Con người trong cuộc sống hiện đại này, tiếp cận cuộc sống qua nhiều phương tiện. Nhưng cũng chính trong cuộc sống ấy,càng ngày càng nhiều người loay hoay với câu hỏi Mình sinh ra để làm gì? Phát triển là gì? Như thế nào là phát triển? Chẳng phải chúng ta đang phá hủy nhiều hơn và đòi hỏi nhiều hơn những thứ thật sự cần thiết sao? Cái gọi là “lạc hậu” giờ cũng cho thấy ẩn trong nó là nhiều điều bền vững. Quan trọng là chúng ta nhận thức được điều gì là bền vững. Những quyển sách hay về nông nghiệp này không chỉ mang đến cho người đọc những kiến thức về nông nghiệp mà còn gửi gắm các triết lý về cuộc sống, con người và xã hội.

Cuộc Cách Mạng Một – Cọng – Rơm


 “Cuộc Cách Mạng Một – Cọng – Rơm” là cuốn sách nổi tiếng của Mansanobu Fukuoka, người khai sinh nông nghiệp tự nhiên của Nhật Bản và thế giới. Cuốn sách (đã được dịch ra 25 thứ tiếng) không chỉ là sự trải nghiệm về cách thức nuôi trồng các sản phẩm nông nghiệp trong sự tương tác hài hòa với môi trường tự nhiên mà còn đem đến cho người đọc những suy tưởng thú vị về triết học, về ăn uống, về y học và cuộc sống.

Có thể gọi ông Masanobu Fukuoka, tác giả cuốn sách, là người nông dân vĩ đại nhất hành tinh cũng không có gì là lạm dụng từ ngữ. Ông là người đạt đến cảnh giới vô vi trong nông nghiệp và là vị sư tổ của nông nghiệp tự nhiên.

Nhưng bạn không nên để tựa đề cuốn sách đánh lừa. “Cuộc cách mạng một – cọng – rơm”, nhưng chẳng có “cuộc cách mạng” nào ở đây cả. Cuốn sách chỉ là những ghi chép của một người làm nông khiêm nhường rón rén trước thiên nhiên vườn ruộng, như thể mỗi một từ được viết ra tác giả đều sợ làm tổn thương đất đai cây cỏ.

Bạn cũng sẽ thất vọng nếu có ý định tìm trong cuốn sách này những tri thức về nông nghiệp, dù là nông nghiệp hữu cơ hay nông nghiệp tự nhiên. Bởi vì đối với ông Fukuoka, tri thức là hữu hạn, còn thiên nhiên cây cối là vô cùng, cái hữu hạn không thể thâu tóm được cái vô cùng.

Cuốn sách cũng không nhằm góp phần làm đa dạng hóa kiến thức của bạn về thiên nhiên và cuộc sống. Bạn sẽ thấy tác giả của nó không hề có ý định như vậy.

Trong kho tàng sách vở của nhân loại, trừ cuốn Pháp bảo đàn kinh của Lục tổ thiền tông Huệ Năng, hiếm có cuốn sách nào như cuốn sách này, khi mà tác giả không hướng người đọc theo tư tưởng và quan niệm của người viết sách mà hướng người đọc vào chính bản thân họ trong mối quan hệ tương tác với môi trường sinh ra và nuôi dưỡng họ.

Viết về nông nghiệp nhưng ông Fukuoka không để người đọc dính mắc vào các kiến thức trồng trọt và chăn nuôi, cũng không dính mắc vào chính cuốn sách của ông. Người ta bảo phương pháp Fukuoka là thiền trong nông nghiệp là vì vậy.

Đọc cuốn sách này và gấp nó lại, bạn sẽ không còn nghĩ ông Fukuoka đã viết những gì, nhưng bạn sẽ nhận ra vô số những điều mà trước đây do những tri thức học ở sách vở, trong trường lớp đã biến thành định kiến trong đầu bạn khiến cho bạn không nhận ra. Bạn sẽ nhìn cái cây không phải là giống thực vật vô tri được mô tả trong sách trồng trọt mà là cái cây có tâm hồn. Bạn sẽ thú vị nhớ lại, trong câu chuyện cổ tích Một người mẹ, nhà văn Andersen đã từng bảo mỗi một cái cây đều có một số phận, mỗi cái cây đều có một trái tim. Và bạn sẽ hiểu vì sao ông Fukuoka lại nói chỉ có những đứa trẻ mới nhìn được thiên nhiên như thiên nhiên vốn có.

Gieo Mầm Trên Sa Mạc


 “Chẳng hề có tốt hay xấu trong số những dạng sống trên trái đất này. Mỗi giống loài đều có vai trò của nó, đều cần thiết và có giá trị ngang nhau.”

 

“Bước đầu tiên chúng ta phải thực hiện trong việc chống lại sa mạc hóa không phải là bẻ hướng dòng chảy của các con sông, mà là khiến cho mưa lại rơi xuống, việc này liên quan tới tái lập thảm thực vật.”

“Nước mà các sinh vật không còn sinh sống trong đó được nữa thì không còn thực là nước. Đất mà không có cỏ, thì mặc dầu có được gọi là đất trồng nó cũng không phải thực là đất trồng. Đất mà không có cỏ sẽ đánh mất sự kết nối của nó với nước và trở nên khô rang.”

“Một cái cây chẳng thể mọc lên một mình. Chúng ta cần trồng những cây cao, cây cỡ vừa, những cây bụi và cây dưới tán sinh sống cùng với nhau. Một khi hệ thực vật đa loài được tái tạo thì mưa sẽ bắt đầu rơi trở lại.”

Con Đường Thoát Hạn


Nhắc đến Israel, người ta sẽ nghĩ ngay đến tinh thần “khởi nghiệp” của những người dân Do Thái bất diệt, bền bỉ. Dù ngoại cảnh có hỗn loạn đến đâu, dù thiên nhiên không ưu đãi cho họ nhiều điều kiện thuận lợi, Israel vẫn vươn lên mạnh mẽ qua biết bao hành trình khó khăn, khắc nghiệt từ những ngày đầu phục quốc cho đến khi xây dựng đời sống xã hội. Câu chuyện về “Quốc gia khởi nghiệp” Israel lại được kể tiếp trong những trang văn giản dị chứa đựng những thông điệp lớn lao trong tác phẩm “Con đường thoát hạn” – một anh hùng ca về “thung lũng Silicon” của thế giới.

Không giống như Việt Nam, Israel không sở hữu nguồn tài nguyên nước dồi dào và hệ thống sông ngòi, kênh rạch phong phú – mà ngược lại, có tới 60% diện tích là hoang mạc, lại bị bao vây ba bề bốn bên bởi những quốc gia thù địch. Thế nhưng, người Israel đã tìm ra cách tự “sản xuất” ra nước thông qua những biện pháp sáng tạo và liều lĩnh. Đó là Nước sạch được khử mặn từ nước biển, là nước lợ đã qua một hệ thống lọc phức tạp, thậm chí là nước thải sinh hoạt (nước cống) được xử lý tinh vi để có thể dùng tưới tiêu cho nông nghiệp hay cho những mục đích sinh hoạt thông thường khác… Năm 2013, người Israel đã tuyên bố : nguồn nước của họ không còn phụ thuộc vào thiên nhiên nữa ! Nước chính là cứu cánh, là phép màu mở ra cánh cửa nông nghiệp, kinh tế, ngoại giao cho Israel. Israel hiện sản xuất nước dư thừa cho nhu cầu nội tại và còn xuất khẩu đều đặn 24/7 sang cho các nước láng giềng, Palestine và Jordan, là vũ khí hòa bình của Israel cho tình trạng đối đầu Iran-Israel, Israel-Trung Quốc và một số các quốc gia khác, trở thành một « ngành kinh doanh toàn cầu », đòn bẩy cho kinh tế Israel phát triển.

Bằng những nghiên cứu tỉ mỉ và với hàng trăm cuộc phỏng vấn, Siegel đã mô tả sinh động cách mà Israel đã vượt qua các cuộc khủng hoảng nước của riêng mình, biến bất lợi thành lợi thế, đồng thời hỗ trợ các quốc gia khác trong việc xử lý và bảo tồn nguồn nước. Với 12 chương sách được bố cục một cách khoa học, cuốn sách kể về cả một lịch sử và hành trình thần kỳ của Israel trong hành trình chinh phục thiên nhiên, mang đến cho bạn những góc nhìn bao quát, một tư duy nhất quán, là kim chỉ nam về một nền quản trị nước đầy trí tuệ.

Cũng như lời của Shimon Tal, nguyên chủ nhiệm Ủy ban Nước Israel đã nói: “Cách thức quản lý nước của một quốc gia nói lên nhiều điều về quốc gia đó.”, đây là câu chuyện không chỉ dành cho những người nghiên cứu về thủy lợi và nông nghiệp, nó còn là câu chuyện dành cho tất cả những người quan tâm về việc kiến tạo một tương lai phát triển và bền vững cho đất nước.

Nguồn:  https://vnwriter.net/

------------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link:https://www.facebook.com/bookademy.vn

Tham gia cộng đồng Bookademy để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị, đăng ký CTV tại link: https://goo.gl/forms/7pGl3eYeudJ3jXIE3

 

Xem thêm

Nối tiếp nguyên lý của "Cuộc cách mạng một cọng rơm", lão nông vĩ đại Masanobu Fukuoka đã đi khắp nơi trên thế giới, mang theo hạt giống bọc trong đất sét, với một niềm tin "Làm nông tự nhiên, phục hồi sự sống trên phạm vi toàn cầu và giải quyết căn bản vấn đề an ninh lương thực". Cuốn sách đã đặt ra vấn đề xét lại tri thức của con người về thế giới tự nhiên, về côn trùng, về gen và tiến hóa Ở tác phẩm "Cuộc cách mạng một cọng rơm", ông tập trung vào nguyên lý làm nông không can thiệp (mà ông gọi là "làm nông vô vi"), còn ở tác phẩm “Gieo mầm trong sa mạc”, ông lại bàn đến một vấn đề rộng lớn hơn, bao quát trên toàn thế giới, đó là làm cách nào để lập lại thảm thực vật cho những sa mạc bao la trên trái đất. Và ông đã đi đến nhiều sa mạc để thực hành và kiểm nghiệm những nguyên lý của mình. “Khi nào khu vườn địa đàng ấy mới tưng bừng trở lại?... Tôi nghĩ, chúng ta nên trộn tất cả các giống loài lại với nhau, đem rải chúng khắp nơi trên thế giới, không cần bận tâm tới sự phân bố bất đồng đều của chúng. Như vậy chúng ta sẽ cung cấp cho tự nhiên nguyên một bộ gen, để nó thiết lập lại cân bằng với những điều kiện hiện tại. Tôi gọi việc này là sáng thế lần thứ hai”. “Bước đầu tiên chúng ta phải thực hiện trong việc chống lại sa mạc hóa không phải là bẻ hướng dòng chảy của các con sông, mà là khiến cho mưa lại rơi xuống, việc này liên quan tới tái lập thảm thực vật." “Nước mà các sinh vật không còn sinh sống trong đó được nữa thì không còn thực là nước. Đất mà không có cỏ, thì mặc dầu có được gọi là đất trồng nó cũng không phải thực là đất trồng. Đất mà không có cỏ sẽ đánh mất sự kết nối của nó với nước và trở nên khô rang.” “Một cái cây chẳng thể mọc lên một mình. Chúng ta cần trồng những cây cao, cây cỡ vừa, những cây bụi và cây dưới tán sinh sống cùng với nhau. Một khi hệ thực vật đa loài được tái tạo thì mưa sẽ bắt đầu rơi trở lại."

Được định vị là một quyển sách viết về nông nghiệp, một quyển ghi chép của Masanobu Fukuoka về những đúc kết trong quá trình làm nông của mình, nhưng thực chất sâu thẳm bên trong, “Cuộc cách mạng một cọng rơm” bàn đến những vấn đề của con người, của xã hội hiện đại. Bắt đầu từ câu chuyện kể về trải nghiệm của một thanh niên học ngành nông nghiệp, cuốn sách Cuộc cách mạng một cọng rơm dẫn người đọc đi qua xuyên suốt hành trình khám phá cội nguồn của tự nhiên. Từng bước một, bằng câu chuyện của một người nông dân sống nhờ thiên nhiên và thờ phụng thiên nhiên, tác giả dắt chúng ta quay về với những niềm vui sơ khai, giản đơn từ cọng rơm rải trên đồng ruộng, cơ bản như hơi thở ta thở mỗi ngày. Bằng cọng rơm, ta biết cách để đất đai được yên, không cày xới, không bón phân hóa học, không phun thuốc trừ sâu. Chỉ bằng rơm, và để yên cho thiên nhiên tự lựa chọn, cây cối sẽ mọc, hoa sẽ đơm, trái sẽ kết như nó đã từng cách đây hàng triệu năm, thuở con người và nền khoa học chưa xuất hiện. Cọng rơm là bước tiến vĩ đại đưa chúng ta quay về với thiên nhiên, cũng như hơi thở dắt ta về với chính bản thân mình. Rũ bỏ những định kiến, những ảo tưởng, những sân si mà chính chúng ta khoác lên vai mình.

Cuốn sách triết học này của Fukuoka có chỗ rất đặc biệt. Nó nói những điều trọng đại, có thể là trọng đại nhất cho mãi mãi, nhưng cũng lại là cụ thể, gần gũi, thiết thực cho ngay hôm nay; nó bàn với chúng ta về những mối âu lo từng ngày của chúng ta ngay bây giờ. Các bạn đang chuẩn bị tái bản sách Cuộc cách mạng một cọng rơm bảo tôi viết thêm mấy lời giới thiệu. Tôi rất phân vân, bởi đối với nghề nông tôi là người ngoại đạo, có biết được gì mấy đâu. Song rồi nghĩ lại, có hai điều khiến tôi quyết định cầm bút. Một là: Cuộc cách mạng một cọng rơm không chỉ nói chuyện kỹ thuật canh tác nông nghiệp, cũng không chỉ bàn chuyện thức ăn và cách ăn của con người..., dù về những điều đó tác giả đã nói tuyệt hay. Cuốn sách nhỏ này hóa ra là một tác phẩm lớn của một bậc hiền triết trong thời hiện đại, giữa thế giới hết sức chộn rộn và cực kỳ lộn xộn ngày nay. Masanobu Fukuoka chạm đến vấn đề lớn nhất và sâu xa nhất của con người từ khi trở thành xã hội, là mối quan hệ của con người với tự nhiên. Từ những mẩu chuyện rất nhỏ, rất gần, rất cụ thể, thiết thân hằng ngày đối với mỗi người, từ “một cọng rơm’’ nhỏ nhoi mà ông trân trọng nhặt lên và ân cần trả lại cho đất, ông rà soát lại mối quan hệ sinh tồn, sinh tử đó, nhỏ nhẹ, từ tốn, nhưng đọc kỹ mà xem, kỳ thực rất ráo riết, rất quyết liệt và nghiêm khắc, ông chỉ ra con người đã làm tha hóa, suy đồi mối quan hệ đó như thế nào, đặc biệt ngày nay, ngày càng trở nên kiêu ngạo trước tự nhiên, và đang tự dẫn mình đến hủy diệt. Không quá chút nào khi Fukuoka gọi những điều ông nghĩ, làm và nói với chúng ta là một “cuộc cách mạng’’. Cần lắng nghe ông, chăm chú suy nghĩ, nghĩ lại về những điều mỗi chúng ta đã từng nghĩ và tin, từng cho là đã xong rồi, nghĩ lại, nghĩ lại nữa, tự mình tìm một lối ra cho chính mình trong mớ bòng bong rối rít đang vây hãm chúng ta hôm nay. Và tất nhiên không chỉ để làm nông một cách khác, ăn uống một cách khác, mà là sống một cách khác. Fukuoka nghiêm trang đặt câu hỏi: thế nào là tiến bộ, thế nào là hiện đại, và căn bản hơn nữa: thế nào là hạnh phúc. Cuốn sách này cũng thật thú vị, bởi nó nói về hạnh phúc, điều ta tưởng đã hiểu, mà có khi hóa ra nhầm. Còn một điều thứ hai khiến tôi muốn cầm bút nhân cuốn sách này: Fukuoka quá gần, quá giống với Tây Nguyên “của tôi’’, Tây Nguyên mà tôi gắn bó và đầy ưu tư. Bốn mươi mốt năm qua từ 1975, với sự tác động của ta, Tây Nguyên đã biến đổi hoàn toàn và theo hướng chẳng hề tốt chút nào, thậm chí rất đáng báo động. Rừng tự nhiên bị phá gần sạch. Tài nguyên mọi mặt cạn kiệt. Nước ở Tây Nguyên, vốn có ý nghĩa chi phối đối với toàn miền Nam Đông Dương, đang ngày càng thiếu nghiêm trọng. Trong 40 năm dân số Tây Nguyên đã tăng cơ học lên hơn 5 lần rưỡi, khiến người nơi khác đến, chủ yếu là người Kinh, chiếm 80% dân cư, người dân tộc tại chỗ chỉ còn 20%... Trong một tương quan như vậy, theo một thói quen kỳ quặc nhưng lại được coi là đương nhiên, luôn có khẩu hiệu “phấn đấu đưa miền núi tiến kịp miền xuôi’’, “người dân tộc thiểu số tiến kịp người Kinh’’... Gắn bó với Tây Nguyên đã hơn 60 năm, tôi cho rằng có lẽ nên nghĩ và nói ngược lại: muốn khôi phục Tây Nguyên, muốn cứu Tây Nguyên hiện nay, người Kinh, ít ra và trước hết người Kinh ở Tây Nguyên, cần cố hết sức phấn đấu tiến cho bằng kịp người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Trong cách họ nghĩ, cách họ sống với tự nhiên, cách họ làm nông nghiệp, cách hiểu ý nghĩa của cuộc đời và hạnh phúc làm người. Thật vậy, và thật kinh ngạc, người Tây Nguyên, ít ra là cho đến năm 1975, làm nông đúng hệt như Fukuoka. Họ tuyệt đối không cày đất, gần như không nhổ cỏ, tuyệt đối không bón phân, càng không biết đến phân hóa học, để nguyên rơm trên rẫy sau thu hoạch, không phun thuốc trừ sâu để diệt sạch hết côn trùng trên đất và rừng của mình... Họ để cho tự nhiên làm tất cả những điều cần thiết cho cây lúa, cây bắp trên rẫy cường tráng tự phát triển. Họ không “giúp’’ đất đai và cây cỏ, để không khiến chúng quen thói mà trở nên lười biếng và ngày càng suy yếu đi. Họ tin ở sức mạnh tự có của tự nhiên và kính trọng gìn giữ nó. Họ là những triết nhân của rừng. Họ là những Fukuoka của Việt Nam. Họ sống đàng hoàng, cường tráng, đầy tự tin, và thật đẹp giữa thiên nhiên cường tráng của họ. Từ sau 1975, ta đến, và kiêu ngạo một cách kỳ quặc, ta bảo họ ngu dốt, lạc hậu. Ta khinh bỉ cuộc sống ấy, cách sống ấy. Ta yêu cầu họ làm nông nghiệp hiện đại theo ta. Gọi là “cầm tay chỉ việc’’ như đối vởi trẻ con, ta bày họ cày trâu, rồi cày máy, ta bày họ đi rẫy bằng xe máy cày coi là rất tiến bộ, dạy họ khoan sâu xuống đất hằng trăm mét để hút nước ngầm coi là rất văn minh. Ta dạy họ diệt cỏ, rải phân hóa học, phun thuốc diệt hết côn trùng... Rốt cuộc, mảnh rẫy của họ không còn thể canh tác quay vòng vì người đã quá đông, bị lối canh tác hiện đại của người Kinh đánh cho kiệt quệ, mất hết sức, bạc màu, đành đem bán rẻ cho người Kinh. Còn họ thì lùi mãi vào rừng ngày càng sâu hơn, và bây giờ buộc phá rừng và chết mòn vì rừng cũng chẳng còn mấy... Làng, tế bào của cơ cấu của xã hội Tây Nguyên, tất đổ vỡ. Văn hóa cũng tất suy theo... Gần đây, tôi có được dự một hội thảo về an toàn nước ở Tây Nguyên, nước mặt và nước ngầm. Phải hội thảo, vì trên mái nhà này nước đã có nguy cơ cạn kiệt. Tôi được nghe các báo cáo thật hay, thật tài giỏi của nhiều giáo sư là chuyên gia các ngành liên quan đến nước và rừng. Họ nghĩ ra thật nhiều cách rất thông minh để giữ cho nước mưa không trôi tuột mất đi ngay trên đất bazan vốn trơn trợt mà thấm sâu xuống tầng nước ngầm, bằng cách tạo ra một hệ thống các giếng nhỏ rải rác và các đường đồng mức để giữ cho nước không trôi đi quá nhanh... Tôi thật sự cảm phục tài năng và sự tận tụy của các chuyên gia. Nhưng rồi, tôi đã nghĩ lại và phải xin lỗi mà nói với các giáo sư đấy là một sự thông thái và tài tình... hơi buồn cười! Tất cả các cơ chế phức tạp được các giáo sư công phu tạo nên đó... hóa ra là những thứ, những chức năng rừng vốn vẫn làm trước đây, chắc chắn là tinh vi, toàn diện và hiệu quả hơn trăm ngàn lần, qua hàng vạn hay hàng triệu năm sinh sôi và tồn tại của rừng. Bây giờ ta phá sạch hết rừng rồi, ta đi bắt chước rừng làm được đôi ba thứ chắc chắn là vụng về, nghèo nàn và què quặt hơn nhiều..., rồi ta vui vẻ khen nhau tài giỏi và thông minh! Vả chăng, còn có điều mà Fukuoka đã cảnh cáo: trong khi đào các giếng ‘’khôn ngoan’’ và đánh các đường đồng mức để khiến nước mưa không trôi trượt đi quá nhanh, đủ thời gian thấm xuống tầng nước ngầm, ta đã giúp cho đất, và cũng rất có thể vô tình tạo nên một thói lười biếng cho đất, khiến nó suy yếu và thụ động đi... Vậy thì làm sao đây? Khi rừng đã gần mất sạch như hiện nay, chắc con người không thể không ra tay làm công việc “giúp đỡ’’ ấy đến một mức nào đó. Song vẫn phải rất cẩn thận. Vẫn phải coi đó là một thứ nhân tạo, tức giả tạo bắt buộc cấp thời. Đừng quá làm thay tự nhiên. Cơ bản và lâu dài, vẫn phải là bằng mọi cách khôi phục lại rừng, và là rừng đa tạp nhiều tầng, nhiều lớp thực vật, như Tây Nguyên tuyệt đẹp xưa từng có, để khôi phục lại cơ chế tự nhiên tuyệt hảo của rừng. Tận tụy, chăm chỉ, kiên định. Trong 100 năm. Không thể ít hơn đâu. Phá bao giờ cũng dễ hơn làm lại. Ta đã phá gần nửa thế kỷ, làm lại mất một thế kỷ là còn quá ít. Như Fukuoka đã dành trọn cả một cuộc đời.

Cuốn sách cổ điển của Masanobu Fukuoka - "Cuộc cách mạng một cọng rơm" - được xuất bản lần đầu năm 1975, đã thu hút được người nông dân tiềm ẩn trong tôi. Không phải là một người nông dân lái chiếc máy kéo đi hàng dặm dọc theo những hàng cây ngô, đeo mặt nạ khí và găng tay cao su dài. Tôi lớn lên cùng những câu chuyện về nông trại của cha, và đồng thời tôi cũng trồng những chậu cây ở ban công hay bậu cửa sổ của căn nhà đi thuê. Công việc của cha ở nông trại đã mang tới cho ông nhiều câu chuyện thú vị dù nó rất mệt mỏi, và cơ bản thì không khi nào ngừng nghỉ, đó là lý do khiến ông tìm kiếm vận may vô định của mình với quân đội và mang theo chúng tôi cùng với ông. Tuy nhiên, khi chúng tôi trở về thăm trang trại của ông bà vào mùa hè, cũng là trang trại mà cha tôi lớn lên. Tôi khao khát nhịp điệu của các mùa, của sự sinh sôi của cây cối, của vẻ đẹp tràn đầy sức sống nơi trang trại. Là con người, chúng ta muốn kiểm soát tất cả mọi thứ khác, mỉa mai thay, đó lại là những thứ có thể vận hành tốt mà không cần tới chúng ta. Ví dụ như loài nhện, các loài cây, và sâu, tất cả chúng cố gắng để đạt tới sự cân bằng trong các cánh đồng ruộng không chất hóa học, máy móc hay phân bón. Và sự cân bằng đó vẫn cho phép người nông dân có được vụ mùa thu hoạch bằng hoặc thậm chí nhiều hơn so với thu hoạch "hiện đại" trên một sườn đồi gần một thị trấn nhỏ ở phía nam của Nhật. Suốt cuộc đời làm nông dân của mình, Fukuoka nhấn mạnh rằng các chất hóa dầu đã phá vỡ sự cân bằng tự nhiên của đất. Thay vì cố gắng để sửa chữa điều đó, họ hời hợt và gọi đó là "nông nghiệp tự nhiên". Nông nghiệp tự nhiên, khác với một nền nông nghiệp "không hiểu biết" - được hứa hẹn bởi các công ty nông nghiệp với những qui định về các kế hoạch rập khuôn và lịch trình, ở chỗ nó yêu cầu người nông dân làm việc với tự nhiên bằng nhận thức đạo đức, quan sát, kết nối và sự kiên trì.

Tại sao Cuộc cách mạng một cọng rơm - cuốn sách của một nông dân Nhật Bản (vừa đoạt hai giải tại giải Sách hay 2016) - có thể trở thành kim chỉ nam cho hành trình tìm kiếm bình yên của chúng ta? Cuốn sách Cuộc cách mạng một cọng rơm của Masanobu Fukuoka (1913-2008) được xuất bản ở Việt Nam giữa thời điểm người người, nhà nhà bàn đến vấn đề thực phẩm sạch mỗi ngày. Vô canh: lựa chọn cuối cùng Người nông dân, ngư dân đột nhiên trở thành đối tượng bị “vạch trần” các hành vi sử dụng hóa chất, lừa khách hàng trên mọi kênh truyền thông từ chính thống đến không chính thống. Ngày nào người dân cũng phải ăn và ngày nào cũng sống trong sợ hãi. Sự bất an ấy không chỉ giới hạn trong thực phẩm, vì giờ đây chúng ta luôn sợ bị lừa trong mọi phương diện. Tóm lại, ta đang có một cuộc sống thiếu hạnh phúc! Thật ra, bối cảnh ra đời của cuốn sách Cuộc cách mạng một cọng rơm tại Nhật Bản cũng không khác gì. Nước Nhật, với tham vọng trở thành một cường quốc, đã chạy theo niềm tin rằng các kỹ thuật nông nghiệp phương Tây sẽ giúp các nông trại phát triển bền vững và cung cấp nguồn lương thực lớn. Các cánh đồng tại Nhật Bản nhiều năm trở thành sân tập của nhiều loại hóa chất. Chính Masanobu Fukuoka đã dành phần đầu sự nghiệp cho việc nghiên cứu và theo đuổi những kỹ thuật ấy, đến khi sự hoài nghi đẩy ông vào khủng hoảng tinh thần để rồi cuối cùng đưa ông về với lựa chọn cuối cùng: “vô canh”. Cuộc cách mạng một cọng rơm không phải là bản báo cáo kết quả của một nghiên cứu ngắn hạn, đó là kết quả của hàng thập kỷ theo đuổi triết lý nông nghiệp tự nhiên, là câu chuyện cuộc đời của Fukuoka với những kết quả có thật. Ông đã từ bỏ công việc của một nhà khoa học trong phòng thí nghiệm, trở lại quê nhà, bắt đầu lại nghề nông giữa đất và trời và gắn bó với nông trại suốt phần đời còn lại Trong cả đời làm nông, ông không cày xới đất, không dùng phân hóa học hoặc phân ủ, không làm cỏ bằng việc cày xới hay dùng thuốc diệt cỏ, hoàn toàn không phụ thuộc vào hóa chất. Và trái lại với sự hoài nghi của hàng triệu nông dân cần mẫn đầu tắt mặt tối cải tạo đất đai và diệt sâu trừ cỏ, nông trại của ông có sản lượng vượt trội. Khủng hoảng do có quá nhiều tham vọng Sự thay đổi nhân sinh quan của một cá nhân có thể bắt đầu ngay từ việc chúng ta ăn, bằng việc ta không cố tạo ra sự “ngon” mà nhận biết cái ngon trong mọi thực phẩm. Cũng như vậy, sự thay đổi trong nông nghiệp hay cách loài người tồn tại không bắt đầu từ những thứ vĩ mô to lớn, mà bắt đầu từ việc chúng ta nhận ra sức mạnh của một cọng rơm, của một cá thể bé nhỏ. Và bởi như vậy, Cuộc cách mạng một cọng rơm có thể trở thành một cuốn sách gối đầu giường của nhiều người. Cuốn sách sẽ cho bạn hiểu như thế nào là sự bình yên, sự an toàn thực sự khi bạn là một con người. Nhưng cũng đừng hi vọng rằng đây là cuốn cẩm nang giúp bạn tạo ra một chiếc bánh kem mang tên hạnh phúc. Vì như Fukuoka đã nói: “Tự nhiên không bao giờ có thể được thấu hiểu hoặc cải tạo nhờ vào nỗ lực của con người. Cuối cùng thì, để hòa làm một với thượng đế, người ta không thể giúp người khác, ngay cả nhận sự giúp đỡ từ họ cũng không. Chúng ta chỉ có thể tự mình đi con đường của mình”.

“Con Đường Thoát Hạn” là một câu chuyện ngoạn mục của Israel, kể về việc làm thế nào một sa mạc lẻ loi biến thành một miền đất nở hoa, một ngôi nhà mến khách nhờ sự sáng tạo, đổi mới và công nghệ mang tính cách mạng. Bằng những nghiên cứu chi tiết và với hàng trăm cuộc phỏng vấn, Siegel mô tả cách mà Israel đã nỗ lực vượt qua các cuộc khủng hoảng nước của riêng mình, đồng thời hỗ trợ các quốc gia khác trong việc xử lý và bảo tồn nguồn nước. Với 12 chương sách được bố cục một cách khoa học, người đọc sẽ có cảm giác như đang được đọc một cuốn sách thể loại lịch sử hơn là một cuốn sách về kỹ thuật, mặc dù trong cuốn sách này, kỹ thuật cũng được đề cập như là một trong những yếu tố then chốt giúp Israel thoát khỏi cuộc khủng hoảng nước. Có những kỹ thuật tưởng chừng như không tưởng vào những năm 1960-1970 của thế kỷ trước được áp dụng hiệu quả như tưới nhỏ giọt, tưới dưỡng chất, khử mặn, và tái sử dụng nước thải. Bạn cũng có thể bất ngờ với việc người Israel bảo tồn nguồn nước mà chẳng tốn nhiều tiền bạc bằng cách tăng giá nước để giảm nhu cầu. Thậm chí có những thời điểm họ thiếu cả nước thải để tái sử dụng vì người dân dùng nước quá tiết kiệm. Không giống như Việt Nam, Israel không sở hữu nguồn tài nguyên nước dồi dào và hệ thống sông ngòi, kênh rạch phong phú – mà ngược lại, có tới 60% diện tích là hoang mạc, lại bị bao vây ba bề bốn bên bởi những quốc gia thù địch. Thế nhưng, người Israel đã tìm ra cách tự “sản xuất” ra nước thông qua những biện pháp sáng tạo và liều lĩnh như Nước sạch được khử mặn từ nước biển, là nước lợ đã qua một hệ thống lọc phức tạp, thậm chí là nước thải sinh hoạt (nước cống) được xử lý tinh vi để có thể dùng tưới tiêu cho nông nghiệp hay cho những mục đích sinh hoạt thông thường khác… Cuối cùng Israel vẫn vươn lên mạnh mẽ qua biết bao hành trình khó khăn, khắc nghiệt từ những ngày đầu phục quốc cho đến khi xây dựng đời sống xã hội. Cuốn sách là lời giải đáp cho câu hỏi: Làm thế nào Israel chặn được cuộc khủng hoảng tài nguyên nước, tự sản xuất nguồn nước dồi dào? Việt Nam có thể học hỏi gì? Cuốn sách hé lộ phương thức và kỹ thuật của những nhà phát minh đưa Israel bứt lên vị trí đứng đầu thế giới trong công nghệ nước tối tân nhất. Xuyên suốt cuốn sách là thông điệp nằm sâu trong tư duy của người Israel. “Nước không phải thứ miễn phí mà là nguồn tài nguyên thiêng liêng. Trẻ em nơi đây từ nhỏ đã được dạy về giá trị của việc tiết kiệm nước”.

Từ trước đến nay, ta đều biết Israel là một đất nước nhỏ với hơn 70% là sa mạc, chỉ có khoảng 2% là bề mặt nước, còn lại là đồi núi, tuy nhiên lại có nền nông nghiệp tiên tiến trên thế giới, là quốc gia duy nhất trên thế giới có thể biến sa mạc khô hạn thành đất trồng trọt cho người dân. Tất cả là nhờ có giải pháp phù hợp với vấn đề sử dụng nước trong trồng trọt, sinh hoạt. Cuốn sách ”Con đường thoát hạn” củaSeth M. Siegel sẽ giải thích vì sao Israel có thể làm được như vậy. Siegel đã phỏng vấn hàng nghìn người để có thể viết cách Israel sử dụng nguồn nước hợp lý, đồng thời còn ”xuất khẩu” nước cho các nước láng giềng. Cuốn sách mười hai chương, tuy là viết về giải pháp thoát hạn nhưng không khô cứng mà lại như một cuốn sách kể về lịch sử của Israel, khiến cho bạn đọc không cảm thấy nhàm chán mà lại thấy thú vị. Cuốn sách đưa bạn từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi sử dụng những ý tưởng tưởng chừng điên rồ nhưng hết sức thông minh để cứu lấy đất nước thoát hạn. Những đường ống dẫn nước đắt tiền, để đỡ tốn kinh phí nhà nước, được xã hội hóa nhằm thu hút sự đầu tư, đóng góp của những nhân dân trong nước và những người Do Thái định cư ở nước ngoài. Trong cuốn sách, tác giả đã gửi đến cho chúng ta nhiều bài học về cách sử dụng nước như: -Tiết kiệm nước. -Tưới nhỏ giọt cho cây. -Nước thiêng liêng, cao quý, là tài sản vô cùng quý giá của quốc gia. -Tận dụng tối đa mọi nguồn nước có thể. Cuốn sách còn là một nguồn tham khảo giá trị cho các nhà thầu, nhà đầu tư, các nhà quản lý, các cấp, các ngành, chính quyền trong việc quy hoạch, bảo vệ nguồn nước.

Ông Masanobu Fukuoka đã đến Mỹ, Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc… và đến đâu cũng đem theo hạt giống. Ông thử tìm cách gây dựng lại thảm thực vật, cố sức đưa mảnh đất về gần nhất với trạng thái tự nhiên và để tự nhiên làm nốt việc còn lại của nó. “Tôi nghĩ chúng ta nên trộn tất cả các giống loài lại với nhau, rồi đem rải chúng khắp nơi trên thế giới… Như vậy chúng ta cung cấp cho tự nhiên nguyên một bộ gien để nó thiết lập một sự cân bằng mới với những điều kiện hiện tại. Tôi gọi việc này là Sáng thế lần thứ hai”. Ông đã trộn lẫn các loại hạt giống, bọc chúng trong đất sét và đem rải chúng khắp nơi, chờ cơn mưa xuống giúp các hạt giống nảy mầm. Và khi màu xanh tươi có thể trở lại, màu xanh của lá, dù chỉ là tạm thời thôi cũng có thể bảo vệ đất khỏi bức xạ nhiệt. Và nhiệt độ của đất sẽ giảm uống, làm mát đất là bước quan trọng để đi đến thành công. “Một cái cây chẳng thể mọc lên một mình. Chúng ta cần trồng những cây cao, cây cỡ vừa, những cây bụi và cây dưới tán sinh sống cùng nhau. Một khi hệ thực vật đa loài được tái tạo, mưa sẽ bắt đầu rơi trở lại”. Trong sách, ông Fukuoka đã kể lại những chuyến đi đến Mỹ, Ấn Độ, Phi châu hay Thái Lan. Ông đi từ savan khô cằn đến các đầm lầy, đi dọc các con sông với nỗ lực tái tạo lại những mảnh đất chết, nơi những ngôi làng chuẩn bị biến mất. Theo tay ông, từng mầm sống nảy mầm cùng với đó là nụ cười của những đứa trẻ ở, cả những cụ ở nơi ông ghé qua. Chưa biết được những hạt mầm nhỏ bé ấy có làm nên “cuộc cách mạng” như những cọng rơm nhỏ nhoi từng làm trên cánh đồng ở nước Nhật của ông hay không, nhưng nó là đã nở lên hứa hẹn về sự hồi sinh của đất đai trở lại. Cuối sách, ông không quên chia sẻ cách bọc hạt giống trong đất sét và gieo chúng cùng vài kỹ thuật được xem là cơ bản để bắt đầu gây dựng một trang trại thuận tự nhiên. Đến hôm nay, không chỉ có ông Fukuoka, không chỉ có nông trại của ông mà cả một cộng đồng những người làm nông thuận tự nhiên, làm nông bền vững, những khu vườn rừng đã xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới. Những hạt mầm ông gieo và truyền cảm hứng đã bắt đầu nảy mầm. Bất chấp sự sa mạc hóa cùng sự nóng lên toàn cầu vẫn đang đe dọa con người, cuộc cách mạng đã bắt đầu nhen nhóm. Và hi vọng thực sự đến một ngày “vườn địa đàng” trái đất có thể xanh tươi trở lại.