảo. Nhưng trải nghiệm đọc của tôi, mặc dù tích cực, nhưng lại không phù hợp với những giải thưởng. Mô tả bằng một từ hay nhất là tôi thấy cuốn sách thú vị và đó không hẳn là một sự chứng thực rực rỡ.


Những từ “cô đơn” và “đơn độc” xuất hiện thường xuyên trong cuốn sách. Thường thì chúng mang hàm ý tiêu cực (cô đơn, cô lập), nhưng đôi khi những từ này gợi lên sự an ủi, thoải mái hoặc bình yên. Khi tôi gặp một trong những từ này, tôi thấy mình dừng lại để tự hỏi tác giả (hoặc người dịch) có ý định gì. Đó là một bài tập đáng giá đối với tôi, có lẽ nó cũng sẽ dành cho bạn.


Một cảnh báo nhỏ: gần như tất cả mọi người trong cuốn sách đều có chung tên với một số người khác. Bạn sẽ gặp khó khăn trong việc giữ các nhân vật và mối quan hệ của họ một cách thẳng thắn. Nhưng đó là do thiết kế; đó là một phần quan trọng của câu chuyện

"Sau đó, anh ấy nỗ lực lần cuối để tìm kiếm trong trái tim mình nơi mà tình cảm của anh ấy đã mục nát, nhưng anh ấy không thể tìm thấy nó."

― Gabriel García Márquez, Trăm Năm Cô Đơn


Câu chuyện chói lọi về gia đình Buendía trải qua nhiều thế hệ. Đó là một câu chuyện phong phú về những người đã xây dựng cuộc sống cho chính mình ở Macondo, một thị trấn được thành lập bởi tộc trưởng José Arcadio Buendía.


“Lúc bấy giờ Macondo là một ngôi làng có hai mươi ngôi nhà bằng gạch nung, được xây dựng bên bờ sông nước trong vắt chạy dọc theo nền đá bóng loáng, trắng và to như những quả trứng thời tiền sử. thiếu tên, và để chỉ ra chúng cần phải chỉ.”


José Arcadio Buendía là một thợ nút chai! Anh ta rất muốn thực hiện một khám phá kỳ diệu đến nỗi anh ta phung phí tiền của gia đình vào những phát minh được mua từ một nhóm người gypsy lang thang thỉnh thoảng xuất hiện một cách thần kỳ ở Macondo. Rất may, người vợ điềm đạm (và cũng là chị họ đầu tiên) của anh, Úrsula Iguarán, đã làm việc cật lực để đảm bảo gia đình sẽ không chết đói. Trong cuộc hành trình kỳ ảo này, các cuộc chiến đã xảy ra, vận may được và mất, và những trái tim hoàn toàn tan nát, khiến đôi tình nhân bị phụ bạc chết trên thảm hoa. Phải nói rằng những lựa chọn dại dột của gia đình Buendia là nguồn kịch tính và giải trí vô tận.


Lúc đó đại tá Aureliano Buendia nói: “Hãy nhìn xem chúng ta đang lâm vào tình trạng hỗn loạn nào chỉ vì chúng ta mời một gã ngốc ăn chuối”.


Tôi đã từng đọc tác phẩm của Márquez trước đây và yêu thích tác phẩm của ông, nhưng đây lại là một con vật hoàn toàn khác! Ông ấy xóa mờ ranh giới giữa ma thuật và hiện thực một cách thành thạo đến mức có cảm giác như thể anh ấy đang tạo ra điện ảnh! Nỗi kinh hoàng được xoa dịu bởi một lượng lớn những điều kỳ quái khiến tôi cười ra nước mắt. Chữ viết đẹp đến nao lòng, mỗi nhân vật đều được vẽ một cách tinh xảo.


Trong cả cuộc đời đọc sách, chỉ có một vài cuốn tiểu thuyết đặc biệt chạm đến bản chất con người. Đối với tôi, "Trăm Năm Cô Đơn" là một trong số đó. Tôi được đưa vào tạo vật đẹp như mơ của Márquez, và trong vài ngày qua tôi đã quên mất thế giới thực và sống hoàn toàn trong thế giới của ông ấy. Điều hối tiếc duy nhất của tôi là tất cả đã phải kết thúc.


Vì vậy, nếu bạn đang tìm kiếm một cuốn tiểu thuyết sử thi để khiến bạn nghẹt thở, đừng tìm đâu xa!