Cuốn sách có nội dung nhẹ nhàng, sâu lắng. Theo trình tự mười hai tháng, từng câu văn gợi nhớ đến tuổi thơ đáng nhớ. Hẳn ai trong chúng ta cũng tìm thấy bóng hình hồi nhỏ của mình trong đó. Cuốn sách là hoài niệm, là những tháng năm không bao giờ quên.

   1.   Bậc thầy sành ăn Bắc Việt

Theo dòng thương nhớ mười hai tháng, Vũ Bằng đã cho người đọc dạo quanh thế giới ẩm thực với tất cả những “đặc sản” ở miền Bắc. Mùa nào thức nấy, mỗi mùa  người đọc lại được “ nếm” những tinh hoa của đất trời hòa quyện với phương thức chế biến dân tộc. Từ cái thú ăn bánh chưng rán với cá kho đến ăn chả cá anh vũ, cốm Vòng ăn với chuối trứng cuốc,.. là những kinh nghiệm quý báu về ẩm thực nói riêng và tinh hoa dân tộc nói chung mà nhà văn đã truyền tải đến bạn đọc.

Với khí hậu nhiệt đới, miền Bắc được trời phú cho nhiều loại hoa quả hảo hạng. Mỗi loại có một mùi vị riêng, một phong cách riêng. Để cảm nhận được sự khác nhau giữa các loại hoa quả đã là một điều khó vậy mà tác giả còn có những cảm nhận rất sành sỏi về từng giống trong một loại quả. Phải là người rất sâu sắc và am tường mới có thể có những cảm nhận rất độc đáo như vậy được.

Hồng, thực ra, có ba bốn loại: hồng hạc, bốn múi, trái dài, ít hột, ngon nhất là giống ở Việt Trì; hồng ngâm tức là thứ hồng xanh, có trái ăn hơi chát, muốn kiếm thứ thực ngon phải là giống ở Sơn Tây. Nhưng trong lễ cưới hỏi, nhất định phải tìm cho được hồng mòng, chẳng những trông đã đẹp mắt, mà cốm và hồng ăn vào miệng lại nhuyễn với nhau, vừa thơm, vừa ngọt, vừa bùi, ấy ai đa cảm, mấy mà không nghĩ rằng thịt ướp lấy thịt, da ướp lấy da để hòa làm một cũng chỉ mê li đến thế chớ không thể nào hơn được!

Rành về các loại trái cây, sự tương thích của từng loại trái cây trong các tình huống trong cuộc sống là vậy, nhà văn lại cũng rất rành về cách chế biến các loại thức ăn vào từng mùa sao cho ngon. Đọc những câu văn miêu tả cách chế biến mà người đọc không khỏi tưởng tượng đến căn bếp nào ngào ngạt hương thơm với bàn tay người nội trợ khéo léo. Thật khó để kiềm lòng trước những áng văn sống động, độc giả tiếp tục đọc mà thấy sao ruột cồn cào như xem chương trình quảng bá ẩm thực vậy.


… Chỉ một lát thôi, mổ ruột bỏ lòng đi rồi nhồi với hạt sen, ý nhĩ, miến, thịt ba chỉ, mộc nhĩ,nấm hương, cho vào nồi hầm lên,…Đáo để cái giống chim này, sao mà thịt nó thơm, mà lại mềm đến thế, mềm đến cả xương,.. Chết, đem nó làm món gì cũng ngon chết người đi: xáo với măng, lá lốt như kiểu xáo vịt đã hay, thái ra từng miếng nhỏ hấp với rau cải nõn lại càng ngon tệ, nhung ngon vượt bậc là đồ một chõ xôi “ nếp cái mới” rồi úp một hai con chim ngói lên trên để cho mỡ nó nhuyễn vào xôi rồi lấy ra ăn thật nóng, nhất định cả thế giới này không có một món ăn nào sánh nổi.

2.  Nỗi lòng của người con xa xứ

Chiến tranh làm chia cắt hai miền đất nước, chia cắt về mặt địa lý, lìa đôi tình cảm làm hai. Nhà văn nhìn đâu cũng thấy nỗi buồn da diết, nhìn đâu cũng tự mình so sánh Bắc Việt quê ta giờ này đang ra sao. Đặc biệt đến những ngày tháng Bảy, khi mưa ngâu giăng giăng khắp lối nhà văn không tự chủ được mà có nhiều liên tưởng thú vị.

Theo dòng hồi tưởng những sự tích xưa cũ về Ngưu Lang- Chức Nữ, nhà văn nghĩ đến người con gái đẹp nào đó cũng thấy mưa trong lòng mình vì cho rằng mình là thứ Chức Nữ bị trời đầy cách biệt. Mà Ngưu Lang- Chức Nữ còn có ngày gặp nhau để vui buồn, than khóc với nhau còn chàng Ngưu Lang của nàng thì chưa định rõ ngày gặp lại. Sầu thương, nhớ nhung tất cả chỉ dám thể hiện trong tiềm thức không có ai để dãi bày.

Ai không vui duyên hương lửa, ai ôm trong lòng vạn lý tình, ai tiễn người đi mãi mãi không về, ai nhìn khói sông mà nghĩ đến người bạt ngàn mây nước, ai nhớ ai cùng xây mộng ước mơ nhưng vì trời chẳng chiều lòng người mà phải gẩy khúc đàn cho người khác nghe,vào những ngày mưa ngâu như thế, hỏi có đau không? Hỏi có sầu không? Ai cũng như ai, không nói ra một lời nhưng đều thấy lòng nặng trĩu một bầu trời thương cảm.

Thương cho tiết trời tháng Bảy sao mà âm u quá, thương cho vợ chồng chàng Ngưu một năm mới gặp nhau được một lần, thương cho mình, thương cho kiếp người sao dệt toàn bằng những sự nhỡ nhàng ngang trái. Đời là vậy từ ngàn xưa đến giờ vẫn luôn còn đầy những điều trái ngang. Giọt nước mắt hàng năm của Ngưu Lang-Chức Nữ cũng như giọt lệ của chính mình. Chính lòng người vương sầu làm câu chuyện cổ từ xưa cũ đượm nên một màu u buồn, thi vị. Trong đêm mưa sườn sượt trong không gian nghe thấy tiếng van xin của người ăn mày, tiếng guốc lê sền sệt trên đường khuya, tiếng rao buồn của người bán hàng rong chưa được về nhà, người thi sĩ dậy lên trong mình một bầu trời thương cảm về kiếp người. Tại sao có những người khổ quá sức, là khổ thê thì có thể gọi họ là người được không?

Tháng bảy buồn đâu chỉ ở chuyện tình đẹp đẽ đứt gánh giữa chừng. Tháng bảy còn là tháng người li hương tiếc nuối không khí chùa chiền miền Bắc vào dịp Tết Trung Nguyên để giải thoát cho các cô hồn chưa được siêu sinh vẫn cứ phải vất vưởng ở bờ ngang bụi doc chỉ còn biết trông vào người có đôi chút từ tâm, ngày rằm mồng một thí bỏ cho bát cháo nắm xôi, hay đốt cho thoi vàng,manh áo để rồi.

Nghe gà gáy kiếm đường lánh ẩn

Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra.

Bao nhiêu sự tích xa xưa được tác giả đưa ra, lý giải rõ ràng thể hiện nỗi niềm mong nhớ về một miền Bắc Việt quê hương mình. Ở quê hương của mình người ta đều như vậy dành cả tháng Bảy để hoài niệm. Hoài niệm về mối tình dang dở, hoài niệm về người đã khuất, hoài niệm về những sự tích dân gian kì bí, còn người con xa quê nay cũng hoài niệm như vậy chỉ khác một điểm nay còn phải thêm hoài niệm về quê hương, về phong tục nơi quê nhà. Hoài niệm về quê hương là nhớ đến những phong tục tập quán ở nơi ấy.

Vào ngày Tết Trung Nguyên nhà nào cũng phải nấu một nồi cháo trắng múc ra từng chén đặtở trước nhà, và đèn vàng mã, chè đường bỏng bộp bày ra để cho các u hồn phảng phất ở chung quanh tìm lại mà phối hưởng. Lễ xong các vật phẩm ấy người thường không ăn, nhưng để cho người nghèo khó đến giành giật để ăn hoặc cho vào bị đem về nhà.

Người Bắc Việt xưa là vậy, không chỉ nghĩ cho mình mà còn nghĩ cho những người nghèo. Họ luôn mang trong mình lòng thương cảm với những số phận con người không may mắn. Xót thương thay cho những mảnh đời bất hạnh. Con người nơi đây luôn tinh tế và nhạy cảm như vậy. Có lẽ bởi vì thế mà một ngươi con xa xứ xuất thân từ miền Bắc xa xôi, bao nhiêu năm ròng vẫn không thôi nhớ về.

Tháng tám, mùa thu- mùa trăng đẹp nhất trong năm. Mọi sự của mùa thu đều diễn ra chầm chậm làm không gian thêm buồn. Cái buồn se sắt, đẹp não nùng của Bắc Việt thân yêu cũng lại biệt mù tăm tích, không biết đến bao giờ mới lại được nghe thấy hơi heo may về với hoa vàng. Cảnh thu khắp nơi nhẹ nhàng, tình tứ như Hằng Nga dịu dàng mà sao nỗi lòng của người xa quê trong thời chuyển mùa lại da diết, xao xuyến đến vậy.

Quái lạ là cái mùa kì diệu: tự nhiên trời chỉ đổi màu, gió chỉ thay chiều làm rụng một cái lá ngô đồng, thế là bao nhiêu cảnh vật đều nhuộm một màu tê tái, làm cho lòng người đa cảm tự nhiên thấy se sắt, tư lường. Thế là trời đất có cây tự nhiên hiện ra dưới một lăng kính mới: trăng sáng đẹp là thế cũng hóa ra buồn, trời bát ngát yêu thương như thế mà cũng hóa ra tê tái, sông nước đẹp mông mênh như thế mà cũng hóa ra đìu hiu lạnh.

Nỗi lòng người tha hương được thể hiện tinh tế ở tất cả các mùa. Mùa nào, tháng nào nhà văn cũng không thôi nỗi sầu, nỗi sầu ấy nhuốm màu vào cảnh vật. Đúng như đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói: “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Bởi trong vẫn còn mang nặng nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương chưa biết bao giờ mới được đoàn tụ. Buồn là thế nhưng nhà văn vẫn là một người coi trọng cái đẹp, ông vẫn muốn sống, muốn tận hưởng cái đẹp, cái tinh hoa của đất trời

Cái buồn mùa thu lê thê, cái buồn mùa thu tê mê, cái buồn mùa thu não nề nhưng không day dứt đến mức làm cho người ta chán sống. Ấy là vì gió thu buồn, nhưng trời thu lại đẹp, đẹp nhất là trăng thu, đẹp đến nỗi làm người ta buồn nhưng vẫn cứ muốn sống, để hưởng cái đẹp bàng bạc trong khắp trời cây mây nước- nếu chết thì uổng quá.

Trong những ngày cuối năm, khi thời khắc chuyển giao năm mới cận kề, người con phương Bắc thấy nôn nao cảm xúc về quê hương thân yêu. Nhớ từ những hoạt động mọi năm đầm ấm bên vợ con nhớ đi đến nhớ không khí ngày tết quê nhà nhớ về. Các phong tục tập quán từ xa xưa như in sâu thẳm trong tâm trí tác giả: ngày Tết không được quét nhà, vì sợ đuổi thần tài ra cửa, không được đánh vỡ chén bát để tránh đổ vỡ suốt năm, không được khâu vá vì kim chỉ tượng trưng cho công việc làm ăn vất vả. Những tập tục dân gian hiện lên như một đoạn kí ức đẹp đẽ nhất trong đầu nhà văn. Mộng càng dài càng đẹp,càng đẹp lại càng buồn, càng buồn càng nhớ quê hương.

Giữa những ngày Tết, trong đám thiên hạ vui xuân, y cứ đi như một người bị chứng thụy du, đầu óc mông lung, nhớ cái Tết Bắc Việt không thể nào chịu được.

3.  Một người chồng thương vợ


Trong tác phẩm “ Thương nhớ mười hai” còn được ghi dấu ấn bởi tình cảm vợ chồng sâu sắc. Hầu như trong mười hai tháng trong năm, ta đều bắt gặp hình ảnh người vợ lam lũ, chịu thương, chịu khó của tác giả. Có thể nói tình cảm phu thê giữa hai người là rất sâu đậm, nay bị xa cách không khiến tình cảm phai nhạt đi mà càng thêm nồng nàn, thương nhớ.  Chính chiến tranh làm chia cách hai miền đất nước, chia xa đôi vợ chồng , ngay cả ngày người vợ lìa cõi đời tác giả cũng không có cơ hội ở cạnh vuốt mắt.

Khóc thì yếu thật, nhưng anh ta khóc, khóc âm thầm- rồi khóc nức nở, khóc thảm thiết như chưa khóc thế bao giờ…Người chồng dừng lại, sợ chính bóng mình. Nước mắt anh lại ứa ra, và chảy dài theo lối đi lấp loáng một bông sao rụng.

Đây chính là hiện thực tàn khốc của chiến tranh, ngay cả những giờ khắc cuối cùng của cuộc đời con người cũng không thể nào đoàn tụ bên người thân yêu nhất mà chỉ có thể lặng mình ngồi khóc một mình với tất cả đau đớn tột cùng. Vì mang trên vai sự nghiệp cách mạng giang dở mà giờ phút thiêng liêng nhất anh cũng không thể san sẻ nỗi đau bên gia đình mà phải một mình cô đơn gặm nhấm nỗi đau cùng cực.

Ở trong miền Nam giàu có sung sướng, hương phấn thừa thãi, nơi có những tiếng cười tiếng nói đa tình, những bộ đứng, cách đi duyên dáng của các cô bạn mỹ miều anh vẫn không sao nỗi đau thương về người vợ quá cố

Bao nhiêu ấm cúng, bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu an ủi đã chết rồi, bây giờ chỉ còn lại một cái gì trống rỗng mông mênh, một cái gì nhạt nhẽo không làm rung động được khứu giác, một cái gì ghê rợn thoang thoảng mùi bệnh tật và chết chóc.

4. Kết


Cuốn sách là tiếng lòng của người con xa xứ. Đọc xong cuốn sách ta thấy yêu sao mảnh đất quê mình. Mỗi cá nhân thấy tự có ý thức trong việc trân trọng giá trị quê hương. Những điều giản dị mà trước kia ta không chú ý đến giờ đây ta thấy sao mà trân quý vậy. Đặc biệt trong giai đoạn đất nước đổi mới về kinh tế, phát triển du lịch, mở cửa đón du khách quốc tế đến thăm quan đất nước ta thì cuốn sách chính là nhịp cầu giao lưu văn hóa, quảng bá về đất nước- con người Việt Nam.

Tác giả: Thảo Hiền- Bookademy

----------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về các cuốn sách hay tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn/

Tham gia Bookademy Team để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị, đăng ký CTV tại link: https://goo.gl/forms/7pGl3eYeudJ3jXIE3
Xem thêm