Nguyễn Văn Huyên là một nhà nghiên cứu mà tên tuổi và sự nghiệp gắn liền với sự hình thành, phát triển của ngành dân tộc học, nhân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Trong nhiều công trình ông để lại, người đọc có thể khám phá những giá trị truyền thống nằm trong tiến trình lịch sử của đất nước, con người Việt Nam mà cuốn Hội hè lễ tết của người Việt là minh chứng điển hình.

Về nhan đề cuốn sách

Cuốn sách là tập hợp những tiểu luận nghiên cứu và những bài viết được in trong 2 tập Góp phần nghiên cứu  văn hóa Việt Nam (hai tập: tập I năm 1995; tập II năm 1996, NXB khoa học xã hội). Trước khi đọc vào nội dung, nhan đề này khiến chúng ta cần phải suy nghĩ. Từ bao giờ hội hè lễ tết xuất hiện trong kho tàng văn hóa Việt Nam với tư cách là của người Việt ? đó là một câu hỏi cần rất nhiều minh chứng có lý có tình bởi sự liền kề về mặt lãnh thổ và gẫn gũi về mặt lịch sử với nền văn hóa Trung Hoa cộng với sự khoan hòa cởi mở trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa mà những sinh hoạt trong đời sống của người Việt vẫn ít nhiều mang dấu vết của sự giao lưu này. Tuy nhiên, tác giả đã không làm cho người đọc thất vọng. Bằng những nghiên cứu thực tế, tư duy khoa học và phương pháp tiếp cận chuẩn xác, Nguyễn Văn Huyên đã làm sáng tỏ được từng lớp trầm tích văn hóa trong các sự kiện để làm minh chứng thuyết phục cho những giá trị thuần Việt trong các sinh hoạt văn hóa ấy.

Tết Nguyên Đán của người Việt Nam

Tác giả có giải nghĩa Tết Nguyên Đán là những buổi rạng đông của sự khởi đầu, là lúc khởi đầu của năm, tháng và mùa, nó đứng đầu chuỗi nhịp điệu các thời kỳ. Vì thế, sáng hôm đó là buổi sáng linh thiêng nhất. Khi sử dụng tên gọi Tết Nguyên Đán là chúng ta đang sử dụng tên gọi đọc chệch đi của Tiết Nguyên Đán. Thời điểm đặc biệt này ra đời dựa theo lịch pháp của các cư dân nông nghiệp mà mặt trời và mặt trăng có vai trò quyết định chủ đạo. Sự chuyển giao đặc biệt ấy gắn liền với một sự biến đổi đồng bộ và nhất trí cao trong xã hội với những lễ thức đặc biệt chỉ xuất hiện trong năm một lần điển hình như tiễn ông Công, ông Táo về chầu trời vào ngày 23 tháng Chạp, dựng cây Nêu, cúng Tất niên, đi lễ chùa, đón giao thừa, xem tuổi xông đất và lì xì cho các cụ già, em nhỏ.  Tết của người Việt kéo con người ta ra khỏi những sinh hoạt cá nhân đời thường để cộng đồng cùng sống trong một tâm thế hân hoan và hướng đến năm mới ấm no, hạnh phúc    

 

Tiết Thanh Minh và sự giữ gìn mồ mả ở Việt Nam (ngày 3 tháng Ba âm lịch)

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh

Những câu thơ dập dìu về cảnh ngày xuân trong truyện Kiều có sức sống rất lớn giúp bạn đọc mường tượng ra quang cảnh của ngày đầu xuân trong trẻo, người người, nhà nhà thăm nom, sửa sang mộ phần. Đó là hoạt động quan trọng đầu năm bởi theo quan niệm dân gian thì mộ phần tổ tiên có ảnh hưởng đặc biệt đến sinh mệnh và sự thịnh vượng của con cháu, vậy nên con cháu cần bày tỏ tấm lòng của mình đối với những người đã khuất để mong cầu phù hộ, che chở. Cuộc thăm mộ ngày Thanh Minh là một trong những hành vi tôn kính thiêng liêng nhất mà người sống có thể bộc lộ với người chết mà ẩn chứa cả sự hiếu thảo, quan niệm về thế giới bên kia và niêm tin sâu sắc vào sự gắn kết giữa quá khứ với thực tại.

Tết Đoan Ngọ của Việt Nam (ngày 5 tháng Năm âm lịch) cùng những tục cúng lễ trừ tà ma mùa hè

Tết Đoan Ngọ- tiết Thiên Trung, thời điểm mặt trời lên điểm cao nhất của bầu trời vào giờ Ngọ, thường được biết đến với tên gọi ngày giết sâu bọ cùng thói quen ăn rượu nếp và các loại hoa quả là một điển hình khác trong kho tàng văn hóa dân gian của người Việt. Dịp này gắn liền với sự khắc nghiệt của thiên nhiên trong những ngày hè nóng nực kéo theo các loại dịch bệnh mà con người mong muốn chống chọi bằng những thực hành tín ngưỡng có phần kì lạ như cúng Quan Ôn bằng hình nhân và vàng giấy để xin các ngài không gieo rắc dịch bệnh, phơi khô lá cỏ để thành thứ lá mồng năm chữa các bệnh do thời tiết, nhuộm móng chân móng tay bằng lá móng để xua đuổi tà ma, đeo vào cổ trẻ con những bùa tua, bùa túi bằng chỉ ngũ sắc v.v…những thực hành này, theo tác giả có ít nhiều liên quan đến quan niệm về sự trường thọ mà các đạo sĩ của Lão giáo truyền bá và rất bổ ích cho ai muốn nghiên cứu, tìm hiểu về các thực hành ma thuật ít nhiều bắt nguồn từ đạo Lão.     

Tết Trung Thu (Rằm tháng Tám: ngày 24 tháng 9 năm 1942)

Ngày rằm tháng Tám là thời điểm thu phân, thời tiết mát mẻ và đặc biệt là trăng sẽ tròn nhất, sáng nhất trong năm. Đây là lúc ước vọng mưa thuận gió hòa được người nông dân gửi gắm trong hình tượng con rồng (truyền thuyết coi nó là sinh vật cai quản việc làm mưa) cũng dịp ấy người ta cùng chiêm ngưỡng mặt trăng để dự đoán về mùa màng, tương lai thông qua các điềm báo, ví dụ nếu trăng sáng vằng vặc thì sẽ có một mùa bội thu. Ngoài rồng là con vật tưởng tượng thì những con vật có thật cũng được thêm vào dịp này như con cóc (vì có liên quan đến tiếng kêu gọi mưa của nó cũng nhìn thấy nó ở mặt trăng nên bản thân mặt trăng trong thơ được gọi là Thiềm Cung - cung con Cóc­) hoặc như con thỏ, biểu tượng cho khả năng sinh sản. Thêm vào đó, vì mặt trăng tượng trưng cho âm tính cũng như khả năng sinh sản nên dân gian đã sáng tạo nên hình tượng của ông Nguyệt lão và bà Nguyệt- các vị thần quyết định hôn nhân của con người, se duyên bằng cách buộc sợi chỉ tơ hồng vào chân họ. Trung thu còn là dịp trẻ em được vui chơi và trông trăng phá cỗ và vì thế trẻ em cũng như người lớn đều có sự yêu thích đặc biệt với ngày này.



 Sự đầu thai của các linh hồn và lễ Xá Tội Vong Nhân của Người Việt

Theo tín ngưỡng của người Việt Nam, thì con người có hai nhóm linh hồn: ba hồn và bảy phách hay vía, đàn bà thì có nhiều hơn đàn ông hai phách. Cái chết đến là do hồn phách bỏ đi và khi đó mặc dù sang thế giới khác, hồn cũng có nhu cầu như những người sống, tuy nhiên cũng có những vong hồn không nhận được sự chu cấp và lạc lõng bởi chính nghiệp báo nặng nề của mình mà vẫn loay hoặc không thể đầu thai. Truyền thuyền nhà sư Mục Kiền Liên cứu mẹ có liên quan đến lễ Xá Tội Vong Nhân và theo truyền thuyết đó đã hình thành nên ngày lễ lớn của những người đã chết theo quan niệm Phật giáo. Việc rộng lượng cúng tế cho những vong hồn lang thang này giúp cho người sống nhìn nhận lại sự ngắn ngủi của cuộc đời, sự hiện hữu nhân quả, luân hồi để từ đó hướng thiện hơn.    

Việc chôn người chết vào giờ xấu theo tín ngưỡng Việt Nam

Trước khi chết người ta cần bàn đến chuyện sống. Ngày sinh tháng đẻ có tầm ảnh hưởng rất lớn đến vận mệnh con người và nếu trẻ em sinh ra chẳng may bị chết sớm thì người ta cho rằng đó là do sự ám hại của Quan sát (Ác thần) và các thần Kim Xà Thiết Tỏa (thần Rắn vàng xích sắt). Để tránh cho đứa trẻ những tai vạ thường cha mẹ cần mời thầy cúng về để lễ bái và chôn hình nhân thế mạng để thay thế.

Phần này của sách có nội dung bàn về tín ngưỡng dân gian liên quan đến việc bảo vệ trẻ em khỏi chết yểu vậy nên cá nhân người review có suy nghĩ đặt tên đề mục là Việc chôn người chết vào giờ xấu theo tín ngưỡng Việt Nam là chưa thực sự hợp lý nên không bàn luận chi tiết thêm.

Y phục của người Việt

Theo tác giả đánh giá thì: Người Việt kinh sợ một cách thánh thiện sự trần truồng và tình cảm e thẹn đó hẳn có một nguồn gốc tôn giáo. Cái ăn, cái mặc là một phần quan trọng để đưa giá những nhận định căn bản về văn hóa riêng của mỗi quốc gia, dân tộc (Ăn, mặc, ở). Cái mặc của người Việt được nhìn nhận từ sự úy kỵ việc để mình trần cả lúc sống cũng như khi chết (khi cha mất, Chử Đồng Tử đã dành chiếc khố độc nhất cho cha vì không nỡ để cha mình trần) vậy nên từ Bắc vào Nam, cả nam lẫn nữ trong mỗi thời kỳ  lịch sử khác nhau đều có những trang phục, phụ kiện mà điểm chung nổi bật nhất là sự tinh tế trong việc lựa chọn phối hợp các gam màu để tạo điểm nhấn theo ý muốn và ưa sự cầu kì một cách kín đáo.

Chống hạn trong tập quán Việt Nam

Là đất nước nông nghiệp, các nhà nông có sự đồng thuận và nhất trí cao trong kinh nghiệm nông nghiệp: Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống. Vậy nên, những năm trái gió trở trời, thiếu mưa thiếu nước, cái hạn đến trước thì cái đói đến sau luôn làm dân cư e sợ. Để chống hạn hán và mất mùa xảy ra, bằng nhận thức chất phác của mình, người dân phải cậy nhờ các thế lực hùng mạnh trong tự nhiên làm mưa. Sự nhờ cậy đó được thể hiện ở các nghi thức cúng tế mà điển hình là tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện- những nữ thần mây, mưa, sấm, chớp). Trong đó, truyền thuyết về nhà sư Khâu Đà La và nàng Man Nương góp phần lý giải đáng kể không chỉ câu chuyện cầu mưa chống hạn mà còn là câu chuyện về con đường dung hợp giữa Phật Giáo với những tín ngưỡng bản địa của Việt Nam.

Các bài cúng trong lễ tế Nam Giao

Đàn Nam Giao là tế đàn bậc Thiên Tử cần nhất thiết lui tới để bày tỏ lòng thành kính với trời đất và cầu cho nhân dân ấm no, thái bình thịnh trị. Theo thống lệ, cứ ba năm một lần, hoàng đế nước Việt Nam lại tiến hành lễ tế Nam Giao, trên gò đất nằm phía nam kinh thành Thăng Long xưa. Bằng việc tấu lên các bài tụng, bài văn cúng có lời lẽ thành kính, đẹp đẽ cùng với các lễ vật trong lúc dâng hương, hoàng đế đích thân cầu xin Trời và Đất- chúa tể của chúng sinh và các thần che chở ban phước cho triều đại và thần dân. 

Hội Phù Đổng (Một trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt Nam)

Lễ hội là thành tố văn hóa phi vật thể tiêu biểu nhất của làng xã cổ truyền, là thời điểm các sinh hoạt văn hóa đan xen lẫn nhau tạo nên diện mạo rõ rệt nhất của làng xã trước đây. Tác giả đưa ra đánh giá Hội Phù Đổng là một trong những hội kỳ thú nhất và cổ nhất và đã dẫn đầy đủ truyền thuyết thánh Gióng phá giặc Ân, sự kết chạ và liên kết giữa các làng Phù Đổng, Phù Dực, Đổng Viên, Đổng Xuyên để tạo thành hội liên làng mà sự phân công thuộc về các Giáp.

Ai ơi mùng Chín tháng Tư

Không đi hội Gióng cũng hư mất đời !

Sự cầu kì trong công tác chuẩn bị và những lễ thức cần phải có trong ngày tiến hành đánh trận giả tại hội Gióng hàm chứa cả một hệ thống biểu tượng và giá trị triết học về sự hòa hợp.



Hát và múa Ải Lao ở hội Phù Đổng (Bắc Ninh)

Trong ngày hội Gióng, có một phường hát múa gọi là phường hát múa Ải Lao đến tham dự. Suốt thời gian mở hội thì phường này biểu diễn những điệu hát và múa lễ thần. Theo truyền thuyết thì phường này có gốc ở Lào và trước đây Lào thường triều cống cho các vua Việt Nam. Sau đấy khi nước Lào không triều cống nữa, nhà vua giao cho làng Phù Đổng, nằm bên sông Đuống, thuộc phủ Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh tổ chức một đội hát xướng để dâng thần điệu hát Ải Lao. Với ngôn ngữ cổ kính, bình dân các bài hát Ải Lao là một điểm nhấn rất riêng trong lễ hội.

Về một bản đồ phân bố các Thành Hoàng ở tỉnh Bắc Ninh (Bắc Kỳ)

Thành hoàng là tên gọi của vị thần bảo trợ cho các ngôi làng ở khu vực đồng bằng châu thổ Việt Nam. Ban đầu, tên gọi này có nguồn gốc từ vị thần bảo hộ các tòa thành của Trung Quốc song về đến Việt Nam được sử dụng đan xen với các tên gọi thần làng, thổ địa và sau đó trở nên đặc biệt phổ biến cùng với sự xuất hiện các ngôi đình. Mỗi làng đều có vị thành hoàng của riêng mình, hoặc là nhân thân (anh hùng lịch sử, người có công, người chết vào giờ thiêng…) , hoặc là nhiên thần (các vị thần tự nhiên như đá, cây, nước, lửa… ) hoặc thiên thần (các vị thần được trời phái xuống và thường linh hiển). Mỗi vị đều có công đức và hành trạng riêng, được tồn tại vững chắc qua thời gian nhờ vào niềm tin của dân làng và những đạo sắc phong của triều đình phong kiến. Các vị thành hoàng là cốt truyện cho những lễ hội, vị nào có sự tích hay lạ thì lễ hội càng đặc sắc theo nguyên lý “có tích mới dịch nên trò”. Về sự hình thành bản đồ phân bố các Thành Hoàng ở tình Bắc Ninh, tác giả đã đưa ra những số liệu thống kê cụ thể về những nhóm thần hay được thờ phụng, sự thờ phụng thành hoàng có mối liên kết chặt chẽ với điều kiện tự nhiên (ví dụ ở khu vực sông Cầu và sông Đuống chảy qua, số lượng thủy thần chiếm đa số). Theo nhận đinh của tác giả, việc thờ cùng thành hoàng có một tầm ảnh hưởng quan trọng đối với sự ổn định của xã hội nông nghiệp trước đây vì ngoài cầu khấn cho mùa vụ ra, thờ cúng thành hoàng còn có chức năng gắn kết xã hội trong những làng xã cổ truyền mà tính cộng đồng và tính tự trị giữ vai trò chủ đạo.

Những  phép lạ của các tiên nữ ở phía Nam thành cổ Thăng Long

Những tiên nữ và địa danh được nhắc đến ở tiểu luận này gồm có: Mối tình đẹp giữa nàng Giáng Kiều và chàng học trò Tú Uyên gắn với Bích Câu Đạo quán;

Cuộc gặp gỡ thoáng qua giữa Bồi Liễn tiên nương và vua Lê Thánh Tông gắn với Vọng Tiên quán;Sự xuất hiện bất ngờ của Thưởng Hội Song Tiên với vua Lê Hiển Tông gắn với Tích Tiên tự.

Sau bao thăng trầm, nếp nhà xưa vẫn còn nhưng khung cảnh xưa thì khó giữ.



Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam

Sự thờ cúng các vị thần tiên ở Việt Nam

Ước vọng bất tử của người Việt được thể hiện thông qua việc thờ cúng các vị thần tiên, đầu tiên đó là Bát tiên theo ảnh hưởng của Trung Quốc, Chử Đồng Tử- ông tổ của các thần tiên Việt Nam, bà chúa Liễu Hạnh – vị tiên nữ đầu tiên của các tiên nữ Việt Nam, tiên nữ Giáng Kiều, tiên nữ Bồi Liễn, Thưởng Hội Song Tiên, tiên nữ Giáng Hương, Ông già Na Sơn, Huyền Vân Chân Nhân, Thông Huyền Chân Nhân, Thành Đạo Tử, tiên nữ Ngải Hòa, nàng tiên công chúa Ngọc Bích, Hà Tiên (ông tiên vượt sông), Lộc Giác Chân Nhân, Chân nhân núi Hồng Lĩnh: Phạm Viên.

Trên đây là các vị thần tiên được nêu ra, tác giả có tham khảo từ Hội Chân Biên, bên cạnh đó tác giả còn tập trung miêu thuật lại những nét chính của một trong số các công trình thờ tự thần tiên tiêu biểu vẫn còn đến ngày nay đó chính là Bích Câu Đạo quán (phố Cát Linh, Hà Nội).  Hoạt động phụng bút hoặc phụng kê (xin nhận các nét bút của tiên) cũng được tả lại chi tiết trong mục này như là hình thức thực hành tín ngưỡng.

Một trường Đạo sĩ ở Việt Nam

Tên tuổi trường Nội Đạo gắn liền với Sùng Sơn đại chiến, cũng từ trận chiến mà ba ông Thánh của trường này (Thánh Bên Phải,Thánh Trước,Thánh Bên Trái) lập đại công giúp vua, chúa hàng phục tiên nữ Liễu Hạnh (sau là Thánh Mẫu Liễu Hạnh) mà trường Nội Đạo (phái Nội Đạo, phái Tam Thánh) càng trở nên nổi tiếng hơn và chiếm vị trí rõ rệt hơn trong sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt từ thế kỷ XVII. Không thể phủ nhận sự hiện diện của hình ảnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Đức Phật Dược Sư đã giúp cho trường Nội Đạo có được sự thừa nhận quan trọng thay vì bị xem như các thực hành ma thuật bị ngăn cấm trước đây.

Lời kết

 Viết review cho một cuốn sách mà tác giả của nó khiến người viết vô cùng kính trọng là một thử thách đặc biệt. Đôi khi người viết còn cảm nhận đây là một công việc hết sức ngây ngô bởi kiến thức và kinh nghiệm tự thân hẵng còn non trẻ. Tuy nhiên, bài viết này là sự cố gắng trên tinh thần cầu thị, nếu có các bậc học thức sâu rộng hơn góp ý thì đó cũng là nhân duyên, cũng giống với việc người viết có nhân duyên đọc sách và viết về sách, chỉ thoải mái đón nhận.

Hội hè lễ Tết của người Việt là một cuốn sách hay vì người làm khoa học vừa đảm bảo được sự khách quan trung thực vừa đảm bảo được bản sắc cá nhân. Đối với những nhà nghiên cứu, sách giống như một tác phẩm điêu khắc hiếm có, mang giá trị nhiều mặt còn đối với bạn đọc ưa thích tìm hiểu về đất nước, con người Việt Nam thì sách giống với một bức tranh đầy màu sắc rực rỡ.

Review chi tiết bởi Nguyễn Phú Hoàng Nam – Bookademy

Deal mua sách giá tốt hiện có: https://goo.gl/ajtqSs

____________

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn

Tham gia Bookademy Team để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị, đăng ký CTV tại link:

https://goo.gl/forms/7pGl3eYeudJ3jXIE3

Xem thêm

Mỗi năm một lần, và năm nào cũng phải lặp đi lặp lại chuỗi hành động phải làm ngày Tết, chắc hẳn mỗi cá nhân chúng ta cảm thấy chán ngán và muốn thay đổi không khí ngày Tết bằng phương pháp khác như du lịch ngày lễ,.. nhưng hãy nán lại một chút, tìm đọc cuốn sách “Hội hè lễ Tết của người Việt”, bạn sẽ tìm thấy cái không khí đúng hương vị ngày Tết y như trong từng câu từng chữ mà các nhà văn, nhà thơ cảm nhận về ngày Tết này.

Cụ Nguyễn Văn Huyên đã viết cuốn này bằng tiếng Pháp, vậy nên, khi dịch qua tiếng Việt, có đôi chỗ chưa được tự nhiên nhưng không hề làm gián đoạn trải nghiệm của người đọc. Bằng ngôn từ dung dị, mộc mạc mà tường minh, súc tích, cuốn sách đem đến cho người đọc sự hiểu biết những ngày lễ, những phong tục, truyền thống mà tưởng rằng “ai cũng biết” để ta thêm hiểu sâu hơn về những tháng ngày xưa cũ, cho ta một cảm giác được sống trong niềm hân hoan của dân tộc khi Tết đến. cuốn sách đưa ta về với “ nguồn cội”, về với ánh lửa bập bùng trong đêm khuya, thấy được những cảm xúc mà chỉ có trong những trang văn của Vũ Bằng về ngày Tết

 

Một công trình dày hơn bốn trăm trang, dày đặc thông tin, thuận tiện tra cứu, lời văn dung dị tường minh, trình bày sáng sủa trang nhã, tuy các phần tiểu luận chưa thật sự gắn kết hoàn chỉnh, nhưng đây rõ ràng là một quyển sách đáng quý, đáng đọc. Điểm khiến tôi thích nhất là vừa đọc vừa hình dung lại một chút về cội nguồn. Vào những năm loạn lạc, khi các luồng văn hóa đa phương quét qua Việt Nam làm thành một phen xáo trộn, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên, bằng những tác phẩm của mình, đã bám chắc lấy truyền thống, tìm về căn tính, lưu giữ cho văn hóa Việt một cái gốc cội vững bền. Chặng đường “về nguồn” ấy của ông thật gian nan, nhưng ngẫm ra thì chặng đường “về nguồn” hôm nay cũng thật gian nan lắm thay. Trớ trêu là bảy mươi năm sau, tác phẩm ông viết ra để dẫn dắt cho những nhà nghiên cứu phương Tây lại trở thành nguồn tham khảo đáng quý để chính chúng ta tìm hiểu cội nguồn. Trước mắt tác giả và các bậc cha ông, tôi khác gì một người ngoại quốc thờ ơ và xa lạ đang lò dò từng bước trong cái “hành trình văn hóa” để tìm hiểu về chính dân tộc mình.

 

Nhiều người nói Tết giờ đây không còn vui nữa. Bản thân tôi cũng thấy vậy, tôi chỉ cảm được không khí Tết xuân dậy lên trong trang văn Vũ Bằng, chứ chẳng thấy nó trong những ngày nghỉ dài và những màn xã giao chán ngán. Ngọn gió hiện đại mang đến hiệu quả vật chất nhưng lại tước đi niềm vui thú tinh thần, khiến ta lãng quên đi thứ truyền thống ta cần gìn giữ. Niềm vui cũ không còn, bởi ta đã bấy lâu xa cách với cái đời sống tinh thần đa màu sắc và vô cùng phong phú truyền từ tiên tổ. Thì đây, “Hội hè lễ Tết của người Việt” như một “cánh cửa thần kỳ”, mời bạn một lần bước vào không gian xưa nhiều hoài niệm và ám ảnh, để một lần đến gần với những bậc tiền nhân, thêm trân trọng những di sản để lại, và cũng thêm một lần được cầm cái Tết vẹn nguyên thuần khiết lên tay.

 

“Hội hè lễ tết của người Việt” được viết cách đây đã bảy mươi năm bằng tiếng Pháp, phiên bản tiếng Việt phát hành năm 2018 là bản dịch của hai dịch giả Đỗ Trọng Quang và Trần Đình. Có thể coi cuốn sách như những cuộc đối thoại văn hóa, trong đó Nguyễn Văn Huyên dần dẫn dắt, gợi mở, đưa những nhà nghiên cứu tò mò Tây phương bước lần vào thăm thế giới tinh thần Việt. Ở đó ông bóc gỡ phơi bày truyền thống dân tộc với các lễ hội, các tục thờ, các thần thánh, các húy kỵ sinh tử, các mỹ tục thuần phong bằng tất cả sự hào hứng nhiệt thành của một hướng dẫn viên và cả tính khách quan khoa học của một nhà nghiên cứu.

 “Hành trình văn hóa” ấy bắt đầu bằng việc “du khách” được “thưởng lãm” qua các phong vị Tết trong một năm âm lịch của người Việt: từ Tết Nguyên Đán mở ra một năm mới, đến tiết Thanh minh gắn liền với tục giữ gìn mồ mả, đến Tết Đoan Ngọ cùng những tập tục cúng lễ tương tự để trừ tà ma mùa hè, rồi đến Tết Trung Thu. Mỗi ngày Tết lại gắn với một truyền thống của dân tộc, mang những ý nghĩa riêng, và liên kết với nó là bao sự kiện trong dòng lịch sử, bao nhân vật còn được nhắc tên của mỗi vùng miền, bao nhiêu kiêng cữ và nền nếp còn được gìn giữ. Trang viết của Nguyễn Văn Huyên mang đến cho ta cái thứ không khí lễ hội truyền thống không lẫn đi đâu được. Với riêng tôi, việc đọc những đoạn văn ấy còn mang lại nhiều phong vị và dư âm hơn cả chính ngày lễ hội thật sự trong đời sống hiện đại bây giờ. Nguyễn Văn Huyên, bằng tâm huyết với truyền thống hay bằng sự chính xác lạnh lùng của nhà khảo cứu, đã mang cái Tết cũ nguyên sơ đặt lên tay ta, một thứ phong vị xưa, bao trùm lên cả sự vận hành trăng sao xa xôi cho đến những hành vi sinh hoạt nhỏ nhặt của người nông dân nơi thôn dã.

Thật sự mà nói, theo hành trình của thời gian, thì cái hương vị thôn dã của ngày Tết đã không còn. Theo quan niệm của người thời nay, Tết chỉ được coi như chuỗi ngày nghỉ ngắn hạn của người lao động, ngày nghỉ dài hạn của học sinh, sinh viên. Có lẽ, Tết không còn mới mẻ, không còn điều gì có thể thu hút con người ta phải vui vẻ, hạnh phúc, vì người ta vượt qua thời điểm lấy no lấy ấm làm chủ. Tuy nhiên, cuốn sách dày hơn bốn trăm trang có thể kéo tâm trí chúng ta trở lại những ngày tháng vốn có của Tết, một hương vị rất Tết mà không lẫn vào đâu được.

 


Sách cung cấp thông tin một cách khoa học về các ngày tết lớn của dân tộc như: ngày Tết Nguyên đán, Tết Ðoan ngọ, Tết Trung thu... Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến những lễ hội lớn như Hội Phù Ðổng, cùng các tập tục thờ cúng tổ tiên, thành hoàng làng, các huý kỵ, các vị thần tiên gốc Việt, y phục người Việt, tục thờ người chết, lễ xá tội vong nhân, các bài cúng trong lễ tế Nam Giao…

 

Tác giả đã tập hợp những bài tiểu luận nghiên cứu về tín ngưỡng, tâm thức tôn giáo của người Việt xưa, chia làm 14 mục, mỗi mục kèm theo nhiều câu chuyện dẫn chứng sinh động. Những trang viết của vị học giả tài hoa sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về ý nghĩa của các ngày lễ tết.

 

Tết Nguyên đán trở thành nét đẹp sinh hoạt văn hoá đầu tiên và quan trọng nhất trong năm, góp phần tô đậm bản sắc văn hoá dân tộc, phản ánh một cách sống động nhất cho tinh thần hoà hợp giữa con người và tự nhiên, theo chu kỳ ứng xử với vận hành vũ trụ. Qua đó ta có thể đối chiếu, so sánh để thấy được những nét đổi thay giữa tết xưa và nay, để từ đó thêm yêu quý những nét đẹp truyền thống của dân tộc mình.

Với ngôn từ mộc mạc, giản đơn mà không kém phần hấp dẫn thì đây hẳn là một cuốn sách rất đáng đọc vào những ngày nhàn dịp Tết, không chỉ cung cấp sự hiểu biết sâu sắc hơn về lễ hội truyền thống nước ta, mà còn truyền vào trong ta một ngọn lửa tình yêu nước nồng nàn, biết trân trọng những giá trị truyền thống dân tộc nghìn đời.

Trong số những tiểu luận mà giờ đây được chọn lọc in thành sách Hội hè lễ tết của người Việt (2018), bài “Tết Nguyên Đán của người Việt Nam” đăng trên tạp chí Đông Dương (Indochine) số 75 và 76, tháng 8/1941, là một áng văn tuyệt đẹp về ngày lễ thiêng liêng nhất trong năm của chúng ta. Từ quan sát chung, như một nhà quay phim, Nguyễn Văn Huyên đi theo trình tự thời gian, bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp cho đến những ngày đầu năm mới, để thu nhận tất cả mọi diễn biến, công việc, tâm trạng của con người khi đón Tết.

Tết, như thế, không chỉ là một dịp để nghỉ ngơi, hoan hỉ mà còn là sự kiện xã hội có chức năng kết nối nhân tâm, khích lệ mỗi người dân sống hài hòa với tự nhiên và lễ nghĩa với anh em, tông tộc, xóm giềng. Trong bài viết, Nguyễn Văn Huyên chủ ý nhắc đến khá nhiều tục lệ mang màu sắc Việt Nam, đặc biệt là truyền thống trọng chữ, quý trẻ con, chuộng thú chơi tao nhã của người bình dân.

Hãy cùng đọc lại một số trích đoạn trong áng văn đó: “[…], tháng Chạp âm lịch là thời kỳ hoạt động kinh tế khẩn trương. Việc mua bán phát triển một cách lạ thường ở tất cả các chợ trong nước. Nếu như trong năm, người ta có rất ít nhu cầu thừa, và nếu như người ta chỉ ăn một suất ít ỏi, thường dưới mức tối thiểu mà cơ thể đòi hỏi, thì trong ngày Tết, người ta cố gắng để ăn no nê hơn bình thường. Hơn nữa, đấy là thời kỳ trao đổi quà biếu: kẻ dưới biếu xén người trên, ông lớn ban cho kẻ thuộc hạ, người ngang hàng gửi cho nhau kẹo mứt; ai nấy đều coi là vinh dự việc chi tiêu hào phóng và biếu xén bạn bè thân thích cái để “ăn Tết” và cúng tổ tiên cho tươm tất.

Phố phường có dáng vẻ rất nhộn nhịp và rất đẹp mắt. Góc nhỏ nhất cũng bị những người bán hoa, cây xanh, tranh dân gian, thực phẩm v.v... chiếm mất. Người ta tranh nhau trả giá cao nhất củ thủy tiên nở bông hoa đầu tiên đúng trong đêm giao thừa, cái cây trĩu quả đỏ, cành đào hoặc hải đường với vô số nụ hồng hay đỏ, v.v... Bên trong mỗi ngôi nhà cần phải có bầu không khí nhuốm màu sắc rực rỡ là biểu tượng của hạnh phúc, điềm báo trước những sự kiện tốt lành, và những lá bùa có thể xua đuổi ma quỷ cùng các ảnh hưởng độc hại.

…Đêm Giao thừa còn được đánh dấu bằng những cuộc đi lễ đền chùa. Ai cũng lấy làm vui thích và tự thấy mình có bổn phận phải ra đình, và đến các đền chùa. Chẳng đêm nào thú vị và đẹp như đêm ấy. Đúng là một điều vui thích hiếm có khi được thức đêm đó ngoài trời. Ở tất cả các đền chùa này, nghi ngút đèn hương, mọi người, cả già lẫn trẻ, đến dâng lên chư Phật cùng những thần linh khác những lời cầu nguyện đầu tiên. Ta có cảm tưởng sống một cuộc sống thật thanh bình sâu lắng giữa đám đông sùng mộ, giản dị và thành tâm.

…Như vậy, ở xứ sở mà cuộc sống theo nhịp sự nối tiếp nhau của các mùa, Tết là một ngày thiêng liêng trong tất cả. Con người, vào những ngày bình thường, hoàn toàn thuộc về gia đình và công việc của mình. Anh ta rất ngờ vực kẻ lạ. Chỉ trong những ngày chuyển sang năm mới này thì một sự cảm thông trịnh trọng mới diễn ra, và cuộc sống tình cảm của nông dân nước ta, rất kình địch nhau, mới biểu lộ một cách trịnh trọng nhất định.

Các gia đình, thông thường khép mình lại và bị giam hãm trong nỗi lo âu của đời sống hàng ngày ít nhiều ích kỷ, thì chìa rộng bàn tay cho nhau. Mọi người chúc nhau sức khỏe và hạnh phúc mà chẳng có ẩn ý gì cả. Và dường như ai cũng thấy ở sự thịnh vượng của láng giềng vẻ thanh bình và yên ổn của tất cả mọi người…

Đọc cuốn sách "Hội hè lễ tết của người Việt" của cố học giả Nguyễn Văn Huyên tôi như ngỡ ngàng ra nhiều điều. Xuất hiện trở lại sau gần 80 năm kể từ khi ra đời, cuốn sách "Hội hè lễ tết của người Việt" đã góp phần nói lên tiếng nói bình đẳng và dân chủ của người Việt, trong bối cảnh mà các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng, văn hóa Việt vẫn đang chủ yếu được thực hiện bởi các học giả phương Tây.

Cuốn sách được viết bằng tiếng Pháp, là cách trò chuyện của một trí thức bản địa với những độc giả, giới nghiên cứu Pháp và sau đó được Đỗ Trọng Quang và Trần Đỉnh dịch sang tiếng Việt. Sách cung cấp thông tin một cách khoa học về các dịp tết của Việt Nam như Tết Nguyên đán, Tết Thanh Minh, Tết Đoan Ngọ, Tết Trung Thu… hay đưa độc giả đắm mình trong không khí của những lễ hội như hội Phù Đổng. Các tập tục như thờ cúng thần tiên, thành hoàng làng, các húy kỵ, các vị thần tiên gốc Việt… tất cả đều được mô tả, phân tích rất hay rất thú vị và đặc sắc. Qua đó cuốn sách còn giúp người đọc hiểu một thông điệp sâu sắc hơn, rằng sự đa dạng văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng làm nên những giá trị bền vững cho nền văn hoá của dân tộc đó.

Việt Nam là một quốc gia đã có hàng nghìn năm lịch sử. Giá trị thời gian được tạo nên bền vững được như vậy là nhờ vào người Việt ta có một nền văn hóa mang bản sắc riêng, Chính những nét đó làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam từ hàng ngàn đời này có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và chính qua những lễ hội đó còn là dịp để con cháu dành sự tôn kính đến tổ tiên đi trước.

Bạn đọc trong và ngoài nước nên tìm hiểu nét tinh túy lễ hội Việt qua những cuốn sách viết về lễ hội Việt Nam này để góp phần thêm hiểu hơn về giá trị con người cũng như nền văn hiến ngàn năm của đất nước Việt Nam tôi.

Mọi người đón năm mới bằng cuốn sách nào? Mình chọn Hội hè lễ tết của người Việt, một tác phẩm khảo cứu không quá hàn lâm khô khan, mà rất cuốn hút với vô vàn những điều "tưởng cũ mà mới", "tưởng biết rồi mà hoá ra còn mơ hồ lắm" về các lễ tết của người Việt. Sách được cụ Nguyễn Văn Huyên viết bằng tiếng Pháp và đến với chúng ta qua bản dịch, nên một đôi chỗ vẫn chưa hoàn toàn tự nhiên, song tổng quan thì chẳng ảnh hưởng mấy đến trải nghiệm đọc sách đâu, cá nhân mình thấy thế đó. Điểm cộng to đùng là sách có rất nhiều tranh minh hoạ cụ thể, chi tiết và đẹp mắt, chưa bàn đến nội dung, chỉ riêng phần trình bày đã cực kỳ cuốn hút rồi nhé. Tối mùng 1 vừa rồi, sau hàng loạt chuyến thăm hỏi họ hàng và hàng... dăm chục cỗ Tết, mình mới tranh thủ được chút thời gian đọc phần đầu tiên, chỉ vỏn vẹn có 23 trang, về Tết Nguyên đán của nước mình. Nhân đây mình cũng nói luôn cho những ai chưa biết, cuốn sách được chia thành các phần riêng biệt, mỗi phần về một dịp lễ, nên đến dịp nào mình đọc trích đoạn sách về dịp đó, một cuốn sách mà đọc rả rích cả năm cũng thú đấy chứ mọi người nhỉ? Quay lại chuyện chính, đọc sách mình mới thấy rõ Tết giờ khác Tết xưa nhiều đến chừng nào. Các tục các lễ bây giờ rút gọn đi nhiều lắm, phần vì quan niệm của mọi người đã đổi thay, phần vì nhiều điều kiện khách quan không cho phép. Có tục bỏ đi mình... mừng húm (ví dụ như chuyện nửa đêm giao thừa còn phải bày cỗ bàn cúng tứ phương ????), có tục bỏ đi mình tiếc hùi hụi luôn (tục dựng cây nêu ngày Tết thời xưa đó). Đọc và cảm nhận sự khác biệt, cảm khái sự đổi thay, rồi bàn luận với các ông bà bố mẹ trong nhà - những con người của hai giai đoạn lịch sử cũ mới trong văn hoá, ôi Tết này sâu sắc lý thú hơn hẳn bao Tết trước của mình!

GS Nguyễn Văn Huyên đem đến một lối viết phóng khoáng, bay bổng trong các tiểu luận của mình ở Hội hè lễ tết của người Việt. Cuốn sách mở ra một không khí náo nhiệt và đượm màu sắc văn hóa của các ngày lễ Tết trên dải đất hình chữ S này. Lễ hội theo mùa, theo ngày, theo tháng, theo năm, theo vùng miền, quê quán, họ hàng. Các nghiên cứu của GS Nguyễn Văn Huyên trải dài theo cả không gian và thời gian.

Đặc biệt, các trang viết về Tết được độc giả trên mạng xã hội Goodreads đánh giá là đáng đọc nhất. "Ngày Tết, do một quy luật tự nhiên bất di bất dịch, nhờ sự vận hành muôn thuở kết hợp của mặt trời và mặt trăng, bao giờ cũng xuất hiện với bộ trang sức tươi tắn muôn hồng nghìn tía, được làm dịu đi bởi sự đổi mới của vạn vật, được làm sinh động bởi các hạt mưa lâm tâm, điềm báo trước cơn mưa phùn tốt lành”, GS Nguyễn Văn Huyên ghi lại trong cuốn sách.

Cuốn sách là một lời bày tỏ tình yêu của giáo sư đối với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Ông viết về việc người dân ta đi tảo mộ vào mỗi dịp đầu năm hoặc cuối năm. Ông cho rằng đó là một trong những cách nhân dân ta giữ gìn những giá trị đạo lý tốt đẹp "Uống nước nhớ nguồn". Qua các hoạt động hàng ngày tưởng chừng như vô nghĩa, dưới góc nhìn của một nhà khoa học, chúng lại mang những thông điệp riêng. Đó là cách quá khứ và hiện tại gửi thông điệp cho nhau.