Đất nước ta đã trải qua những cuộc chiến tranh để có nền hòa bình như ngày hôm nay, có biết bao nhiêu người lính đã ngã xuống vì độc lập của dân tộc,nhưng có một lực lượng đặc biệt mà chúng ta không thể không kể đến vì chính họ cũng đã góp công lớn vào chiến thắng Điện Biên Phủ trên không (12 ngày đêm) và chính họ cũng đã có những chiến công oanh liệt bảo vệ vùng trời của tổ quốc. Đó là lực lượng không quân nhân dân Việt Nam những người lính của bầu trời. Tác phẩm của trung tướng Phạm Phú Thái khắc họa chân thật nhất những cuộc tham gia chiến đấu của một phi công. Lính bay cái tên gần gũi không quá cao sang nhưng là tác phẩm mang màu sắc bi tráng của một người phi công trải qua giai đoạn sống còn của dân tộc và kể lại những gì mình đã thấy,đã cảm nhận và trải qua cho các thế hệ sau này.

Dựa trên nền tảng từ thực tế những ngày chiến đấu với quân thù trong cuộc trường chinh của dân tộc Việt Nam,những lần nằm giữa lằn ranh của sự sống và cái chết,trong những lần quần nhau với địch trên bầu trời xanh,những tình cảm giữa cấp trên và cấp dưới,thầy và trò, tình đồng chí cùng chung nhau một lí tưởng,tình người giữa người đi kẻ ở trong những ngày chiến đấu gian khổ và hi sinh. Tác phẩm hồi ký Lính bay của trung tướng Phạm Phú Thái như là những phần còn lại trong kí ức của ông về những trận chiến mà ông đã tham gia và trải qua là tuổi trẻ ông được sống với lí tưởng của mình,lí tưởng của một người lính bay chân chính,tình cảm đan xen những khó khăn mà họ những người lính đã trải qua thật sự cộng hưởng cho nhau,thêm vào cách viết riêng của một vị trung tướng đã tạo ra một tính đặc trưng trong từng câu chữ mà chỉ có ở mỗi người lính Bộ Đội cụ Hồ sở hữu bỗng khiến tác phẩm trở nên gần gũi và chân thật.

Tác phẩm  Lính bay  lưu lại những kí ức về những sự kiện lớn của phi công Phạm Phú Thái và những điều đã được ông trải qua,chứng kiến năm ông mới 16 tuổi khi còn là một cậu thiếu niên trẻ tuổi cho đến năm 1968 ông chính thức trở thành phi công tiêm kích của Trung đoàn Không quân Sao Đỏ . Khoảng thời gian từ khi ông còn là tân binh dự khóa bay và trải qua huấn luyện bay thực tế ở nước Nga đã được ông kể lại để người đọc hiểu được phần nào sự vất vả,nghiêm khắc và quy củ của một phi công tiêm kích chính quy,những ngày ông tham gia cùng phi đội của mình quần thảo trên không trung với địch đến những trận đánh vào sinh ra tử ở chiến trường Khu 4,những ngày sống và chiến đấu của ông được thể hiện rõ ràng qua các trang sách như là kể lại những sự kiện mà ông đã trải qua. Có những sự kiện chỉ được nhắc đến như một dấu ấn,có những sự kiện được nhớ lại bằng những trang viết với cách kể,với sự đặc tả sống động của người trong cuộc làm độc giả như được chứng kiến những giây phút thiêng liêng nhất của một phi công trẻ,của những phi công trong Đoàn bay khóa 3 của Đoàn Không quân Sao Đỏ trong cuộc chiến không cân sức giữa phi đội bay của chúng ta và những pháo đài bay của kẻ thù.

Hồi kí Lính bay tái hiện lại một thời kì huấn luyện, chiến đấu và trưởng thành của thế hệ tác giả và những người đồng đội của mình, sự trưởng thành của phi công trẻ Phạm Phú Thái từ ngày đầu bay số 2 bị địch bắn rơi đã chiêm nghiệm “Không thấy địch trước sẽ rơi vào bị động và không thấy địch khi lâm trận thì sớm muộn cũng sẽ bị bắn hạ. Tôi nung nấu ý nghĩ phải rèn cặp mắt, phải phát hiện được và phát hiện địch sớm mới mong tìm cơ hội đánh và thắng” đến những trận đánh cuối cùng ở Khu 4 đã “cảm thấy tự hài lòng vì cự li phát hiện đã nâng lên trông thấy trung bình 15 km khi bay tập đánh chặn MiG-21 mục tiêu”.



Tác giả đã hiểu được và ghi nhớ những kinh nghiệm trong quá trình đào tạo cũng như qua thực tiễn chiến đấu từng bước trở thành một phi công đáng gờm của không quân nhân dân Việt Nam. Trung tướng Phạm Phú Thái lúc còn đang là học viên dự khóa bay cho đến khi trở thành phi công thì trong tác phẩm ông có nhắc đến và luôn ghi nhớ lời thầy Sviklist: “phi công không có lần thứ hai để sửa chữa khuyết điểm đâu”. Hay phía cuối của sách cũng đã trích một câu nói mà ông tin tưởng vào mỗi người lính phi công trẻ vì ông cũng đã từng phải trải qua để trở thành một anh lính bay giỏi như vậy “Binh nhất hay trung úy cũng đều là người lính cầm súng, cầm cần lái, cũng đều đánh nhau như thế cả”.

Ông không phân biệt binh nhất hay trung úy ai cũng đều là lính mà là lính thì phải chiến đấu để phụng sự cho tổ quốc là lý tưởng kiên quyết cần có và đặc biệt là ở mỗi người lính của cụ Hồ. Qua lời kể của trung tướng Phạm Phú Thái thời đó tuyển học viên dự khóa bay đều trải qua những quá trình khắt khe nhất,khó khăn nhất,các thanh niên nếu đang học ở trường đại học sẽ được phong hàm cấp úy còn những người học cấp ba thì sẽ được phong hàm binh nhất và trung tướng Phạm Phú Thái là một ví dụ như thế,nhưng quan điểm của ông là binh nhất cũng có thể trở thành một phi công giỏi điều đó đã được ông hiện thực hóa và chứng minh. Chúng ta cũng không thể kể quá nhiều về chiến thắng và vẽ ra một bức tranh quá màu hồng.

Tác phẩm của vị trung tướng có xen lẫn giữa những thành công và những chiến thắng vĩ đại nhưng cũng có những thất bại và những tính toán sai lệch cũng xảy ra những tổn thất như ông đã ghi lại cụ thể trong từng trang viết của mình,trong chiến tranh cũng như trong cuộc sống có được sẽ có mất. Đối phi công  thì điều đó càng đúng,càng rõ nhưng Trung tướng Phạm Phú Thái đã nhìn và tái hiện lịch sử như nó vốn là như thế,khách quan,trung thực và truyền tới người đọc một triết lí sống : Trong cuộc sống phải có được và mất,mọi chuyện đều có đúng có sai và chiến thắng nào cũng trả giá bằng thất bại,chiến tranh thì không có màu hồng chỉ có thắng và thua,hi sinh để thắng thì điều đó luôn đúng.

Phi công,lực lượng vốn được coi là “lính cậu” nhưng vẫn chỉ là “lính”. Người lính phi công Phạm Phú Thái trước khi tham gia vào đội bay trở thành một người lính lái chim sắt chiến đấu với tiêm kích của địch đều phải trải qua những thử thách. Con người,tính cách của người lính bay cũng được rèn luyện qua những thử thách khắc nghiệt đó,trong cách viết cũng mang đậm chất của một người lính,một sự chân chất nhưng cứng rắn ,lời văn của một phi công khi cầm viết thực sự rất chân thật và gần gũi không quá cao sang và màu hồng nhưng lại thấm và truyền tải rất nhiều thông điệp mà tác giả đã trải qua.



Tác phẩm Lính bay được viết bởi chính người trong cuộc chứ không phải được ghi bởi một nhà văn như hầu hết các hồi ký đã ra trước đó. Trung tướng Phạm Phú Thái đã hơn một lần tự nhận ông không phải nhà văn,không có khiếu văn chương nhưng mỗi dòng văn của ông là sự trải nghiệm của một người lính diễn đạt phần kí ức về những trận chiến, những sai lầm và tình đồng chí không biết làm cho người đọc cảm thấy xúc động và hồi hộp bao nhiêu lần. Đoạn mở đầu: “Tôi – binh nhất, phi công tiêm kích” viết về chuyến xuất kích ngày 10/7/1968  không khí ác liệt của chiến trường Khu 4 và cũng thể hiện rõ quyết tâm của những phi công như người lính trẻ Phạm Phú Thái,những bài học kinh nghiệm đầu tiên trong không chiến,trong nhảy dù thoát hiểm,những ngạc nhiên của đồng chí Huyện đội trưởng huyện Thanh Chương về cái chuyện “cầm cái tầu bay đắt là thế,sao lại chỉ có binh nhất được cơ chứ”,rồi cả những xao xuyến, rung động đầu đời của chàng phi công mới lớn trước cô thôn nữ đến sự cảm động về nghĩa tình quân dân nơi quê hương cách mạng.

Trung tướng Phạm Phú Thái đã phần nào thực hiện được ước muốn của mình khi viết tác phẩm “ lính bay”  với tâm nguyện tri ân các Liệt sĩ,thể hiện lòng biết ơn với những người thầy,người đồng đội còn sống giờ đã đều ở cái tuổi “ thất thập cổ lai hy” và chỉ mong sao lính bay giúp cho các thế hệ trẻ phi công sau này lấy ông là động lực và sự trưởng thành của ông với nghề bay để từng bước hoàn thiện bản thân,tích cóp được điều gì đó cho riêng mình về cuộc sống cũng như lí tưởng mà mỗi người lính cầm cần lái phải có trách nhiệm với tổ quốc mà bao thế hệ cha anh đã hi sinh để có được cuộc đời thật đẹp cho các thế hệ sau này.

Người lính bay không phải khô khan chỉ có chiến đấu và chiến đấu mà họ còn cảm nhận được có những vẻ đẹp,chỉ có thể cảm nhận từ trên cao,khi những người cầm cần lái điều khiển những con chim sắt tung cánh và chinh phục bầu trời . Có hai nguồn động lực cơ bản mà mỗi phi công phải đối mặt đó là nỗi sợ và niềm vui. Khi đối mặt với sợ hãi thì chúng ta quay lưng lại với cuộc đời . Khi  vui,chúng ta mở lòng đón nhận tất cả với niềm nhiệt huyết, sự hào hứng và chấp nhận. Chúng ta cần học yêu bản thân đầu tiên,yêu tất cả những hào quang và khuyết điểm. Đối với mỗi phi công nếu không vượt qua được những thử thách thì sẽ không thể mở ra toàn bộ khả năng của mỗi một người lính sở hữu hay tiềm năng sáng tạo. Mỗi người lính bay cũng thế họ cũng phải trải qua những cảm xúc như vậy nhưng họ có đam mê và lí tưởng thì những thử thách kia không thể làm khó được họ. Phong độ không phải là thứ mà mỗi chúng ta đều sở hữu mà là thứ thu được qua thử thách. Và mỗi phi công thu được nó nhờ chiến thắng những trận chiến nhỏ với danh dự của một người lính cụ Hồ, mỗi người lính sẽ không bao giờ làm được gì trên thế gian này mà không có lòng can đảm. Đó là phẩm chất tốt nhất mà bắt buộc mỗi người lính phải có và thậm chí là nhiều.



Bản thân các Phi công,vẫn ném mình trong cuộc chiến đó dù như nào đi nữa. Có người chẳng bao giờ thực sự là an phận. Nhiều khi thường liều mạng chống lại số phận mình,vĩnh viễn dũng cảm đặt mình ngoài sự chi phối của thần linh. Không nghi ngờ rằng cuộc chiến này là sự tiến hóa và thích nghi,bởi nó ủng hộ kẻ mạnh mẽ can trường,quyết tâm và tính kỷ luật. Con đường chiến đấu không những thời chiến lẫn thời bình còn dài và gian khó mỗi một lính bay ở đoạn đầu của cuộc hành trình cứ tưởng tượng tất cả những điều mình sẽ học,tất cả những người đồng đội sẽ gặp,tất cả những trải nghiệm bạn sẽ có. Hãy thấy biết ơn rằng con đường dài và đầy thử thách.


Nhà báo Lại Văn Sâm được mời làm người dẫn chương trình cho buổi ra mắt hồi kí lính bay, anh coi đây là vinh hạnh lớn nhất trong đời mình. Từ thời học sinh,Lại Văn Sâm đã vô cùng ngưỡng mộ phi công Việt Nam. Trong hình dung của anh lúc ấy, phi công là những người rất cao sang,đẹp trai,cao to,khỏe mạnh,sử dụng những khí tài hiện đại nhất thế giới, đó là những “lính cậu”.

"Thượng tướng, anh hùng phi công Phạm Thanh Ngân, nguyên Ủy viện Bộ Chính trị,phát biểu với những ý chính trong buổi lễ ra mắt "lính bay": Thích ở chỗ là đúng văn của Phạm Phú Thái, phong cách đích thực của Phạm Phú Thái, đúng chất của anh ấy. Cách trình bày không theo một trật tự nào – đồng chí Thái xông thẳng vào một ký ức bi kịch nhất,sâu sắc nhất của bản thân có lẽ không bao giờ quên được".Đây cũng là bài học sâu sắc nhất của đời phi công. Về văn chương,rất đa dạng, phong phú, lúc thì kể chuyện, lúc thì như là tổng kết, có lúc lại như đoạn tiểu thuyết, rất lãng mạn, khác hẳn các cuốn hồi ký khác, đọc thấy cuốn hút. Nhưng có một thực tế “đến bây giờ mới được nói kỹ” rằng đây chính là thời kỳ những cánh én của không quân Việt Nam âm thầm làm nhiệm vụ: Đánh đuổi máy bay Mỹ xâm phạm không phận,chi viện cho chiến trường miền Nam,chiến trường Lào,tìm cách xua đuổi máy bay B52 khỏi các khu vực chiến lược,các chiến trường quan trọng,sẵn sàng sử dụng chiếc tiêm kích Mig 21 như một máy bay cường kích,mang bom, tên lửa chi viện cho các chiến dịch tiến công trên bộ.

Mỗi người lính họ là thế và lính bay lại càng thế sự chân chất,có chút hồn nhiên trong cuộc sống nhưng lại trở thành những trái tim gan lì và sắt đá nhất khi ngồi vào tiêm kích và sẵn sàng lên bầu trời để chiến đấu cho tổ quốc thân yêu của mình như trung tướng Phạm Phú Thái đã nói trong cuốn hồi kí về những khoảng kí ức khi làm lính bay của ông.

Tác giả: Đình Tú - Bookademy

------------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn

Tham gia cộng đồng Bookademy để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị, đăng ký CTV tại link: https://goo.gl/forms/7pGl3eYeudJ3jXIE3 

 

Xem thêm

16 tuổi, chàng thanh niên Phạm Phú Thái được tuyển vào không quân. Gia nhập binh chủng hiện đại bậc nhất của quân đội ta khi mới học hết lớp 8, chỉ sau vài năm học lái cấp tốc Mig21 ở Liên Xô để về quần nhau với những phi công lão luyện của không quân Mỹ, tác giả không nén nổi niềm tự hào của người đã chiến đấu và chiến thắng. Có thể nói, cảm hứng tự hào chính là một âm hưởng thứ hai của bộ sách. Tự hào được tiếp nối thế hệ đàn anh, trước mình chỉ vài ba năm đã trở thành những huyền thoại của không quân Việt Nam, những Nguyễn Văn Bảy, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh… Tự hào được sự chỉ huy của các thủ trưởng đáng kính, và cả đáng yêu nữa, như Trần Mạnh, Chu Duy Kính, Nguyễn Nhật Chiêu… Tự hào được chiến đấu bên cạnh những người đồng đội dày dạn kinh nghiệm và bề dày thành tích, như Nguyễn Văn Cốc, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Hồng Nhị… Tất cả đã làm nên một hào khí xuyên suốt cả ngàn trang sách. Nó mạnh đến mức mặc dù tác giả sớm bị bắn hạ, bị chấn thương, mặc dù ông đã phải tận mắt chứng kiến máy bay ta bị trúng đạn, đồng đội mình bị hy sinh, mặc dù ông cũng như nhiều đồng đội khác đều nghĩ rồi sẽ đến lượt mình, song không bao giờ các ông lo sợ, không bao giờ các ông lưỡng lự dù chỉ một giây trước khi lao vào chiến đấu với quân thù… Và điều tất yếu đã đến, tác giả bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên như một lẽ đương nhiên, một sự khởi đầu cho những chiến công khác nữa! Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì bộ sách của tác giả Phạm Phú Thái có lẽ đã không gây được tiếng vang lớn. Ngay khi mới ra tập 1 hồi ký đã được dư luận trong và ngoài quân binh chủng quan tâm tìm đọc. Chỉ sau một thời gian ngắn đã được nối bản, cùng với đó là sự mong chờ của đồng đội, bạn bè, người thân và bạn đọc nói chung đối với tập 2 mà tác giả đã hứa sẽ cố gắng cho ra. Điều làm nên thành công và sức hấp dẫn của bộ sách, trước hết là ở tính chân thực của tác phẩm. Bản thân tác giả cũng rất ý thức được điều đó, khi nhiều chuyện ông viết ra là những sự thực, có thể là trần trụi. Đọc Lính bay, ta mới biết rằng có khi cả một trung đoàn không quân của ta “chỉ còn một chiếc máy bay tốt” (ngày 23-2-1968). Ta mới vỡ ra rằng, không quân ta trong những năm tháng ấy luôn bị thiếu hụt, nếu không muốn nói là khủng hoảng, cả về máy bay và phi công... Cũng vậy, ta mới hiểu phi công của ta nhiều khi phải chiến đấu trong điều kiện khó khăn như thế nào, lâm vào những tình huống éo le ra sao. Chẳng hạn ở Mặt trận Khu 4, có trận máy bay ta bị hỏng tăng lực, có trận máy bay bị trục trặc ở hệ thống vũ khí, không bắn được quả tên lửa bên trái khi đã hai lần đưa được máy bay địch vào tầm ngắm! Đặc biệt, ta còn biết về những phi vụ đặc biệt của không quân Việt Nam khi sẵn sàng bay sang tận đất Lào để tiêu diệt quân Vàng Pao, hay xuất kích cảm tử để ngăn chặn máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội. Qua đó, người đọc có thể hiểu được những cái giá phải trả cho chiến thắng để càng thấy sự lớn lao của chiến thắng! Khó có thể kể hết những khó khăn, vất vả, thử thách mà một phi công chiến đấu như tác giả đã trải qua những năm tháng đó. Chỉ riêng việc trực chiến trên sân bay giữa mùa hè Khu 4 đã đủ một cực hình, khi mà bầu không khí như nung như nấu, sờ vào máy bay như phải bỏng, mà người phi công phải mặc sẵn bộ đồ bay kín mít để chờ có lệnh là cất cánh! Khi lên chiến đấu thì cũng lại cả một sự chênh lệch về tương quan lực lượng. Thường thì chỉ một đội hình hai chiếc hay hai cặp hai chiếc (cũng có khi ba nhưng đó là một thử nghiệm sau xét ra là không phù hợp). Thế nhưng các phi công ta luôn phải chiến đấu với đội hình máy bay đông đảo của địch, được trang bị vũ khí hơn hẳn và phương tiện chỉ huy tối tân, bài bản. Và chính ở đây đã cho thấy không chỉ sự dũng cảm mà cả tài trí của phi công Việt Nam, những người biết tìm cách lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, để đạt được mục tiêu chiến thuật. Trước hết là để ngăn chặn sự đánh phá của địch, ngăn chặn âm mưu địch dùng B-52 vào đánh ban ngày… Và sau nữa là bắn rơi máy bay Mỹ, điều khát khao của tất cả các mọi “lính bay”. Nhưng chắc chắn đó là điều không dễ, và người đọc có thể thấy được sự tôn trọng của tác giả khi viết về các đối thủ của mình- họ thực sự là những phi công thiện chiến, đã có hàng trăm, thậm chí cả nghìn giờ bay. Trong khi phi công ta vào năm tăng cường công tác huấn luyện mới đặt mức phấn đấu bay 60 giờ/năm!... Nếu như tính chân thực của tác phẩm khiến cho người đọc yên tâm khi đọc Lính bay, sự say sưa của tác giả khi kể lại quá trình được đào tạo thành phi công và các trận không chiến khiến cho cuốn sách đậm chất “chuyên môn”, thì những trang tự sự của ông về cuộc đời mình, từ tuổi thiếu niên đến khi tham gia quân ngũ, với những chuyện vui buồn của người lính và cả những xốn xang khi bắt gặp một ánh mắt “hút hồn” của người rồi sẽ là vợ mình, đã khiến cho cuốn sách của tác giả Phạm Phú Thái có nhiều tố chất của một tác phẩm văn học đích thực. Hay nói như một đồng đội đàn anh của ông, Trung tướng Anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc, đó là “những trang viết rất chân thực nhưng cuốn hút như tiểu thuyết!”.

Hồi ký đã giúp độc giả có những góc nhìn gần gũi, cảm động, chân thật, sâu lắng. Đồng thời, đây cũng có thể coi cuốn “bảo bối” về các kỹ năng sử dụng chiến đấu cơ rút từ kinh nghiệm của một phi công nhiều giờ bay của thế hệ máy bay MiG-21 và cũng là phi công bay giỏi nổi tiếng trong chiến tranh chống Mỹ cho những người đang là phi công và sẽ là phi công trong tương lai. Ban liên lạc Cựu chiến binh Không quân và Trung tướng Phạm Phú Thái đã có buổi giao lưu và giới thiệu cuốn hồi ký "Lính Bay" thật ý nghĩa và nhân văn tại trạm khách 77 Quân chủng Phòng không - Không quân. Là cựu phi công dày dạn kinh nghiệm, tham gia chiến đấu nhiều trận đánh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trung tướng Phạm Phú Thái được chứng kiến nhiều chiến công, thành tích và cả những hy sinh, mất mát trong chiến tranh. Với câu chữ mộc mạc và chân thực với lịch sử, sâu lắng mà dữ dội đúng chất lính, những câu chuyện, sự kiện trong hồi ký được Trung tướng Phạm Phú Thái kể lại đủ để làm cho người đọc hiểu hơn về quá trình học tập, chiến đấu, hy sinh của một thế hệ anh hùng. Không chỉ khiến những thế hệ người lính từng "vào sinh ra tử" hồi hộp và háo hức đón nhận mà còn thu hút được sự quan tâm của thế hệ trẻ - những người khao khát được nghe những điều thật nhất từ cha ông. Ngay từ phần đầu cuốn hồi ký, tác giả Phạm Phú Thái đã nói, mình không phải nhà văn nên văn phong có thể sẽ không mượt mà như các nhà văn chuyên nghiệp. Tác giả vốn là kẻ “keo kiệt” lời khen nên không muốn bất cứ một sự gợi ý hay định hướng nào cho đọc giả về cuốn sách này. Nhưng chủ quan mà nói, “Lính Bay” sẽ là món quà đặc biệt cho những ai từng là lính. Thậm chí có thể hấp dẫn cả thế hệ trẻ hiện nay. Nhà văn Thủy Hướng Dương, người biên tập hồi ký cho rằng: "Tôi có lẽ là người thứ ba chỉ sau hai người là Đại tá Hà Quang Hưng – vừa là đồng đội, vừa là người anh thân thiết với Trung tướng Phạm Phú Thái gần 50 năm qua và bà Hoàng Phương Nga là phu nhân của trung tướng được đọc bản thảo viết tay của ông. Thật may mắn và vinh dự, bởi bản thảo của ông là tư liệu quí giá, một cuốn hồi ký sinh động về lĩnh vực Không quân mà có lẽ nhiều năm sau nữa chúng ta mới có được. Tôi đã từng chấp bút cho anh hùng phi công Lưu Huy Chao và có đọc một số cuốn hồi ký của phi công lái Mig17 khác nhưng gần như ở thế hệ phi công lái Mig17 không có ai viết một cách chi tiết, rõ ràng về học lái Mig và những khó khăn đặc thù khi lái máy bay chiến đấu như trung tướng Phạm Phú Thái. Cũng chưa có ai ở vai trò một vị tướng Không quân mà viết hồi ký về cái được, cái thua của chiến tranh như ông. Điều đó khiến tôi bồn chồn mong muốn cuốn sách “Lính Bay” mau chóng được xuất bản. Tôi thấy mình thật may mắn khi được Trung tướng Phạm Phú Thái lựa chọn là người giúp ông hoàn thiện bản thảo".

Cuốn hồi ký được Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh phát hành tháng 7-2018, tháng cả nước hướng về những hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”. Ngay trong lời đề từ, tác giả viết: “Tưởng nhớ các thế hệ đi trước đã hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Kính tặng các Liệt sĩ, các Phi công quả cảm và Anh hùng trong trận chiến trên không ác liệt với không quân Mỹ!”. Để hoàn thành được ngót 600 trang sách, có lẽ ngay từ rất sớm, phi công Phạm Phú Thái đã có ý thức sưu tầm, lưu giữ nhiều kỷ vật liên quan đến bản thân và anh em đồng đội trong cuộc chiến một mất một còn với không quân Mỹ. Đó là các sơ đồ sân bay thời chiến, những trang ghi chép, thậm chí đến cả manh áo thấm máu đồng đội…, nhiều tư liệu quý hiếm lần đầu được công bố. Tiếp nối mạch nguồn ấy, về sau, trên cương vị một cán bộ lãnh đạo chỉ huy (Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân chủng Không quân, Phó tư lệnh thứ nhất Quân chủng PK-KQ, Chánh thanh tra Bộ Quốc phòng), ông vẫn không ngừng tìm kiếm và bổ sung thêm nguồn tư liệu. Điều đó chứng tỏ sự công phu, tâm huyết và tác phong cẩn trọng của tác giả. Không hài lòng với những gì còn sơ sài, hời hợt, ông quyết “dò cho đến ngọn nguồn lạch sông” và kỳ công lật xới lại sự kiện, đối chiếu, kiểm chứng cho bằng được những điều hãy còn hồ nghi, cho tới khi tìm ra “đáp số” chuẩn mới thôi. Nhờ vậy, bạn đọc có được một cái nhìn toàn cảnh, chính xác giữa ngồn ngộn tư liệu và sự kiện về Không quân nhân dân Việt Nam với những chiến công oai hùng, kể cả những tổn thất không hề nhỏ. Cuộc chiến với không quân nhà nghề Mỹ cực kỳ gian nan và khốc liệt, bởi họ giàu có, được trang bị hơn ta về mọi phương diện. Tái hiện lại “một thời để nhớ”, thực sự đến nay chưa một ai có được những trang viết sâu sắc về các trận không chiến đầy góc cạnh và đạt đến tầm như trong “Lính bay 2”. Sinh trưởng trong một gia đình cán bộ cao cấp, tốt nghiệp phi công MiG 21 ở Liên Xô trước đây, bay giỏi có tiếng, từng tham gia hàng chục trận không chiến, bắn rơi 4 máy bay Mỹ, 3 lần được gặp Bác Hồ… nhưng Trung tướng Phạm Phú Thái nhất mực khiêm nhường. Vượt ra khỏi lối mòn “chương, hồi”, tác giả tái hiện một cách chân thực cuộc chiến đấu đầy bi tráng của các phi công tiêm kích trong giai đoạn cuối chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ra miền Bắc Việt Nam. Ông chẻ nhỏ ra thành những mẩu chuyện đời, chuyện chiến trận vừa chân thực lại vừa sống động. Rất nhiều chân dung của các vị chỉ huy, các đồng đội và bạn bè cùng trang lứa được tác giả phác họa. Đó là Thượng tướng Phùng Thế Tài, Trung tướng Trần Hanh, Trung đoàn trưởng Trần Mạnh; các gương mặt phi công như: Lê Thanh Đạo, Phạm Tuân, Bùi Thanh Liêm, Nguyễn Công Huy, hay kỷ niệm trong lần hội diễn văn nghệ với Lưu Quang Vũ… đều hiện ra với những nét mạch lạc. Ngòi bút của tác giả tập trung khắc họa chân dung những người cùng thời. Hầu như tất cả những phi công tiêm kích ưu tú của không quân ta ít nhiều đều xuất hiện trong cuốn sách này. Với những trang viết đậm đà về cấp trên, về đồng đội, về những người dân đã gặp, chứng tỏ tác giả là người thiên về nội tâm, rất trọng tình nghĩa. Họ là các phi công: Phạm Thành Nam, Võ Sỹ Giáp… những người sống hết mình, ngay thẳng và sáng trong, sẵn sàng hiến dâng trọn tuổi thanh xuân cho Tổ quốc. Có điều, những mất mát, hy sinh hiện diện qua nhiều trang sách đã khiến người đọc nghẹn lòng, cay mắt, nhưng không hề bi lụy. Trung tướng Phạm Phú Thái thể hiện được bản lĩnh của một người chỉ huy từng trải và phông văn hóa đầy đặn của một người lính khi cầm bút, ông điềm tĩnh xử lý các chi tiết và sự kiện vừa đủ độ chín với một niềm tin vững chãi. Điều thú vị là tác giả bộc lộ đầy đủ tâm trạng trong nhiều cảnh huống với những “hỉ, nộ, ái, ố”, giọng văn dí dỏm, sắc sảo. Ông cũng không e ngại khi kể chuyện mình bị kỷ luật cắt bay một tuần vì vi phạm quy định an toàn, phải đi tăng gia, trồng rau. Đọc “Lính bay 2” hấp dẫn và thú vị bởi tác giả tạo được giọng điệu riêng, hóm hỉnh và không kém phần tinh tế, ngôn ngữ đậm chất lính mà không hề sa vào dung tục. Xen giữa những chuyện đời, chuyện người là những dòng tả cảnh rất mượt mà. “… những buổi chiều với màn khói bảng lảng dọc triền sông Lam, quanh các xóm làng. Hàng cây hai bên sông gợi vẻ nên thơ, thanh bình và yên ấm lạ… Cả một vùng cây cối mềm mại, mướt mát màu xanh”. Mang đến cho bạn đọc một cảm nhận rất riêng không lẫn với bất kỳ ai, đây là cuốn hồi ký rất đáng đọc và suy ngẫm!

Nhà xuất bản Hội nhà văn vừa xuất bản cuốn hồi ký của Trung tướng Phạm Phú Thái, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, phi công tiêm kích, nguyên Phó Tư lệnh thứ nhất Quân chủng Phòng không - Không quân. Cuốn sách dày khoảng 520 trang, khổ 14x30,5cm. Từ khi mới còn ở dạng bản thảo, cuốn sách đã được sự chú ý của dư luận. Tôi đã đọc liền trong hai buổi chiều tối cuốn hồi ký và gấp lại vẫn thấy “thòm thèm”. Từ khi tập sách “Những trận không chiến trên bầu trời Việt Nam (1965-1975) - nhìn từ hai phía” (NXB QĐN 2013) ra mắt độc giả, thì một phần lịch sử của một mặt trận - “mặt trận trên cao” của Quân đội nhân dân Việt Nam đã được hé lộ… thoả mãn ham muốn tìm hiểu lịch sử của bạn đọc. Nhưng đấy là những sự kiện - những con số. Còn người lính Cụ Hồ ở mặt trận trên cao ấy sống như thế nào, nghĩ gì khi đi chiến đấu và trực chiến ngoài đường băng… vẫn còn nhiều khoảng trống. ADVERTISEMENT Các tiểu thuyết của Nguyễn Đình Thi, Hoàng Văn Bổn, Hữu Mai… về cuộc chiến đấu của các anh, dù sao cũng là… tiểu thuyết. Hồi ký “Phi công tiêm kích” của Lê Hải, đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, quá mỏng… Dường như cuốn hồi ký “Lính bay” của Trung tướng Phạm Phú Thái đáp ứng được mong muốn muốn hiểu sâu hơn, rõ hơn về cuộc chiến đấu của Không quân nhân dân Việt Nam trong những năm chống cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân và hải quân Mỹ. Cứ theo số trang thì non một nửa cuốn sách nói về thời gian ngắn trước khi trúng tuyển phi công và thời gian học lái máy bay tại Liên Xô của Phạm Phú Thái. Ông quê nội ở Kiến Xương (Thái Bình), quê ngoại tại Hạ Hoà (Phú Thọ). Ông thân sinh tham gia cách mạng từ rất sớm, có thời làm Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh Phú Thọ… Đó là những trang sách thấm đẫm lòng tự hào về quê hương, gia đình, về mái trường làng… Quê hương và gia đình, người mẹ, người chị, người em còn trở đi trở lại nhiều lần trong cuốn hồi ký… (người lính - những phút rảnh rỗi hiếm hoi giữa các trận đánh, mấy ai không nghĩ về quê hương - gia đình?). Những trang viết về những ngày ở trên đất nước Xô Viết là những trang viết kiệm lời nhưng rất sâu sắc. “Liên bang Xô Viết” giờ đã không còn nữa. Nhưng ngững người thầy Xô Viết kèm cặp những cánh bay Việt Nam thật tuyệt vời. Và đất nước có hơn 20 triệu người hy sinh trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít, những bà mẹ Nga ôm chặt những người lính Việt Nam khi biết họ trở về Tổ Quốc để chiến đấu, sống mãi trong lòng Phạm Phú Thái. Thời gian ở trường không quân Liên Xô là thời gian Phạm Phú Thái - chàng thanh niên “còn đeo khăn quàng đỏ” - hiểu rõ một điều là “phải khổ luyện”, “phải biết rút kinh nghiệm qua từng chuyến bay”. Và “phải học” khi muốn trở thành người lính bay. Là một trong 4 phi công bay khá hơn cả trong đoàn bay Mig 21 khoá 3, được trở về nước sớm, Phạm Phú Thái về đoàn Không quân Sao đỏ, trung đoàn máy bay tiêm kích đầu tiên của Không quân ta… Lúc đó, các phi công Trần Hanh, Phạm Ngọc Lan, Nguyễn Hồng Nhị,Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Văn Cốc… đã là những cánh bay lão luyện… Bay số 2 cho các bậc đàn anh của mình, Phạm Phú Thái không ngừng rút ra những bài học kinh nghiệm xương máu cho mình để vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Xen kẽ những câu chuyện về việc luyện tập, là những trận không chiến mà ông tham gia hoặc chứng kiến… những chiến thắng và cả tổn thất… Viết về chiến thắng, ông kiệm lời… Nhưng nói về những hy sinh của đồng đội, câu văn ngắn gọn nhưng mang đầy nỗi đau và niềm tiếc thương, đặc biệt là những dòng nói về sự ra đi của Phạm Thành Nam, người phi công quê ở Bình Định, bạn cùng về nước một đợt. Như đã nói, cuốn hồi ký đã hé lộ một phần cuộc sống của những người lính bay. Nói như bây giờ là đầy đủ “hỷ - nộ - ái - ố”. Lính bay cũng là người. Lính bay được “ưu ái” nhưng lính bay cũng chịu nhiều sức ép, cũng vấp phải những áp đặt, định kiến, những hiểu lầm… mà những sai sót ấy đôi khi dẫn đến mất mát, hy sinh… Là người lính chiến đấu cho Tổ quốc, họ đã vượt lên tất cả, để hoàn thành nhiệm vụ. “Hoàn thành nhiệm vụ”. Chỉ có 4 từ ngắn gọn thôi, nhưng sức nặng của nó mới ghê gớm làm sao. Những người lính bay trẻ tuổi hôm nay nên lấy những cuốn sách như “Lính bay” làm sách “gối đầu giường” vì cả cuốn sách là sự trải lòng kỹ năng chiến đấu của một Anh hùng phi công tiêm kích ham học hỏi. Và lòng bao dung nữa trước những vấp váp không tránh khỏi trong cuộc sống thường ngày. Tôi chưa có dịp tiếp xúc với Trung tướng Phạm Phú Thái. Nhưng cũng có may mắn được gặp một số “lính bay” Mig 21, Su 22 và Su 27… Cho nên, đọc vài lời tâm sự trĩu nặng của ông, lòng cũng trĩu nặng trước những lời nhắn nhủ của ông với các bạn lính trẻ. Cuốn hồi ký trang bìa không đề “tập I” nhưng trong lời mở đầu, ông nói sẽ hoàn thành phần 2 vào năm sau, trong đó có trang sử bi hùng của Không quân Việt Nam trong năm 1972 và cuộc chiến đấu chống quân xâm lược ở hai đầu đất nước. Tôi mong sớm được đọc những dòng hồi ký mộc mạc, chân thực. Cũng mong được đọc những dòng viết về “ta thắng nhiều nhưng thua cũng không ít” để mà cùng suy ngẫm về “mặt trận trên cao” hiện nay của đất nước. Đầu tháng 5/1995, trên chuyến bay của Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam từ Paris về Hà Nội, tôi có dịp trò chuyện với bạn chiến đấu của Trung tướng Phạm Phú Thái, anh Lương Thế Phúc, lúc đó là Phó Tổng giám đốc Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam. Tôi kể về cô gái người yêu của bạn tôi - liệt sĩ Đinh Văn Phú, mấy chục năm sau vẫn không nguôi ngoai nỗi nhớ. Anh Phúc kể về những người vợ liệt sĩ phi công giờ đang sống ra sao. Rồi chúng tôi cùng im lặng trong nước mắt lặn vào tim. Tôi kể ra câu chuyện này để mời các bạn tìm đọc “Lính bay”- một cuốn hồi ký cảm động về Không quân Anh hùng của chúng ta./.

Trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quãng thời gian từ khi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam (tháng 11/1968 đến tháng 4/1972), đối với nhiều người dân miền Bắc, là một thời gian yên ổn. Còn với những người lính không quân, được gọi là thời kỳ “hoà bình trong chiến tranh” gấp rút củng cố và phát triển lực lượng, luyện tập và luyện tập. Nhưng có một thực tế “đến bây giờ mới được nói kỹ” rằng đây chính là thời kỳ những cánh én của không quân Việt Nam âm thầm làm nhiệm vụ: Đánh đuổi máy bay Mỹ xâm phạm không phận; chi viện cho chiến trường miền Nam, chiến trường Lào; tìm cách xua đuổi máy bay B52 khỏi các khu vực chiến lược, các chiến trường quan trọng; sẵn sàng sử dụng chiếc tiêm kích Mig 21 như một máy bay cường kích; mang bom, tên lửa chi viện cho các chiến dịch tiến công trên bộ… Nói “âm thầm” là vì chiến đấu mà đa phần nhân dân không biết. Nói “âm thầm” là vì có những tổn thất chỉ biết nuốt nước mắt vào trong. Không quân Việt Nam chiến đấu “âm thầm” để bầu trời Bắc Việt Nam tạm yên tiếng súng cao xạ bắn máy bay. Để các đôi lứa yêu nhau yên ổn hưởng đêm tân hôn, hưởng tuần trăng mật. Bài thơ nổi tiếng về tình yêu của lứa đôi trong mùa hoa sữa ra đời vào thời kỳ này: “Hà Nội mùa này mùa hoa sữa/Anh đợi em góc đường Nguyễn Du/Hoa sữa thơm mùi thơm chờ đợi/Trăng đầu đông gợi trăng cuối thu”. Trong cả hai tập “Lính bay” không thấy Phạm Phú Thái nhắc đến loài hoa của tình yêu thời chiến tranh này, mặc dù những trang viết của anh nhắc nhiều đến gió, mây, trăng, sao (những cảnh vật là bạn đồng hành với những chuyến bay). Chưa đến 17 tuổi đã nhập ngũ, sang Liên Xô học bay, trở về Việt Nam là lao vào luyện tập và chiến đấu. Sau 3 năm sống với những cánh bay và trận chiến mới được về phép thăm nhà. Còn thời gian đâu để Phạm Phú Thái biết đến “hoa sữa” Hà Nội. Bởi vậy, tôi rất thích chương mở đầu cho “Lính bay II”: “Đi phép trên chuyến tầu thời chiến”. Ôi cái ga nhỏ Vĩnh Yên khi chàng thiếu uý không quân đẹp trai chen vào mua vé tầu. Một chút phiền phức khi người dân thường phát hiện những biểu hiện “nghi vấn” của anh bộ đội. Một cuộc đối thoại “lịch sự” với nhóm công an tuần tra… Sao tôi thích quang cảnh toa tầu hôm đó dưới cái nhìn của Phạm Phú Thái đến thế: dù lam lũ, nhếch nhác nhưng trên tầu toàn là những tấm lòng cao cả. Và đây là giây phút thần tiên nhất: “Tôi… bật mở mắt, nhìn thẳng vào “đối tượng theo dõi” trước mặt thì phát hiện khuôn mặt đẹp đến thẫn thờ của một cô bé giấu trong chiếc nón luôn che nửa mặt dưới vỏ bọc một phụ nữ mặc áo bộ đội. Hai ánh mắt giao nhau trong một phần giây nhưng như bị thôi miên… Tôi tiếp tục kín đáo quan sát và nhận ra một “khuôn trăng đầy đặn”, trong sáng, tinh khiết của cô bé với đôi mắt mượt mà ngây thơ khi em bỏ chiếc nón che nửa mặt để đứng dậy cùng người phụ nữ lớn tuổi đồng hành, chuẩn bị xuống ga Việt Trì. Em ý tứ, kín đáo nhìn lại tôi như gửi lời tạm biệt trước khi xoay người đi ra phía cửa toa tàu. Tôi thẫn thờ nhìn theo cho tới khi bóng dáng ấy chìm dần vào dòng người xuống ga. Tôi thở dài thầm nghĩ, ước gì gặp lại em lần nữa trong đời”. Trong buổi chiều 9/7/2018, tại nhà riêng Trung tướng Phạm Phú Thái, tôi đã không tò mò hỏi rằng “Anh có mang theo “khuôn trăng đầy đặn” ấy vào các trận chiến đấu ngày càng khốc liệt hơn những năm tháng sau đó không?”. Tự mình suy luận thôi vì cho đến khi Phạm Phú Thái gặp lại cô bé trên tàu hoả đó, người sau đó trở thành vợ anh, như trong hồi ký cho thấy, anh không dành cảm tình riêng cho một cô gái nào. Đó là chân dung của một người lính. Tôi thích cái chân dung này trong cái nhìn thoáng qua mà sâu sắc ấy. Lại nhớ câu thơ của Phạm Tiến Duật: “Đêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón”… Đó chính là điều làm nên chất “thơ” của cuốn hồi ký. Còn lại, bạn đọc có thể thấy cả một biên niên sử của các trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên của quân đội ta, với Mig 17, Mig 19 và Mig 21. Từ chuyện đem máy bay đi giấu trên đất Trung Quốc đến chuyện thí nghiệm dùng tên lửa bổ trợ để Mig 21 cất cánh trên đường băng ngắn. Và những trận đánh. Có trận thắng giòn giã, ta an toàn quay về. Có những trận cả biên đội bị bắn rơi… Những dằn vặt về lối đánh, về chỉ huy trận đánh… “Lính bay II” có nhiều chương tập trung khắc hoạ từng gương mặt phi công tiêu biểu, bạn chiến đấu của Phạm Phú Thái. Từ trung đoàn trưởng Trần Mạnh, các phi công Lê Thanh Đạo, Nguyễn Tiến Sâm, Nguyễn Đức Soát đến Phạm Tuân rồi Võ Sỹ Giáp, Vũ Xuân Thiều, Nguyễn Xuân Huy… Có người chỉ bằng vài dòng, Phạm Phú Thái đã gợi được cả một cá tính. Nhưng có những người tác giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần, trong đó sâu sắc hơn cả, kỹ lưỡng hơn cả là những “số 2” bay cùng “số 1” Phạm Phú Thái. Trong cuộc chiến đấu chống giặc Mỹ đánh phá miền Bắc lần thứ hai, không quân Việt Nam đã chống lại một đối thủ có sự thay đổi về chất trong các phương tiện chiến tranh, lại luôn luôn biết rút kinh nghiệm cho từng trận đánh. Trong lúc pháo cao xạ, tên lửa bị phân tán lực lượng vì phải chi viện cho chiến trường, Không quân nhân dân Việt Nam đã gồng mình lên chiến đấu. Và ta đã thắng trong trận chiến đấu khốc liệt này. “Lính bay II” đã thống kê, đã mô tả tỉ mỉ từng trận đánh, từng biên đội đánh, từng phi công đánh. Thoạt đầu tưởng rất khô khan, khó đọc. Nhưng sự hấp dẫn, lôi cuốn lại chính từ những “biên niên sử sáng chói” ấy. Tôi chia sẻ với Phạm Phú Thái những trang hồi ký của anh về ấn tượng lần đầu được đặt chân đến Tổng hành dinh (Nhà con rồng) trong thành Hà Nội: “Đi trong sự u tịch thanh khiết và cảm giác linh thiêng ấy mà tôi đâu biết hàng nghìn, hàng trăm năm trước, nơi này thực sự là chốn thiêng liêng không mấy ai được vào”. Rồi những trải nghiệm khi nghe Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp chỉ đạo tác chiến không quân. Khi viết hồi ký “Lính bay”, Phạm Phú Thái đã đeo quân hàm Trung tướng, đã từng là Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân. Ông đã đọc hàng nghìn trang tài liệu, hàng trăm cuốn sổ tay chiến đấ , trong đó có những trang viết tốc ký ghi lại toàn bộ nội dung cuộc nói chuyện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Sở Chỉ huy quân chủng tháng 6/1972. Ông đã gặp hầu hết các nhân chứng còn sống để trao đổi một chi tiết, một sự kiện. Viết về trận chiến đấu ngày 10/5/1972 (trong đó Không quân ta bắn rơi 7 máy bay Mỹ nhưng cũng tổn thất 7 chiếc, 6 phi công hy sinh), Phạm Phú Thái đã dành hẳn 1 tuần đọc, nghiên cứu tài liệu của cả 2 phía. Tôi đã thử làm một kiểm tra nhỏ độ chính xác trong một chi tiết ông viết: “Giáp (Võ Sỹ Giáp) chui ra khỏi màn theo tôi bước ra ngoài cửa hầm, mở cánh cửa của căn nhà lá bước ra sân. Bầu không khí mát mẻ đầu hè ùa vào hai lá phổi, mơn man trên khuôn mặt thật dễ chịu. Trời tối, trăng cuối tháng chưa lên. Bầu trời thấp thoáng những ánh sao đêm” (trang 290 Lính bay II). Đó là đêm 7/5/1972. Tra lịch thế kỷ XX (NXB Văn hoá – Thông tin 1997) thấy ghi: 24 tháng 3 năm Nhâm Tý. Gặp ông, kể về chuyện này, ông nhận rằng sổ tay ghi chép của ông ghi vậy . So với “Lính bay” tập I, “Lính bay II” có nhiều trang đọc xong muốn khóc vì sự hy sinh thầm lặng của người lính không quân Việt Nam. Những chuyến bay “cảm tử” chi viện cho chiến trường, những trận chiến không cân sức giữa một phi công Việt Nam với hàng chục máy bay Mỹ có vũ khí hiện đại hơn. Trong đó có cuộc truy đuổi B52 vào đêm 10/8/1972 chi viện cho mặt trận Quảng Trị của phi công Nguyễn Ngọc Thiên, buộc B52 địch phải quay lui trước khi vào ném bom… Sử sách của cả trung đoàn, sư đoàn chỉ nói rằng đã gặp tai nạn trên đường về, phi công hy sinh… Thực ra là sau khi hoàn thành nhiệm vụ, khi quay về trong tình trạng dầu sắp cạn, máy bay của Nguyễn Ngọc Thiên đến khu vực Nam Đàn (Nghệ An) thì bị hai máy bay địch tấn công. Máy bay bị thương, buồng lái bị vỡ… Được lệnh nhảy dù nhưng Nguyễn Ngọc Thiên cố lái máy bay trở về. Máy bay của anh bị rơi ở vùng phía Bắc Bá Thước – Thanh Hoá. Phạm Phú Thái viết: “Điều duy nhất có thể khẳng định được là với chiếc máy bay bị thương như vậy, buồng lái bị bắn vỡ ra như thế mà Thiên vẫn kiên cường điều khiển máy bay xuyên đêm tối, xuyên mây với mong muốn phải đưa bằng được máy bay về. Đó là sự thật. tình huống này nếu không phải người có lòng dũng cảm vô song, có tình yêu và quý trọng khôn cùng với tài sản quý giá của quân đội, của nhân dân để bất chấp hiểm nguy, quyết tâm đưa chiếc phi cơ yêu quý về sân bay, thì không dám làm...”. Tôi chia sẻ với băn khoăn của Trung tướng Phạm Phú Thái: Dường như chúng ta đánh giá chưa đầy đủ ý nghĩa của chiến thắng trong hai cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ ra miền Bắc. Cuộc chiến trên mặt trận đối không được Đảng và Nhà nước chỉ đạo, dẫn dắt bằng cuộc chiến tranh nhân dân trên mặt trận đối không, lấy quân chủng Phòng không Không quân làm nòng cốt là một cuộc chiến trang lạ lùng, có một không hai trên thế giới. Và đã đánh thắng dù chịu không ít mất mát hy sinh, tổn thất. Trong sự chia sẻ ấy, càng thấy quý hơn những trang hồi ký nóng bỏng của phi công Phạm Phú Thái và các đồng đội của ông./.

Hồi ký “Lính bay” với chất văn mộc mạc, chân thành giúp người đọc dễ tiếp nhận ngay cả khi tác giả viết về những kỹ thuật khó hiểu nhất. Tuy nhiên, “Lính bay” hấp dẫn người đọc bởi cách kể chuyện đầy lôi cuốn của Phạm Phú Thái. Hồi ký dầy đặc những dữ kiện, nhiều tình tiết diễn ra nhanh chóng. Xung quanh những câu chuyện có thật, tác giả lồng vào các phán đoán, cảm xúc của mình khiến cho chuyện trở nên kịch tính, gay cấn, mang lại sự hồi hộp và tò mò cho độc giả. Đọc hồi ký nhưng độc giả như đang được đọc tiểu thuyết. Cũng bởi vậy, những ai đã “trót” đọc “Lính bay” lập tức sẽ bị cuốn theo, phải đọc một mạch chứ không dễ dàng bỏ lửng cuốn sách được. Mặc dù không là nhà văn nhưng Phạm Phú Thái đã viết hồi ký như một nhà văn chuyên nghiệp. Nếu không dồn được xúc cảm và không biết cách bộc lộ xúc cảm vào từng trang viết thì có lẽ cuốn hồi ký chỉ đơn giản là những sự kiện trần trụi, khô khốc, khó chạm được vào đáy lòng độc giả. Rõ ràng, Phạm Phú Thái không chỉ là một phi công tài năng mà anh còn là người có năng khiếu viết và có duyên với cây bút. Trong hơn 500 trang sách, Phạm Phú Thái đã tái hiện thành công cảnh ác liệt của chiến trường Quân khu 4. Ở đó có những cuộc đấu trí đầy căng thẳng giữa quân ta và quân địch, những trận đánh đầy kịch tính và cam go khi mà các phi công tiêm kích của ta phải chống trả và xua đuổi máy bay được lái bởi những phi công có kỹ thuật cao của địch... Mặc dù viết hồi ký nhưng Phạm Phú Thái không viết kiểu kể theo thứ tự thời gian một cách lan man, nhàm chán. Trái lại, anh đã rất khéo léo khi chọn một trong những tình huống gay cấn nhất, tình huống đã làm nên ký ức mạnh mẽ nhất trong anh để mở màn cuốn sách, đó là lúc máy bay của anh bị bắn rơi. Nhờ vậy mà cuốn hồi ký hấp dẫn người đọc ngay từ khi giở ra những trang đầu. Không chỉ giúp người đọc có thêm một góc nhìn về cuộc đấu tranh chống Mỹ của dân tộc, biết được các trận chiến trên bầu trời của không quân Việt Nam, mà với kho dữ liệu chi tiết và quý báu về kỹ thuật lái máy bay, hồi ký “Lính bay” còn được xem như cuốn cẩm nang bay cho các phi công. Không chỉ vậy, Phạm Phú Thái còn tái hiện lại phần nào bối cảnh lịch sử trải dài từ Việt Nam qua Trung Quốc tới Liên Xô lúc bấy giờ. Đồng thời, với tâm hồn chứa chan xúc cảm, tài quan sát tỉ mỉ và cách thể hiện tinh tế, anh cũng đã vẽ lại quang cảnh thiên nhiên tươi đẹp của đất nước Liên Xô thuở nào, nơi mà những người đã từng đặt chân đến đó vẫn thổn thức khi nhớ về và những người chưa từng đến thì khao khát được một lần chiêm ngưỡng.

Hồi ký “Lính bay” tập 1 tái tạo những sự kiện lớn của phi công Phạm Phú Thái và những điều đã được tác giả chứng kiến từ khi còn là một cậu thanh niên mới 16 tuổi (năm 1965) đến khi trở thành phi công tiêm kích của Trung đoàn Không quân Sao Đỏ, năm 1968. Ba năm, từ khi là tân binh dự khóa bay, lên đường học bay ở nước Nga, những ngày về nước, ngày trực chiến đầu tiên đến những trận đánh vào sinh ra tử ở chiến trường Khu 4, những ngày sống và chiến đấu với ngồn ngộn các sự kiện được gói vào hơn 500 trang sách. Có những sự kiện chỉ được nhắc đến như một dấu ấn, có những sự kiện được nhớ lại bằng những trang viết với cách kể, với sự đặc tả sống động của người trong cuộc làm độc giả như được chứng kiến những giây phút thiêng liêng nhất của một phi công trẻ, của những phi công trong Đoàn bay khóa 3, của Đoàn Không quân Sao Đỏ anh hùng trong những khoảnh khắc lịch sử đáng nhớ của dân tộc. Đặc biệt, đọc Hồi ký “Lính bay”, độc giả sẽ vô cùng hứng thú, cảm phục trước sự trưởng thành của phi công trẻ Phạm Phú Thái từ ngày đầu bay số 2 bị địch bắn rơi đã chiêm nghiệm “Không thấy địch trước sẽ rơi vào bị động và không thấy địch khi lâm trận thì sớm muộn cũng sẽ bị bắn hạ. Tôi nung nấu ý nghĩ phải rèn cặp mắt, phải phát hiện được và phát hiện địch sớm mới mong tìm cơ hội đánh và thắng” đến những trận đánh cuối cùng ở Khu 4 đã “cảm thấy tự hài lòng vì cự li phát hiện đã nâng lên trông thấy trung bình 15 km khi bay tập đánh chặn MiG-21 mục tiêu”. Dù ở đâu và ở giai đoạn nào thì những kinh nghiệm về kỹ năng sử dụng chiến đấu cơ cũng được tâm đắc rút ra. Phạm Phú Thái cả lúc còn đang là học viên đến khi đã trở thành phi công, đã tâm đắc nhất là lời thầy Sviklist: “phi công không có lần thứ hai để sửa chữa khuyết điểm đâu”. Và ông khẳng định: “Binh nhất hay trung úy cũng đều là người lính cầm súng, cầm cần lái, cũng đều đánh nhau như thế cả”… Cũng cần nói thêm, tại sao Binh nhất lại trở thành một phi công được. Điều đó mang tính lịch sử. Những năm chiến tranh ác liệt, tuyển học viên dự khóa, các thanh niên nếu đang học ở trường đại học sẽ được phong hàm cấp úy. Phạm Phú Thái khi ấy mới đang học cấp 3 vào bộ đội, đi học Dự khóa bay nên chỉ được mang hàm Binh nhất.

Điều làm nên sự khác biệt của Hồi ký “Lính bay” với phần nhiều các hồi ký khác là ở đó không chỉ có chiến thắng mà còn có những trang viết đẫm màu xót xa, thấm thía trước những mất mát, hy sinh của anh em, đồng đội; thậm chí là những sơ xuất trong chiến thuật. Chiến tranh là có được, có thua. Với những người lính bay thì điều đó càng đúng, càng rõ. Nếu chỉ nhìn thấy vế trước, là tô hồng, nếu chỉ có vế sau là bôi đen. Trung tướng Phạm Phú Thái đã nhìn và tái hiện lịch sử như nó vốn có, khách quan, trung thực và truyền tới người đọc thông điệp: hãy nhìn nhận những gì đã qua bằng sự ghi nhận chứ không phải bằng phán xét. Tôi đặc biệt thích tựa đề: “Lính bay”. Phi công, lực lượng vốn được coi là “lính cậu” nhưng vẫn chỉ là “lính”. Có lẽ, trước hết là bởi, khi trở thành phi công tiêm kích, Phạm Phú Thái mới chỉ là… Binh nhất. Và có lẽ còn bởi, những gì mà cuốn sách đề cập đến đều được nói một cách mộc mạc, trần trụi, đúng chất lính. Bay như Thái. Và viết cũng như Thái, đúng là người sao, văn vậy, bộc trực, khẳng khái nhưng không kém phần hài hước, dí dỏm, sâu sắc. Đó là tố chất của một trí tuệ, một khát vọng lập công được nhen nhóm từ những ngày đầu và được nuôi dưỡng ngày một lớn lên qua từng trận đánh.

Đọc lính bay mới hiểu được không quân Việt Nam! có được chiến công oai hùng trước không lực Hoa kỳ đã mất bao mồ hôi, xương máu của những phi công Việt Nam! trước đây cứ lầm tưởng được làm phi công là oai rồi. Còn chuyện lái máy bay chắc cũng dễ và sướng lắm. Biết đâu các anh phải luyện tập gian khổ lắm, công phu lắm, nguy hiểm, bất chắc lắm. Lại trong thời kỳ chiến tranh gian khó, thiếu thốn đủ đường. Có khi còn vất vả hơn các công việc khác nhiều lần. Nhất là qua lời tác giả giúp chúng ta biết được tỷ mỷ các cuộc không chiến, thấy được sự dũng cảm tuyệt vời của phi công Việt Nam! Thấy được sự đóng góp của các sĩ quan dẫn đường, thấy được công sức tình thương của các kỹ thuật viên, thấy được tình đồng đội trong cuộc chiến với quân thù. Cũng qua lời kể của tác giả ta thấy bao địa danh của đất nước, thấy được bao nghĩa tình quân dân, thấy được bao những ấu trĩ về cách nghĩ, cách sống bồng bột của tuổi trẻ, của một thời cứng nhắc về đời sống tinh thần. Bao kỷ niệm ngọt ngào, bao dấu ấn không thể quên với bất cứ ai trong đời dù chỉ là trong chốc lát hay ngâu nhiên bắt gặp như chuyện khi phi công Thái bị bắn rơi và được mấy em khu 4 chăm sóc, hay là chuyện mấy bà mẹ Nga thương nhớ khi chia tay về nước, hay là chuyện các anh đi hái táo (trộm) ở gần khu huấn luyện, hay về trường hợp hy sinh của phi công Phạm thành Nam .... Tất cả đều oai hùng, đơn sơ, trong trắng khiến chúng ta cảm phục và yêu mến các phi công Việt Nam! có được chiến công oai hùng trước không lực Hoa kỳ đã mất bao mồ hôi, xương máu của những phi công Việt Nam! trước đây cứ lầm tưởng được làm phi công là oai rồi. Còn chuyện lái máy bay chắc cũng dễ và sướng lắm. Biết đâu các anh phải luyện tập gian khổ lắm, công phu lắm, nguy hiểm, bất chắc lắm. Lại trong thời kỳ chiến tranh gian khó, thiếu thốn đủ đường. Có khi còn vất vả hơn các công việc khác nhiều lần. Nhất là qua lời tác giả giúp chúng ta biết được tỷ mỷ các cuộc không chiến, thấy được sự dũng cảm tuyệt vời của phi công Việt Nam! Thấy được sự đóng góp của các sĩ quan dẫn đường, thấy được công sức tình thương của các kỹ thuật viên, thấy được tình đồng đội trong cuộc chiến với quân thù. Cũng qua lời kể của tác giả ta thấy bao địa danh của đất nước, thấy được bao nghĩa tình quân dân, thấy được bao những ấu trĩ về cách nghĩ, cách sống bồng bột của tuổi trẻ, của một thời cứng nhắc về đời sống tinh thần. Bao kỷ niệm ngọt ngào, bao dấu ấn không thể quên với bất cứ ai trong đời dù chỉ là trong chốc lát hay ngâu nhiên bắt gặp như chuyện khi phi công Thái bị bắn rơi và được mấy em khu 4 chăm sóc, hay là chuyện mấy bà mẹ Nga thương nhớ khi chia tay về nước, hay là chuyện các anh đi hái táo (trộm) ở gần khu huấn luyện, hay về trường hợp hy sinh của phi công Phạm thành Nam .... Tất cả đều oai hùng, đơn sơ, trong trắng khiến chúng ta cảm phục và yêu mến các phi công Việt Nam!