Đi tìm lẽ sống là một cuốn sách ghi lại những trải nghiệm của Victor Frankl trong trại tập trung Auschwitz. Nó chắc chắn sẽ giúp độc giả có cách nhìn mới về lý do mà mình tồn tại.

Trại tập trung Đức quốc xã là cơn ác mộng kinh hoàng cho bất cứ ai bởi đó là một nơi địa ngục trần gian, khiến con người phải trải qua “những giây phút khốn cùng về cả thể xác lẫn tâm hồn”. Ở đây, con người ta không chỉ bị bóc lột, hành hạ nặng nề mà họ còn phải gánh chịu những đả kích về tâm lý, đó là sự sợ hãi, đau đớn, mất hi vọng và lầm lạc lẽ sống. Kể cả đến khi trở ra được khỏi trại tập trung đó, con người ta nhận ra rằng chẳng còn ai ở ngoài đó đợi chờ mình, tất cả gia đình mình đều không còn nữa. Chính những đả kích này đã khiến con người ta hoàn toàn mất đi lý do tồn tại của chính mình.

Victor E. Frankl cũng là một nạn nhân của trại tập trung đó. Nhưng không hề mất đi hy vọng vào cuộc sống, ông đã chọn cho mình một thái độ sống lạc quan. Ông tin rằng cho dù cuộc đời có cay đắng đến đâu thì nó vẫn luôn tiềm ẩn một ý nghĩa nào đó. Ý nghĩa cuộc sống có thể được tìm thấy trong mọi khoảnh khắc và cuộc sống không bao giờ mất đi ý nghĩa ngay cả khi chúng ta phải chịu đựng đau khổ và phải đối mặt với cái chết.

Đi tìm lẽ sống là một cuốn sách “kinh điển của thời đại”. Cuốn sách này sẽ giúp nâng đỡ tinh thần con người, giúp cho con người ta có thể tìm ra được mục đích tồn tại của mình, từ đó cho họ một lý do để tiếp tục sống. Như Victor đã nói, ông tin rằng con người ta không cần phải hạnh phúc thì mới sống được, một người có thể tiếp tục cuộc sống của mình nếu họ tìm được một lý do để bước tiếp.

Cuốn sách Đi tìm lẽ sống có thể gọi là một cuốn sách về tâm lý học. Nó bao gồm hai phần chính: trải nghiệm của tác giả trong trại tập trung và những sơ lược về liệu pháp ý nghĩa- liệu pháp được tác giả đúc rút ra từ những trải nghiệm mà ông đã trải qua trong những tháng ngày kinh khủng ở trại tập trung.

Phần một: Những trải nghiệm trong trại tập trung.

Ngay từ khi bắt đầu câu chuyện của mình, Victor đã nhấn mạnh rằng ông không hề có ý định kể lại những gì mà ông đã phải trải qua trong trại tập trung của Đức quốc xã. Thay vào đó, ông sẽ kể lại những gì mà những người tù trong trại tập trung phải trải qua để trả lời cho câu hỏi: “Các tù nhân nghĩ về cuộc sống hằng ngày trong trại tập trung như thế nào?” Đây là một điểm đặc biệt ở cuốn sách: nó cho chúng ta thấy một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống của người tù trong trại tập trung chứ không phải là một góc nhỏ trong đó dưới cái nhìn và trải nghiệm của tác giả.

Một ngàn rưỡi người bị giam trong một khu được xây dựng có sức chứa tối đa khoảng hai trăm người. Chúng tôi lạnh và đói. Không đủ chỗ cho mỗi người ngồi trên nền đất trống, nói chi đến ngả lưng. Khẩu phần ăn của chúng tôi trong suốt bốn ngày chỉ là một mẩu bánh mì ít ỏi.

Khung cảnh được tái hiện này là lúc Victor đang cùng những người vô tội khác bị vận chuyển đến trại tập trung Auschwitz. Họ đang dần tiến đến một nơi vô cùng kinh khủng mà chính họ cũng chẳng hề hay biết. Sinh mệnh của những người tù này phụ thuộc vào một cái chỉ tay của những tên lính SS( những tên lính trong trại Auschwitz): những người trông ốm yếu sẽ phải chấp nhận kết cục là cái chết đầy đau đớn trong phòng hơi ngạt ở phía bên tay trái, còn những người “trông có vẻ nhanh nhẹn” sẽ được đưa sang bên tay phải và trở thành một người tù “chính thức”. Nhưng số phận của họ liệu có tốt đẹp hơn không? Không ai có thể biết được.

Những người tù may mắn còn sống sót này sẽ được “vệ sinh sạch sẽ”. Họ phải lột bỏ quần áo, cạo sạch lông và đi tắm:

Trong khi chúng tôi đợi tắm, sự trần truồng đã thức tỉnh chúng tôi: chúng tôi giờ thực sự chẳng còn gì ngoài cơ thể trời sinh này- ngay cả một sợi lông cũng không; tất cả những gì mà chúng tôi sở hữu, theo đúng nghĩa đen, chỉ là cơ thể trần trụi này.

Mặc dù những người tù này đều phải chịu đựng những hoàn cảnh như nhau, song một vài người tù lâu năm lại chẳng hề có thiện chí đối với những người mới đến trại giam. Họ đưa ra một vài “lời khuyên” khiến cho những người mới này bị bọn lính SS(những tên lính phụ trách quản lý người tù) đánh đập vô cùng tàn nhẫn.

Sau một thời gian ngắn ở trong trại tập trung với một hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt, Victor nhận ra một điều rằng: “Các cuốn sách giáo khoa đều nói dối”. Sức chịu đựng của con người ta đôi khi vượt ra ngoài tất cả những giới hạn sống được ghi chép lại trong sách. Họ có thể giữ tỉnh táo khi không ngủ trong nhiều giờ liền, họ cũng có thể không tắm trong nhiều ngày và để mặc cho những vết thương cáu bẩn lại mà chẳng hề bị nhiễm trùng. Victor đã nói rằng:

Đúng, con người có thể thích nghi với mọi hoàn cảnh, nhưng đừng hỏi chúng tôi bằng cách nào.

Giai đoạn đầu ở trong Auschwitz, những người tù không thể chứng kiến được cảnh những người khác bị đánh đập dã man, anh ta quay mặt đi. Song nhiều ngày sau phải đối mặt với cảnh bạo lực như vậy, người tù đã thay đổi.

Cảnh những người đau đớn, hấp hối và chết đã trở nên quá quen thuộc với anh suốt nhiều tuần ở trại; chúng không còn có thể khiến anh xúc động được nữa.

Cuộc sống trong trại tập trung luôn khiến cho người tù ở trạng thái căng thẳng về tâm lý bởi họ luôn phải suy nghĩ làm cách nào để tiếp tục duy trì sự sinh tồn của bản thân. Người ta thường nói trong giấc mơ, những mong ước và khát khao sẽ trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Song khi tỉnh dậy, người tù chắc chắn sẽ cảm thấy hoảng loạn bởi sự khác biệt quá lớn giữa thực tại và giấc mộng.

Tôi sẽ không bao giờ quên được việc mình bị đánh thức giữa đêm bởi tiếng ú ớ của người bạn tù nằm bên, rõ ràng anh ấy đang trong cơn ác mộng. Bởi luôn thấy thương cảm cho những người phải chịu đựng những cơn ác mộng hay mê sảng nên tôi đã muốn đánh thức người đàn ông tội nghiệp đó dậy. Tôi đưa tay định lay anh ấy dậy nhưng bỗng nhiên tôi rụt tay lại, lo sợ điều mình sắp làm. Vào lúc đó, tôi nhận thức rõ một sự thật rằng không có giấc mơ nào, cho dù có ghê sợ đến mấy, lại đáng sợ bằng thực tế ở trại, vốn đang bủa vây chúng tôi; vậy mà tôi lại định đưa anh ấy trở lại với thực tế còn khủng khiếp hơn cả cơn ác mộng kia.


Phần hai: Sơ lược về liệu pháp ý nghĩa

Những người tù luôn phải đối mặt với sự tuyệt vọng bởi khung cảnh tàn khốc trong trại tập trung đã khiến họ dần mất đi lý do để tồn tại. Là một bác sĩ tâm lý, Victor đã giúp những tù nhân đó tìm lại được ý nghĩa cho sự tồn tại của mình. Và cách mà ông giúp những người tù đó, sau này được ông nghiên cứu và phát triển thành “liệu pháp ý nghĩa”. Có thể nói, “liệu pháp ý nghĩa” là đứa con tinh thần mà Victor đã phải đánh đổi bằng những năm tháng khổ sai trong trại tập trung chết chóc Auschwitz.

Liệu pháp ý nghĩa có nhiệm vụ trợ giúp bệnh nhân tìm thấy “ý nghĩa” trong cuộc sống của họ. Bởi vì liệu pháp ý nghĩa khiến người bệnh nhận ra được ý nghĩa bị che khuất trong sự tồn tại của mình, cho nên nó là một quá trình phân tích.”


Victor có nhắc đến một hiện tượng tâm lý phổ biến mà có thể điều trị bằng liệu pháp ý nghĩa là “Trạng thái tồn tại chân không”. Đó là trạng thái mà con người sẽ rơi vào khi họ sống mà không có bất cứ một mục đích nào. Song mỗi tình huống trong đời tương đương với một thử thách mà bản thân người đó phải đối mặt và đưa ra lời giải cho chính mình. Cuộc sống luôn đặt câu hỏi cho con người và bắt họ đi tìm lời đáp cho câu hỏi đó. Chính bởi vậy, “Liệu pháp ý nghĩa” coi trách nhiệm là điều cần thiết cho sự tồn tại của con người.

Liệu pháp ý nghĩa cố gắng giúp bệnh nhân nhận ra trách nhiệm của bản thân để người đó hiểu được trách nhiệm của mình là để thực thi nhiệm vụ nào, hướng tới mục tiêu gì, hoặc dành cho ai. Đó là lý do tại sao các chuyên gia liệu pháp ý nghĩa ít áp đặt các xét đoán của mình lên bệnh nhân, bởi vì họ không bao giờ cho phép bệnh nhân đẩy trách nhiệm về phía bác sĩ.”

Theo liệu pháp này, con người có ba cách để tìm ra ý nghĩa cuộc sống của mình:

1, Tạo ra một công việc hoặc thực hiện một điều gì đó.

2, Trải nghiệm điều gì đó hoặc gặp gỡ một ai đó.

3, Thái độ chúng ta đối mặt với đau khổ.

Ngoài ra, tác giả cũng đưa ra những ý nghĩa của tình yêu thương và sự đau khổ để giúp cho những người bệnh có thể thực sự tìm ra được ý nghĩa của cuộc sống.

Tình yêu là cách duy nhất để thấu hiểu đến tận cùng một con người. Không ai có thể nhận thức đầy đủ về bản chất của con người trừ khi đã đem lòng yêu thương người ấy.

Bằng cách chấp nhận đau khổ, xem đó như là thử thách cần vượt qua, cuộc sống sẽ có ý nghĩa đến tận phút cuối cùng, và nó vẫn giữ nguyên ý nghĩa này cho đến khi mọi sự kết thúc. Nói cách khác, ý nghĩa cuộc sống là một ý nghĩa vô điều kiện, bởi vì nó bao hàm luôn cả ý nghĩa về nỗi đau không thể tránh được.

Lời kết

Cuốn sách Đi tìm lẽ sống là một cuốn sách đáng đọc giúp nâng đỡ tinh thần con người. Victor E. Frankl đã cho chúng ta thấy rằng cho dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, con người ta cũng có thể lạc quan mà sống. Thái độ chúng ta nhìn cuộc sống sẽ quyết định toàn bộ cuộc đời của chúng ta. Một con người có thể trải qua cuộc sống trong trại tập chung Đức quốc xã mà vẫn có thể lạc quan để tiếp tục sống thì cớ sao chúng ta không thể?

Nếu một người không thể thay đổi hoàn cảnh khiến mình đau khổ thì người đó vẫn có thể chọn cho mình một thái độ sống.


Tác giả: Lệ DuyênBookademy

--------------------------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link:https://www.facebook.com/bookademy.vn

Tham gia cộng đồng Bookademy để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị, đăng ký CTV tại link:https://goo.gl/forms/7pGl3eYeudJ3jXIE3  

 

 

Xem thêm

Khuyến học’ là một cuốn sách rất hay do Fukuzawa Yukichi viết trong những năm 1872-1876. Nó được đánh giá là tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến công chúng Nhật Bản. Và cho dù đã hơn một thế kỷ từ khi được ra mắt, “Khuyến học” vẫn luôn chiếm vị trí trang trọng trên kệ sách gia đình của người Nhật bản. Được phát hành hơn 3 triệu bản ngay lần đầu tiên và tái bản 76 lần, ngày nay, ‘Khuyến học’ vẫn là tài liệu đầy chất thời sự cho những đất nước, những con người muốn đạt đến văn minh bằng giáo dục. Thật dễ hiểu tại sao đây lại là cuốn sách mà “ông vua café” – Đặng Lê Nguyên Vũ, chủ tịch tập đoàn café Trung Nguyên khuyên thế hệ trẻ Việt Nam nên đọc. Còn nói về Fukuzawa Yukichi, khi nhắc đến ông, không người Nhật nào lại không biết. Họ nói về ông như bậc “khai quốc công thần” của nước Nhật hiện đại. Ông được ví như “Voltaire (Vôn tê – triết gia, đại thi hào người Pháp) của Nhật Bản” hình ảnh ông được in trên tờ tiền có mệnh giá cao nhất ở Nhật, tờ 10.000 yên. Đọc ‘Khuyến học’ ta có cảm giác mình đang được sống trong đất nước Nhật Bản cuối thế kỷ 19. Tác giả đã không ngần ngại đưa vào trang sách của mình những “ung nhọt” của xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ. Chế độ thì cổ hủ, quan chức thì tham nhũng, người dân thì ăn chơi sa đọa còn học sinh sinh viên thì lười biếng… Cuốn sách có 17 chương, đề cập đến những vấn đề mà xã hội Nhật đang phải đối mặt và phải vượt qua để có thể trở thành cường quốc, từ cách học làm người cho đến các vấn đề dân tộc, lợi ích của giáo dục, khoa học, quyền tự do bình đẳng và quan hệ giữa chính quyền với người dân, cách tiếp thu văn minh phương Tây. Cuốn sách không phải là kim chỉ nam, càng không phải là lời giải đáp, hay các phương án cho những vấn đề của xã hội Việt Nam hiện nay. Nó có lẽ chỉ đơn giản là một cách thức khơi gợi suy nghĩ, tự suy nghĩ. Để mỗi người nhất là các bạn trẻ tự theo đuổi những mục tiêu cuộc đời mình, nhằm không chỉ đem lại tương lai tốt đẹp cho bản thân, mà hơn thế, từ sự chuyển mình của nước Nhật, hy vọng mỗi người Việt trẻ sẽ nghĩ đến tương lai đất nước mình. “Trời không sinh ra người đứng trên người cũng không sinh ra người đứng dưới người. Tất cả do sự học mà ra”. Đây được xem là tuyên ngôn của Fukuzawa Yukichi khi nói về tầm quan trọng của học vấn. Ông viết : “…cuộc sống con người luôn có những khoảng cách một trời một vực. Đó là khoảng cách giữa người thông minh và kẻ đần độn,…. Sự khác nhau giữa người thông minh và kẻ đần độn là ở chỗ có học hay vô học mà thôi”. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, giới trẻ đang không hiểu được tầm quan trọng của của học vấn, và vì không coi trọng sự học nên nhiều bạn trẻ học hành chểnh mảng, phung phí thời gian, tiền bạc, sức khỏe vào các cuộc chơi, vào các tệ nạn xã hội. Có thể nói vấn đề mà giới trẻ của Việt Nam mắc phải chính là vấn đề của giới trẻ Nhật Bản hàng trăm năm trước. Vậy họ đã làm gì để vượt qua thực trạng đó? Tất cả gói gọn trong một chữ: “học”, nhưng học những gì? Ban đầu, nên học từ những môn cơ bản nhất như học soạn thảo thư từ, học cách cân đo đong đếm, học các môn Đạo đức, học cách cư xử, cách giao tiếp, cách sinh hoạt giữa người với người rồi mới đến các môn Địa lý, Lịch sử, Vật Lý, vv…Học trên trường không đủ thì học qua sách báo… Việc học phải đi đôi với thực hành chứ không dừng lại ở lý thuyết suông. Bản chất của việc học phụ thuộc vào khả năng ứng dụng. Có học vấn mà không ứng dụng được vào thực tế thì chẳng khác gì vô học. Một điểm rất hay ở Yukichi là ông đề cao “học thực”, nghĩa là học để lấy kiến thức, phát triển bản thân chứ không phải vì bằng cấp, địa vị, tiền bạc… Một quan điểm trái ngược với Nho giáo khi ông cho rằng giáo dục Nho giáo “chỉ đào tạo ra một giai cấp trí thức học ra để làm quan chứ không phải để giúp đời”. Ông kịch liệt phê phán những người “còn trẻ mà lại muốn lựa chọn công việc an nhàn” mà quên mất rằng cái gì càng khó đạt được thì càng quý trọng, càng khó kiếm thì càng có giá trị cao. Xét thấy sinh viên Việt Nam ngày nay có xu hướng tránh né việc khó, tìm việc dễ. Môn nào khó thì bỏ, những môn dễ thì lại hời hợt, chủ quan. Cứ tiếp diễn sẽ trở thành xu hướng, trào lưu trong xã hội và cuối cùng thì đáp ứng được trình độ các công ty trong nước còn khó huống chi là theo kịp sinh viên toàn cầu về mặt kiến thức. Đây cũng có lẽ là lý do tại sao mà tỷ lệ sinh viên nước ta ra trường làm trái nghề và thất nghiệp luôn rất cao. Thay đổi thực tế này không khó. Chỉ cần thế hệ trẻ luôn giữ được tinh thần quyết tâm, không ngại khó, suy nghĩ khách quan mọi sự vật, ngày đêm rèn dũa và tích lũy thực lực bản thân. Cứ như vậy chắc chắn sẽ có ngày đạt được thành công. Như đã biết, văn hóa Việt Nam và Nhật Bản có khá nhiều sự tương đồng cả trong quá khứ và hiện tại nên việc áp dụng những lời khuyên của Yukichi vào Việt Nam thì rất phù hợp. Ngày xưa cả hai nước đều bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, còn ngày nay là văn hóa phương Tây. Nhận thức được điều đó, ông khuyên thế hệ trẻ cần rèn luyện năng lực phán đoán, năng lực lựa chọn: tin cái gì và nghi ngờ cái gì? Có những tập quán tốt đẹp ở phương Tây nhưng khi về Việt Nam chưa chắc đã phù hợp. Văn minh phương Tây đúng là hơn hẳn Việt Nam, nhưng không có nghĩa là cái gì của nó cũng hoàn hảo. Văn minh phương Tây cũng đầy rẫy khuyết điểm và ngược lại không phải phong tục nào của Việt Nam cũng cổ hủ, kém cỏi. Vì vậy, việc phân biệt cái gì tốt cái gì xấu lại càng trở nên quan trọng. Tóm lại, Khuyến học được đánh giá là cuốn sách phù hợp nhất đối với những vấn đề mà xã hội Việt Nam và cách riêng là thế hệ trẻ đang gặp phải. Tuy mới ra mắt ở VN vào quý ii năm 2014 nhưng nó đang được tầng lớp trí thức trẻ của Việt Nam sử dụng rất nhiều, thậm chí “Vua café” Đặng Lê Nguyên Vũ còn làm chương trình in tặng cuốn sách này cho các bạn trẻ. Từ đó có thể thấy cuốn sách này được đánh giá cao như thế nào. Vấn đề ở đây chỉ là làm sao để áp dụng những lời khuyên của Yukichi cho hợp lý mà thôi.

“Liệu pháp ý nghĩa có nhiệm vụ trợ giúp bệnh nhân tìm thấy “ý nghĩa” trong cuộc sống của họ. Bởi vì liệu pháp ý nghĩa khiến người bệnh nhận ra được ý nghĩa bị che khuất trong sự tồn tại của mình, cho nên nó là một quá trình phân tích.”

Theo liệu pháp này, con người có ba cách để tìm ra ý nghĩa cuộc sống của mình. Một là, tạo ra một công việc hoặc thực hiện một việc gì đó. Hai là trải nghiệm điều gì đó hoặc gặp gỡ một ai đó. Và cuối cùng là thái độ chúng ta đối mặt với đau khổ. Vì vậy, con người nên chủ động đưa ra các lựa chọn phù hợp với hoàn cảnh của bản thân thay vì thụ động chấp nhận những gì xảy ra với mình. Qua việc đưa ra quyết định, chúng ta khẳng định sự tự do ý chí của chính mình, từ đó tạo động lực để vượt qua những giới hạn của môi trường và hoàn cảnh sống để tìm thấy trân giá trị đích thực của cuộc đời mình. 

Logotherapy là một liệu pháp tâm lý trừu tượng, đòi hỏi sự nghiền ngẫm và tập trung để có thể thấu hiểu toàn bộ. Vậy nên, nếu muốn tìm hiểu sâu hơn về phương pháp này và có thêm một góc nhìn khác về ý nghĩa cuộc sống, bạn hãy đến với “Đi tìm lẽ sống”.