Tiểu thuyết lãng mạn không chỉ viết về những câu chuyện tình mà chủ nghĩa lãng mạn thường gắn liền với cái Đẹp. Cái “đẹp” trong tiểu thuyết lãng mạn thường mang nhiều màu sắc lý tưởng nhưng rất mong manh, bởi lý tưởng sẽ sụp đổ theo cách này hay cách khác, nhưng đó lại là điều đáng để trân trọng và đồng cảm. Một con người đẹp, một mối tình đẹp, một cảm xúc đẹp, một lý tưởng đẹp… thậm chí là một cảnh đẹp cũng sẽ trở thành nỗi ám ảnh đối với người đọc.

Dân Việt Nam bây giờ thích đọc tiểu thuyết tình cảm, nhưng không chắc đã thích tiểu thuyết lãng mạn, bởi để đọc hiểu tiểu thuyết lãng mạn, người ta không thể đọc nhanh. Các tiểu thuyết lãng mạn không hay ở cốt truyện mà hay ở cách miêu tả và lối hành văn bay bổng. Từ sau Cách mạng tháng Tám, tiểu thuyết lãng mạn không bị bài xích thì cũng bị bỏ quên, vì người ta cho rằng nó không có ích trong xã hội mới. Trong khi đó, tiểu thuyết hiện thực được ưa chuộng trong cả chính quyền Cộng Sản và những nhà văn có xu hướng đối lập. Nhờ thế, tiểu thuyết hiện thực được người đọc biết đến nhiều, và lấy đó làm chuẩn mực cho lối viết. Đến nay, tiểu thuyết lãng mạn lại càng khó tiếp cận bởi người đọc có nhu cầu giải trí bằng những cốt truyện phức tạp với nhiều tình tiết bất ngờ hơn là tận hưởng văn phong. Tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam vốn đã ít nay lại càng ít ỏi.

Sau đây là 6 cuốn tiểu thuyết lãng mạn có văn phong tuyệt đẹp trong văn học Việt Nam hiện đại.

#1. Hồn bướm mơ tiên – Khái Hưng

“Hồn bướm mơ tiên” là tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng, đồng thời cũng là tiểu thuyết đầu tiên của Tự Lực văn đoàn.

 

 

Cuốn tiểu thuyết xoay quanh mối tình của chàng thư sinh Ngọc và cô “tiểu” tên Lan vốn dĩ một lòng hướng Phật. Thông qua cuốn tiểu thuyết đầy mâu thuẫn giữa tình yêu và con đường tôn giáo, Khái Hưng gợi cho người đọc những câu hỏi về ý nghĩa của ái tình và sự hư ảo của đời người. “Hồn bướm mơ tiên” đã đặt nền móng cho cách hành văn đẹp đẽ của ngôn ngữ Việt, vừa dân dã lại vừa hoa mỹ, vừa gần gũi lại vừa mang tính triết học.

#2. Bướm trắng – Nhất Linh

“Bướm trắng” là có thể được coi là tiểu thuyết lãng mạn cuối cùng của Nhất Linh và của Tự Lực văn đoàn. Sau cuốn tiểu thuyết này, Nhất Linh đã đeo đuổi sự nghiệp chính trị của ông. “Bướm trắng” kể về Trương, một chàng trai đầy nhiệt huyết và lý tưởng nhưng phải đương đầu với bệnh lao và đối diện với cái chết. Trương chán nản và dằn vặt những ý nghĩ mâu thuẫn giữa yêu đời – chán đời, buông xuôi – níu kéo cuộc sống, trốn chạy tình yêu – khao khát yêu đương… Thông qua “Bướm trắng”, Nhất Linh nói lên thân phận của những trí thức bế tắc giữa thời cuộc nhưng vẫn le lói hy vọng, và chính hy vọng đẹp đẽ ấy là điều mà họ có thể dựa vào để vượt qua khỏi sự đen tối của xã hội và chính bản thân mình.

 

 

#3. Chùa Đàn – Nguyễn Tuân

“Chùa Đàn” là một tuyệt phẩm của Nguyễn Tuân. “Chùa Đàn” tập trung khắc họa những hình tượng nhân vật đắm đuối với nghệ thuật, với cái đẹp mà sẵn sàng hi sinh bản thân mình.

 

 

Các nhân vật trong “Chùa Đàn”, nếu không là nhân cách thoát tục thì cũng biết rung cảm trước cái đẹp, nếu không hết mình vì tri kỷ thì cũng biết cảm khái trước quân tử. Hiếm có cây viết nào ở Việt Nam lại có được cái khí chất ấy như ở “Chùa Đàn”. Bởi thế, đọc “Chùa Đàn”, người đọc luôn có cảm giác “không thật” nhưng lại vô cùng thích thú.

#4. Dế mèn phiêu lưu ký – Tô Hoài

“Dế Mèn phiêu lưu ký” thường được biết đến như một tiểu thuyết thiếu nhi, thế nhưng, hơn cả thế, tác phẩm là đại diện cho chủ nghĩa lãng mạn. Dế Mèn mong muốn một cuộc phiêu lưu với giấc mơ anh hùng và thông qua cuộc phiêu lưu ấy, Tô Hoài khắc họa vẻ đẹp của tình bạn, sự trượng nghĩa và ước mơ thế giới đại đồng. Ngôn từ của “Dế Mèn phiêu lưu ký” trong sáng , đáng yêu, với những đoạn văn tả cảnh dân dã và sinh động.

 

 

#5. Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ – Nguyễn Ngọc Thuần

“Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ” cũng được coi là một cuốn tiểu thuyết thiếu nhi, nhưng thực ra là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn với văn phong giàu cảm xúc và những hình ảnh mờ ảo của tuổi thơ.

 

 

“Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ” kể về tuổi thơ của một câu bé sống ở nông thôn. Thông qua cái nhìn ngây thơ của cậu, đời sống làng quê và văn hóa nông thôn đều được “duy mỹ hóa” chứ không thô lậu hay gay gắt như những  tác phẩm viết về nông thôn thường thấy ở Việt Nam.

#6. Cầm thư quán – Hà Thủy Nguyên

“Cầm thư quán” xuất bản năm 2008 và bị Cục xuất bản thu hồi ngay sau đó vì những lý do chính trị. Thế nhưng, trên thực tế, đây là một cuốn tiểu thuyết “thuần lãng mạn” với sự đeo đuổi sự tuyệt mỹ của các nhân vật. Mượn bối cảnh thời vua Lê Thánh Tông, thông qua mối tình của chị em Ngọc Cầm, Ngọc Thư với những trang tài tử như đức vua Lê Thánh Tông, chàng họa sĩ, nhà sư, tác giả muốn nói lên khao khát tự do thoát khỏi vòng ràng buộc của danh lợi.

 

 

Cuốn tiểu thuyết là sự kết hợp giữa văn phong liêu trai và lối miêu tả mang nhiều màu sắc tượng trưng, ước lệ của thơ Trung Đại, đòi hỏi người đọc phải suy ngẫm điều gì ẩn đằng sau những lời văn miêu tả ấy.

Nguồn: bookhunterclub

---

Trở thành CTV viết reviews sách để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị cùng Bookademy, gửi CV (tiếng Anh hoặc Việt) về: [email protected]

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về các cuốn sách hay tại link:https://www.facebook.com/bookademy.vn

 

 

 

Xem thêm

Vẫn còn nhớ 9 năm trước, bố mẹ tặng tôi cuốn Dế Mèn phiêu lưu ký do họa sĩ Tạ Huy Long minh họa, tôi đã tròn mắt thích thú từ những trang giấy đầu tiên khi mở sách ra: một tấm bản đồ với bao nhiêu nơi chốn hay ho, chao ôi nào Vùng cỏ may, nào Đài Võ, nào Đồi Xiến Tóc, nào xóm lầy lội, nào Vương quốc kiến… cùng với một con sông rộng chảy ngang. Vào truyện, từng khung cảnh hiện lên qua lời kể của Mèn, rõ ràng như cuộn phim chạy trước mắt tôi, cảnh sắc vừa mới lạ lại vừa gần gũi, Mèn đi tới đâu là tôi mường tượng tới đấy, từ khoảng cỏ non xanh rờn, nước bạc mênh mang, đến quãng nước mênh mông không trông thấy hút bờ, rồi đồng bãi và bờ ruộng xám mờ những gốc rạ và gốc cỏ đã bị nhổ và đốt lên để sưởi. Hòa cùng thiên nhiên còn có những cu cậu đúc dế đá dế, lũ trẻ chăn trâu ngoài đồng và cả mấy cô bé học trò vừa đi chơi vừa kiếm củi sưởi. Sinh động vô cùng! Sau này, tôi đọc được trong bài phỏng vấn với NXB Kim Đồng vào năm 2012, cụ Tô Hoài chia sẻ rằng: “Tôi ở Nghĩa Đô lúc đó Hồ Tây, sông Tô Lịch, những cánh đồng lúa làng Bái Ân, làng Nghĩa Đô, làng Hồ, làng An Thái… còn là thiên đường của trẻ con… Toàn bộ không gian của Dế Mèn phiêu lưu kí chính là ở vùng ngoại ô ấy.” Hóa ra, miền đất Mèn đi qua cũng chính là miền kỷ niệm của cụ, chả trách sao cảnh vật lại có hồn đến thế. Cùng phiêu lưu, cùng trưởng thành Cái máu phiêu lưu của Mèn là nguồn năng lượng, nguồn cảm hứng xuyên suốt tập ký, từ những trang đầu, Mèn đã bắt đầu thấy nhàm bởi cái cuộc sống an nhàn nơi vùng cỏ ấu ven đầm nước, khi mà “ngày nào đêm nào, sớm và chiều nào cũng ngần ấy thứ việc, thứ chơi“, bởi thế nên chú ta mới đi, lúc đầu là đi cho biết đây biết đó – nói như Mèn kể với ông anh cả là đi du lịch cho mở mang trí óc ra, sau là đi giao lưu học hỏi, làm việc giúp ích cho đời, cho đến tận những dòng cuối cùng của tập ký, cái đam mê du ngoạn đây đó vẫn cứ hừng hực cháy, khi Mèn bàn với Trũi một cuộc đi mới, lần này là đi để xem xét phong tục, nghiên cứu văn hóa và thổ ngơi từng vùng. Dế Mèn kết thúc thiên ký sự bằng một câu văn đầy hứa hẹn: “Ước ao trong cuộc đi vô cùng hào hứng đương tới, chúng ta còn được gặp nhau.“ Tôi vốn mê truyện phiêu lưu, đọc Dế Mèn phiêu lưu ký rồi thì ngộ ra được nhiều thứ khác. Từ một tên nông nổi, ngông cuồng, cà khịa tất cả bà con trong xóm trở thành một chú dế tử tế và tốt bụng, ham mê khám phá, nghĩa hiệp ra tay giúp đỡ kẻ khác, tôi thấy Mèn rút kinh nghiệm để trưởng thành nhiều. Cái hay ở nơi Dế Mèn chính là cụ Tô Hoài chẳng phải tạc nên một bức tượng người hùng hoàn mỹ toàn diện để chinh phục độc giả, mà cụ tôi luyện Dế Mèn qua những bài học đường đời lớn nhỏ khác nhau, qua đó mà truyền tải những bài học này đến với độc giả, hoặc xa hơn, trao cho độc giả thứ động lực – dù ít hay nhiều – để thay đổi và trở nên tốt đẹp hơn, cho đời, và cho chính bản thân mình. “Đường đời nhiều bài học, mỗi bài học một kiểu, chịu nghĩ thì học được, học giỏi, bằng không thì khốn khổ như thế này đây. Cho đến bây giờ đầu tôi vẫn trọc lông lốc bởi mất hai sợi râu từ cái tích tôi được thêm bài học mới vừa đắt vừa đau đêm ấy.”

Thước phim nhuốm màu xưa cũ của 10 năm trước bất chợt ùa về, những ngày đầu hè, phượng ướm sắc đỏ khắp 1 vùng trời, mình và lũ bạn rong ruổi trên những cánh đồng còn thơm mùi rơm mới, mặc kệ cho những đôi chân trần bị đất hun bỏng rát, mặc kệ cho cái nắng đỏ gay gắt cứ đổ ầm ầm xuống đỉnh đầu, chúng mình đi lùng bắt những con dế, con giun, châu chấu, cào cào,.. Rẽ vạt cỏ, bới ngọn cây, từng con một bị túm lấy, tống vào trong lọ. Công việc ấy duy trì được một tuần thì chúng mình từ bỏ cuộc chơi, sau khi được giác ngộ bởi: “DẾ MÈN PHIÊU LƯU KÍ” – TÔ HOÀI. ———————————— Viết cho trẻ em là 1 điều vô cùng khó. Làm sao để câu chữ vừa gần gũi, lại không mất đi đặc trưng của ngôn từ văn học. Làm sao để trẻ hiểu được câu chuyện nhưng ý nghĩa của tác phẩm lại không được nông quá, mở quá, đọc một phát là bao nhiêu lớp nghĩa bị bóc ra toang hoang, trần trụi hết cả ra, thế giới tinh thần không còn chút bí mật, như cây đào, cây mai độ cuối xuân, bao nhiêu lớp hoa đã bung nở hết mức. Vậy mà bác Tô đã hoàn thành xuất sắc tất cả mọi thứ. Đọc “ Dế Mèn Phiêu Lưu Kí”, mở ra trước mắt ta là một thế giới vừa gần nhưng cũng thật xa, vừa cảm thấy câu chuyện ngờ ngợ quanh đây nhưng cũng thật mờ ảo, dẫu tưởng mình đã tận tường hết nhưng lại ứ đọng ở câu dòng nào đó… ———————————– “Chuyện thiếu nhi thôi mà. Có cần nói quá lên vậy không?”. Bạn có đang nghĩ vậy? Thực ra, cuốn sách này là truyện thiếu nhi, nhưng không chỉ dành cho thiếu nhi. Trẻ con cầm đọc cuốn sách mơ tưởng đến một thế giới mới lạ, huyền bí, còn người lớn, đọc cuốn sách, nhấm nháp lại chút phong vị đượm màu xưa cũ của một thời đã xa. Và bất cứ lí tưởng phai nhạt nào cần tô đậm, tâm hồn mỏng manh nào cần bồi đắp, đều có thể cầm tới: “ Dế Mèn Phiêu Lưu Kí”. 10 chương truyện bao quát hết cuộc phiêu lưu đầy cam go nhưng cũng đầy khí khái của Mèn. 10 chương không dài, nhưng đủ cuốn ta vào 1 cõi khác, một thế giới khác lạ đượm chút huyền bí lẫn màu sắc viễn phương. Mở quyển sách ra là cả một vương quốc thiên nhiên xanh ngát, những vùng đất mới mẻ, kì vĩ ập vào khối tưởng tượng của mình: Nước đầm trong xanh, những áng cỏ mượt rời rợi, trời đầy mây trắng, gió thu hiu hiu thổi, nước thu trong vắt, vùng Rùa Rùa, xóm Chuồn Chuồn, vùng Kiến,… Hành trình nọ lôi cuốn hành trình kia theo ma lực của ngôn từ. Dế Mèn đi tới đâu là bước chân tưởng tượng của tôi đi tới đó. Không biết tự bao giờ, Mèn là tôi mà tôi cũng là Mèn. Dế Mèn nói chuyện với Choắt, với Trũi, với Xiến Tóc, với Nhà Trò, Nhền Nhện, quốc vương Ếch Cốm,… tôi cũng như hòa quyện vào câu chuyện của họ. Những câu chuyện có khả năng đi sâu vào những miền u ẩn của tâm hồn. Và ai dám bảo những miền đó không tiềm tàng những điều chân thật nhất, đáng suy nghĩ nhất. Sai lầm là cánh cổng của khám phá, chọn thỏa mãn là chọn chết Một buổi chiều, bầu trời hoàng hôn ráng một màu u tịch, sự tàn lụi của một ngày cũng là khởi đầu của một bị kịch tang thương. Vì sự xốc nổi, ích kỉ của Mèn mà Choắt bị chị Cốc mổ chết. Cuộc đời Choắt khép lại, nhưng cánh cửa cuộc hành trình của Mèn lại được hé rộng thêm. Không cam chịu sống an nhàn, hưởng thụ, ngày nào cũng “ngần ấy thứ việc, thứ chơi”, “mới đầu còn thấy hay hay, về sau cũng nhàm dần”. Mèn ngẫm, “mặt đất này bao la, không phải chỉ có cái bờ ruộng, cái đầm nước của quê mình”, “phong cảnh non nước thì bao giờ cũng chờ đón và thúc giục ta hãy vui chân lên, hãy cố đi cho khắp thế gian, đời trai mà không biết bay nhảy, không biết đó đây thì cuộc sống sẽ nhạt nhẽo lắm”. Đất trời bao đời vẫn xanh một màu vĩnh cửu, nhưng tuổi trẻ, cuộc đời lại ngả chiều úa theo thời gian. Tại sao ta lại hoài phí thời khắc xuân thì của mình, bó hẹp và nhồi nhét nó trong cái khuôn chật chội của sự thỏa mãn? “Còn chi buồn bằng, tuổi thì trẻ, gân thì cứng, máu thì cuồn cuộn với trái tim và tấm lòng thiết tha mà đành sống theo khuôn khổ bằng phẳng: ngày hí húi bới đất làm tổ, đêm đi ăn uống và tụ tập chúng bạn nhảy múa dông dài. Tôi không muốn, cho đến lúc nhắm mắt, vẫn phải ân hận chẳng biết đằng cuối cánh đồng mênh mông kia còn những gì lạ và cuộc đời ở đấy ra sao.” Cái sống là cái vận động, vạn vật chứa sự sống không sự nào lại chịu đứng yên, ngon cây ngọn cỏ tưởng vô tri vô giác nhưng vẫn không ngừng vươn tới ánh sáng mặt trời. Chỉ có cái chết mới bất động.

Chọn cho mình một hướng đi và không để người khác làm chệch hướng Vừa nghe 2 tiếng: “Đi xa! Đi xa”, anh Hai của Mèn đã thất kinh, trễ cả hai râu mũi xuống, khuỵu chân ngã giụi và lảm nhảm: “Đi xa… chết… nó… chết”. Anh cả thì cười khẩy: “Đi không kiếm được miếng ngon thì chỉ đi mỏi chân, có động dại mới đi như thế…” rồi chửi quân “bất hiếu bất mục” là Mèn. Mèn rủ thêm một vài anh em song cũng chỉ toàn phường “giá áo túi cơm”. Bỏ ngoài tai những lời rủ rỉ, cười nhạo, sỉ nhục, quát mắng của những kẻ hèn nhát, chân đùn chí nhụt, Mèn không chút lay động, một lòng một dạ son sắt với mục tiêu phía trước. Những thiên thần chỉ có một chiếc cánh, phải ôm lấy lẫn nhau để học bay Mèn và Trũi, những chú dế đặc biệt gặp nhau trong hoàn cảnh đặc biệt. Một ngày cuối thu, hai nhân hình tìm thấy nhau bên bờ vực của cái chết, thề rằng sinh tử có nhau. Có lúc lênh đênh mười ngày trên biển lớn, bụng móp xuống vì đói, Trũi thều thào khẩn khoản chìa càng cho Mèn ăn. Mèn gạt phắt đi mắng Trũi, sau cùng hai anh em ôm nhau mà khóc. Trải qua bao cửa tử, xa nhau rồi lại gặp nhau, 2 nhân vật tri âm tri kỉ đã cùng nhau xây thành ước mơ ngao du thiên hạ, vẻ vang trở về, bốn phương đều là nhà, bốn bể đều có bạn. ———————————– Có những dòng chữ đã bị thực dân Pháp cắt bỏ, một chứng tỏ hùng hồn cho việc tác phẩm đã vượt qua 1 quyển truyện thiếu nhi bình thường, có sức mạnh kì lạ và trở thành mối đe dọa cho quân thù. Ra đời năm 1940, đến với các bạn trẻ năm 1941, dế Mèn nay đã thành dế cụ 79 tuổi, song những bài học sâu xa còn vang tận đến muôn đời sau. Năm 7 tuổi, tôi đã đón nhận nó bằng tất cả sự hồn nhiên của mình. Năm 17 tuổi, tôi gặp lại nó với sự trưởng thành nửa vời. Và sau này có ra sao, những hạt sáng huyền diệu mà bác Tô rải trong từng trang sách vẫn sẽ luôn soi sáng cho tâm hồn tôi…

Là tác phẩm văn xuôi đặc sắc và nổi tiếng nhất của Tô Hoài viết về loài vật, “Dế mèn phiêu lưu ký” không chỉ dành cho lứa tuổi thiếu nhi mà còn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của bạn đọc mọi lứa tuổi từ khi ra đời cho đến nay. Với các ấn bản viết tay, bản song ngữ và bản minh họa của tập truyện vừa mới ra mắt nhân kỷ niệm 60 năm, độc giả sẽ có dịp sống lại tuổi thơ với “Dế mèn phiêu lưu ký”. Cuốn sách gắn liền tuổi thơ “Dế mèn phiêu lưu ký” đã gắn liền với tuổi thơ của bao thế hệ. Câu chuyện về cuộc phiêu lưu của chú dế mèn quả cảm với những bài học đầy tính nhân văn đã gửi đến những câu chuyện cảm động và biết bao bài học làm người đầy ý nghĩa sâu sắc. Cả tập truyện là các chương nhỏ nhưng diễn đạt ý nghĩa lớn lao của chú dế mèn ham chơi, không làm được việc gì có ích nên đã phải vượt qua cuộc phiêu lưu mạo hiểm cùng với bạn bè chú gặp trên đường. Trên chuyến phiêu lưu đó, Dế Mèn đã gặp gỡ những người bạn, đã trải qua nhiều cung bậc cảm xúc như sự hối hận cùng Dế Choắt, sự sợ hãi khi đứng trước Xiến Tóc, sự oai hùng khi đối mặt với Bọ Ngựa. Cách miêu tả nhân vật của Tô Hoài rất đặc sắc vì thế làm cho tác phẩm sống mãi trong lòng độc giả. Tác phẩm chứa đựng nhiều bài học Tác phẩm không đơn thuần xoay quanh hành trình của một chú dế mèn mà luôn có bài học rút ra từ mỗi hành động, mỗi động tác, mỗi cảnh vật. Qua những chuyến phiêu lưu của Dế Mèn, Tô Hoài đã đến những câu chuyện cảm động và bao bài học làm người ý nghĩa. Đó là bài học về thái độ sống, nhắc nhở mọi người phải sống biết mình, biết ta, có thái độ đúng mực. Đặc biệt khi phạm lỗi lầm, ta phải biết ăn năn hối hận về những khuyết điểm của mình trong cuộc sống. Đó là bài học về lòng tốt với những người xung quanh. Lòng nhân hậu, tính thương người và thấy chuyện bất bình chẳng tha sẽ giúp cho cuộc sống tốt đẹp hơn, xóa bỏ hiềm khích mà mang mọi thứ đến gần nhau hơn. Đó là bài học về cách đánh giá người khác, đừng chỉ xem vẻ bề ngoài mà coi thường ai một cách hồ đồ và con người bên trong luôn quan trọng hơn vẻ ngoài. Đó là bài học về tình bạn chân thành, hết lòng vì nhau, đừng nên ích kỷ sống cho riêng mình. Bởi vì cuộc sống nếu không có bạn bè, thân thích thì luôn khiến người ta cảm thấy lẻ loi, cô độc. Đó là bài học về ý thức kỷ luật và sự đoàn kết, luôn gắn bó với nhau, hỗ trợ nhau để ta cùng thay đổi và trưởng thành theo thời gian lẫn những trải nghiệm từ cuộc sống. Và còn rất nhiều, rất nhiều bài học nữa được gửi gắm làm cho cuộc sống thêm niềm vui, bớt đi nỗi mệt mỏi, thêm ý nghĩa và giúp ta nhận ra được giá trị của chính mình. Từng là một anh chàng kiêu căng, hợm hĩnh, bướng bỉnh và hung hăng hay đi bắt nạt người khác, cuối cùng Dế Mèn đã thay đổi và sống tích cực hơn. Giá trị nhân văn trong tác phẩm sẽ luôn sống mãi với thời gian.

“Thưa ni cô, ni cô không ngại. Tôi xin thú thật với ni cô rằng tôi yêu ni cô, tôi yêu ngay từ lúc còn tưởng ni cô là trai. Ni cô là một người thông minh dĩnh ngộ, xinh đẹp như thế thì ai lại không yêu được… Mà lạy Phật tha tội cho, có lẽ ni cô cũng đôi lần cảm động” HBMT là tác phẩm đầu tay của Khái Hưng, đồng thời cũng là tác phẩm đầu tiên của Tự Lực văn đoàn. T thích văn học Việt Nam, và thích chủ yếu là những tác phẩm thế kỷ XX trở về trước. Đây là một tác phẩm đẹp, giàu cảm xúc, lời văn nhẹ nhàng, tinh tế. Cốt truyện không mới, chỉ giản dị về một mối tình thuần khiết nơi đất Phật, không có chi tiết ly kỳ hay gay gấn, không có mâu thuẫn gay gắt giữa ái tình – tôn giáo. Bối cảnh được xây dựng ở nơi làng quê, chùa chiền thanh tịnh và câu chuyện này cũng thế: thầm lặng, dịu dàng, khắc khoải. Tác phẩm kể về Ngọc, chàng sinh viên theo nền giáo dục phương Tây, trong kỳ nghỉ hè lên chùa đã phải lòng “chú tiểu” Lan, người dứt trần tục đến với cửa từ bi. Tình yêu ấy nảy sinh rất tự nhiên, một tình yêu trong sáng mà trắc trở. Ngọc là người bẻm mép, vui tính, Lan có phần ngây thơ, nhưng cả hai đều thông minh, biết ứng xử, những đoạn đối thoại giữa hai người vừa sắc sảo lại vừa hài hước. Họ yêu nhau như mọi người trẻ yêu nhau, có chín chắn cũng có trẻ con: Ngọc vừa canh rắn cho Lan đánh chuông vừa ngửa mặt tự phụ như vị hào hiệp, Lan mặt hầm hầm khi Ngọc chọc cho mình ghen,..v.v. từng tình tiết đáng yêu vô cùng Ngọc luôn cố tìm cách để Lan thừa nhận giả trai, hay để thổ lộ cho Lan biết được tình cảm của mình, trong khi Lan luôn tìm cách lẩn tránh dù thực sự có cảm tình với Ngọc (t thấy nó hệt như màn đấu trí 🙂)))) rất dễ thương, cũng rất khôn khéo). Tâm lý mâu thuẫn cũng như cảm xúc của hai nhân vật được đẩy lên từ từ. Nỗi đau và đấu tranh trong tư tưởng được tác giả thể hiện rất sâu sắc. Không khí của truyện nhẹ nhàng, thấm nét tâm linh, t đọc buổi đêm lại càng hình dung rõ cái bầu không khí mà Khái Hưng xây dựng ấy. Phải thừa nhận rằng hai người rất đẹp đôi, tình yêu của Ngọc và Lan không mãnh liệt, không ân hận mà nhẹ nhàng, thanh thoát. Nó thuần khiết ngay từ chính suy nghĩ của Ngọc “chỉ cần nhìn thấy Lan là đủ”. Kết truyện đối với tôi là cái kết khá buồn và tiếc nuối, tuy nhiên cũng hợp lý thôi.

Khái Hưng là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn. Tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng là Hồn bướm mơ tiên được viết năm1933. Tiểu thuyết cuối cùng của ông là Thanh Đức được viết năm 1943 và cũng là tiểu thuyết cuối cùng của nhóm. Hồn bướm mơ tiên là một tiểu thuyết không dài, chỉ khoảng chừng một trăm trang giấy nhưng nó lại là tác phẩm nổi tiếng nhất của Khái Hưng được nhiều người say mê hăm mộ. Và tác phẩm này có lẽ là sáng tác thành công nhất của ông. Ngay từ tiểu thuyết đầu tay này, nhà văn đã thể hiện được một quan niệm mới, một cách cảm nhận mới về con người. Nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn không còn là những ước lệ, công thức, tác giả đã ý thức rất rõ của một nhà tiểu thuyết là chỉ tả những cảnh ngộ, những hình trạng. những tính tình của một xã hội của một thời đại mà thôi. Khái Hưng đã tập trung khám phá mô tả khẳng định mẫu hình nhân vật mới, một kiểu nhân vật lãng mạn. Vì vậy, tác phẩm này mang đậm dấu ấn lãng mạn. Trong tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, tác giả không khai thác sâu vào hoàn cảnh và tâm trạng của nhân vật với những mối quan hệ nhiều màu nhiều vẻ phức tạp mà nhà văn tập trung vào miêu tả tình yêu lãng mạn giữa nhân vật Ngọc và nhân vật Lan, hai nhân vật chính trong tác phẩm. Đây là một chuyện tình núp dưới bóng từ bi của phật giáo. Thông qua cuộc đấu tranh giữa ái tình và tôn giáo, Khái Hưng đã làm nổi bật được tính cách, lí tưởng của hai nhân vật chính. Tình yêu của họ hấp dẫn ngay từ đầu câu chuyện. Chàng trai tên Ngọc gặp chú tiêu tên Lan ở chùa Long Giáng kiều diễm dưới bộ áo tu hành. Ngọc nghĩ Lan là gái nên để tâm theo dõi và cũng từ đó Ngọc đã đem lòng yêu Lan. Nếu như con người Lan hoàn toàn thuộc về thế giới tôn giáo, không còn xúc động gì với tình yêu đôi lứa thì cuộc tìm kiếm của Ngọc sẽ vô ích như đuổi theo một chiếc bóng vô hình. Nhưng ngược lại, trái tim của chú tiểu Lan cũng không khỏi bồi hồi xúc động trước tình yêu thầm lặng của Ngọc. Tuy nhiên, Lan không phải là người con gái dễ bị sa ngã. Nàng cố đấu tranh chính bản thân mình để chối từ tình yêu của Ngọc. Mỗi lần Ngọc cố ý dò hỏi, Lan lại lẩn tránh. Như khi Lan được Ngọc khen “Nhưng chú thuật khéo lắm, lại thêm chú có cái giọng dịu dàng, êm ái qua!” thì Lan lại lẩn né sang chuyện “Chết chửa nói mãi hôm nay đến lượt tôi thỉnh chuông, ta đi thôi không về trễ cụ quở”. Mặc dù Lan có cảm tình với Ngọc nhưng nàng cố bám víu vào đạo phật, trốn tránh mà vẫn yêu. Trong lòng nàng diễn ra một sự đấu tranh gay gắt giữa ái tình và tôn giáo. Đến với tình yêu, Lan sung sướng vì thấy đúng với bản chất và những mong muốn của mình nhưng nàng lại mang cảm giác tội lỗi với phật tổ và những lời hứa của một người đã quả quyết dứt bỏ cuộc sống trần tục. Không khỏi có lúc Lan tự dối lòng mình và xem ái tình là chuyện nhỏ nhen tầm thường, dẽ gạt bỏ nhưng rồi chính nó lại là thứ to tát,chứa chan khắp linh hồn của Lan. Sự có mặt của Ngọc trên cõi đời này đã đánh thức tình yêu trong sáng của Lan nhưng nó lại bị lớp sương mù lạnh giá của tôn giáo bao bọc lấy người con gái này. Khi miêu tả Lan, nhân vật chính trong truyện, tác giả dường như dồn hết trìu mến vào nàng, một người con gái xinh đẹp, thông minh, trang nhã. Vì vậy, Ngọc yêu Lan cũng hoàn toàn có lí dù bên ngoài Lan giả trai. Nếu như Lan cố tình để che đậy tình yêu của mình, luôn mượn những triết lí tôn giáo để răn đe mình thì ngược lại chàng trai Ngọc không bị ràng buộc bởi một tín điều tôn giáo nào, lại luôn tìm cách để bộc lộ nó. Mối quan tâm duy nhất của chàng là Lan là gái hay trai? Và khi biết được Lan là con gái thì cái cảm tình ban đầu biến thành tình yêu nồng nàn và chàng tha thiết yêu Lan. Tình yêu của Ngọc và Lan là tình yêu đầy lãng mạn, trong sáng và cao thượng. Và dù tình yêu ấy có sâu đậm đến thể nào cũng chỉ có thể dừng lại ở giới hạn mà tôn giáo đã định. Lan đành phải thú nhận với Ngọc mình là con gái và chấp nhận tình yêu của Ngọc với những dè dặt tinh vi nhất. Ngọc kẻ kiếm tìm và khao khát yêu đương cũng chỉ dừng lại ở mức độ Ngọc nguyện suốt đời chàng “Tôi không lấy ai chỉ sống trong cái mộng ảo của ái tình lý tưởng, của ái tình bất vong bất diệt”. Lời nói của Ngọc có phần không tưởng và xa vời quá nhưng nó đã thể hiện được sự dung hòa giữa tình yêu và tôn giáo. Tình yêu của họ chưa đủ sức mạnh để đấu tranh gạt bỏ tôn giáo. Vì vậy, nó phải dung hòa và nhượng bộ tôn giáo. Với Hồn bướm mơ tiên, kiểu nhân vật lãng mạn đã xuất hiện và tạo được sự chú ý của người yêu văn học. Tác giả đã tạo cho nhận vật một môi trường thích hợp trong thế giới thiên nhiên tạo vật để cho tình yêu lãng mạn nảy nở. Qua tình yêu của hai nhận vật chính, nhà văn cũng nhằm ca ngợi ái tình, một tình yêu lí tưởng, trong sáng và cao thượng. Bằng giọng văn mượt mà, truyền cảm, nhà văn Khái Hưng đã thành công khi khắc họa một mối tình hết sức đẹp đẽ, lãng đãng giữa Lan và Ngọc. Từ đó, chúng ta thấy được giữa đạo và đời đang có sự giằng xé, đấu tranh. Lan và Ngọc thật sự yêu nhau nhưng không thể đến được với nhau. Tuy vậy, họ xem đó là thứ tình cảm đẹp nhất, luôn cất giữ trong lòng đến bạc đầu và nguyện mãi tôn thờ. Đó chính là cái nhìn đầy chất lãng mạn của Khái Hưng trong tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên.

Cuốn sách nhỏ của Hà Thủy Nguyên viết về hai chị em Ngọc Cầm, Ngọc Thư – quán chủ Cầm Thư quán. Tại Cầm Thư quán, Ngọc Cầm gảy đàn theo khúc Hải du, Ngọc Thư đọc sách và truy cầu kinh Phật. Nơi đây cũng vì thế mà xa rời chốn nhân thế hay cảnh cung đình xa hoa. Cuộc sống của hai nàng chỉ xoay quanh duy nhất hai điều ấy. Thế nhưng dù Cầm Thư quán có xa lánh chốn cung đình hay cách xa nhân thế bao nhiêu, thì Ngọc Cầm, Ngọc Thư cũng vẫn phải đối mặt với những con người đến từ miền xa cách đó: những anh chàng “giá áo túi cơm” vào tán chuyện rồi mua vui vài ba câu thơ nhạt nhẽo, Thánh thượng Lê Thánh Tông quyền lực trên vạn người nhưng vẫn không thể khỏa lấp khát khao của Ngọc Cầm... Khác với những truyện ngắn hoặc tiểu thuyết do những người viết trẻ hiện tại xây dựng, Cầm Thư quán không đi sâu vào mối quan hệ nam nữ giữa Lê Thánh Tông và Ngọc Cầm, cũng không “ngôn tình hóa” các dữ kiện lịch sử. Trong Cầm Thư quán, nhân vật, lịch sử trở thành phương tiện để tác giả gửi gắm thông điệp của riêng mình: Cả Ngọc Cầm, Ngọc Thư, Lê Thánh Tông, chàng thư sinh và nhà sư không tên đều đang trên đường truy cầu một điều gì đó khác thường, thậm chí là phi thường: Ngọc Cầm ban đầu mải miết chạy theo khúc Hải du. Khúc Hải du xuất hiện cùng với tiếng đàn của nàng, văng vẳng trong đêm xa, chập chờn trong ý nghĩ, rồi theo nàng đến tận cùng. Lúc đầu, khúc Hải du thể hiện cho khát khao vượt ra khỏi cuộc đời nhàm chán, thoát lên trên lẽ thường của những tam tòng, tứ đức đương thời, đồng thời cũng là khát khao vươn mình chạm tới sự vô cùng, bất tận. Thế nhưng, đến cuối cùng, khúc Hải du không dừng lại ở tiếng đàn ngang tàng, bất tận, mà còn trở thành tấu khúc truy tìm tri âm, tri kỷ, là tiếng đàn kéo hai con người “tưởng chừng xa vạn dặm nhưng duyên nợ đã quấn quít tự thuở nào” lại với nhau. Ngọc Thư mải miết chạy theo lời Phật dạy, ngày ngày gõ mõ tụng kinh, lên chùa thỉnh Phật. Nàng không phải người mê đắm Phật pháp đến quên ăn quên ngủ, cũng không phải người sẵn sàng cắt tóc đi tu. Nàng chỉ đơn giản là đang tìm câu trả lời cho hàng ngàn hàng vạn những câu hỏi nảy sinh trong tâm tưởng. Ngọc Thư không có sự ngang tàng của Ngọc Cầm, nhưng ở nàng và Ngọc Cầm luôn có chung một suy nghĩ: Nhiều khi chị tự hỏi chúng ta sẽ ra sao nếu chúng ta chỉ là những người con gái bình thường. Cần gì mang trong mình một bồ kinh sử, cần gì tới ngón đàn đắm đuối lòng người, và càng chẳng cần tới nhan sắc diễm tuyệt này… Họ hay chúng ta rồi cuối cùng cũng sẽ chết! Một mặt, Ngọc Thư và Ngọc Cầm vẫn luôn theo đuổi lý tưởng của riêng họ, nhưng mặt khác, cả hai người lại luôn phải đối mặt với những suy nghĩ về một “cuộc sống bình thường”, trở thành những “người con gái bình thường”. “Người bình thường”, vào thời đó, có nghĩa là phải tuân thủ đủ tam tòng tứ đức, luân thường đạo lý, cắm mặt làm việc, là không cần thông tuệ kinh văn, là không cần đàn hát, là không cần sắc đẹp, chỉ cần có một nơi yên bề gia thất hoặc nhận ơn mưa móc của vua là đủ, là nhìn thấy vua thì phải khúm núm nghe lệnh, là chẳng thể biết đến cái gì là tự do, cái gì là đẹp đẽ, là chẳng biết đặt những câu hỏi để kiếm tìm câu trả lời,... “Người bình thường” như vậy, có khác nào loài se sẻ, con ve sầu, chim cưu mà Trang Tử đã từng nhắc đến trong thiên Tiêu dao du? Mâu thuẫn ấy đi cùng cả hai nàng trong suốt câu chuyện, nhưng rồi đến cuối, Ngọc Cầm vẫn chọn một lần phiêu theo khúc Hải du, Ngọc Thư vẫn chọn đắm chìm trong những câu hỏi chưa có lời giải của chính nàng. Trong truyện còn khắc họa một Lê Thánh Tông thời Hồng Đức thịnh thế với những nét tâm lý, tình cảm mới lạ. Ai cũng biết Lê Thánh Tông là vị vua (có thể xem là) hoàn hảo: dưới thời của ông, Đại Việt đạt đỉnh cao cả về kinh tế, chính trị lẫn tình hình văn hóa, xã hội. Đến với Cầm Thư quán, bạn đọc sẽ bắt gặp một Lê Thánh Tông cá nhân hơn, và cũng... tham lam hơn. Lê Thánh Tông “tham lam” không chỉ vì vừa muốn giang sơn, vừa muốn mỹ nhân, mà còn vì ông tò mò muốn biết cả đời sau sẽ nghĩ gì về mình. Thế nhưng cũng ở đây, người đọc sẽ bắt gặp một Lê Thánh Tông si tình hết mực, và cũng day dứt, buồn đau hết mực. Nếu Ngọc Cầm, Ngọc Thư khát khao sự vô cùng, bất tận, thì có lẽ điều duy nhất Lê Thánh Tông truy cầu là chính mình: giang sơn, mỹ nhân, tình ái,... tất cả đều được ông “dùng” để khẳng định chính mình. Chỉ là đến cuối cùng, Lê Thánh Tông lại chẳng giữ lại được gì ngoài giang sơn. Chàng thư sinh mà Ngọc Cầm say mê lại đối ngược hoàn toàn với Lê Thánh Tông. Chàng ta không có nhu cầu khẳng định chính mình, nhưng chàng lại có cái khát khao theo đuổi sự “tận thiện, tận mỹ”. Tuy nhiên, chàng cũng đâu có tìm được sự tận thiện, tận mỹ như đã hẹn với Ngọc Cầm. Chàng còn chẳng thể nào hiểu ra được khát khao theo đuổi sự tận thiện, tận mỹ ấy thực chất cũng chỉ là theo đuổi một thứ ảo ảnh xa vời, là “tuyệt đích của hư vô”. Dường như chàng thư sinh ấy đã quên rằng, sự tận thiện, tận mỹ mà chàng tìm kiếm bấy lâu, nay đã dừng lại vĩnh viễn trên bức tranh họa người con cái với bước chân vương cánh hoa đào rồi. Nhân vật cuối cùng là nhà sư trẻ - người đem đến cho những câu hỏi của Ngọc Thư một câu trả lời. Nhà sư ấy truy đuổi điều gì? “Ta chẳng muốn đi theo ai… Ta chỉ muốn đi trên con đường của ta giữa bể khổ và chẳng cần biết đến quay đầu…” Từ đầu đến cuối, tôi không thấy nhà sư ấy quá khát khao điểu gì, nhưng anh ta lại là người dám một mình đi ngược lại rất nhiều nhà sư khác. Các nhà sư khác cho rằng lẽ sinh trong trời đất là do khổ mà nên, còn nhà sư trẻ này lại cho rằng “Nguồn gốc của sinh là đi từ nhị nguyên tới nhất nguyên.” Vậy cuối cùng lẽ sinh trong trời đất là do đâu mà nên? Tôi nghĩ, khi nhìn thấy bức tượng Đại Phật Hoan Hỉ, cả Ngọc Thư, cả bạn đọc, cả tôi, đều sẽ có câu trả lời của riêng mình. Nhìn chung, Cầm Thư quán duy mỹ với nhiều ẩn ngữ, biểu tượng mà trong đó, biển/ nước trở đi trở lại trong suốt toàn bộ tác phẩm. Đối trọng của hình tượng đó là ngọn lửa rực cháy ở cuối truyện. Đó có phải ngọn lửa giận dữ không? Tôi không chắc. Nhưng tôi biết ngọn lửa ấy đã hòa quyện vào tâm tưởng chàng thư sinh, đã đốt cháy ảo vọng truy tìm cái “tận thiện, tận mỹ” của chàng, cũng đốt cháy ảo vọng từ “suối Tham” của Lê Thánh Tông. Suy cho cùng, tiểu thuyết Cầm Thư quán của Hà Thủy Nguyên là một cuốn sách không quá khó đọc, và chắc chắn khi đọc xong, người đọc sẽ phải suy nghĩ về từng nhân vật, từng hình ảnh, từng biểu tượng, thậm chí là từng lời thoại mà tác giả viết nên. Cũng chính vì thế, Cầm Thư quán không trôi tuột đi như vài ba câu chuyện nửa vời khác, mà vẫn luôn lưu lại trong suy nghĩ của tôi. Đối với tôi, một cuốn sách hay là một cuốn sách có thể khiến ta nhìn lại chính mình, đối diện với những dục vọng của chính mình và suy ngẫm. Và Cầm Thư quán chính là một cuốn sách như thế

Cả tập truyện Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ là tự sự của một cậu bé mười tuổi, sống ở nông thôn, và không hề có bất kỳ dấu chân nào của người khổng lồ internet ghé ngang. Điều hấp dẫn rất riêng của truyện là những câu thoại ngô nghê trong sáng, lại rất dí dỏm và ấm áp. Điều thú vị đầu tiên cậu bé đã chỉ cho tôi – “một đứa trẻ ra đời là một sự may mắn, ngày tôi ra đời là ngày tôi may mắn có thêm bạn mới..Chẳng hạn, tôi làm sao có thể quen thằng Tí và chọn nó làm bạn thân nếu tôi không ra đời?”. Cả cái việc được bà mụ vỗ vỗ vào mông để phát ra tiếng khóc đầu tiên cũng là một điều thú vị. “Nhưng tôi muốn nói với bạn một điều, chúng ta phải bí mật. Chuyện đó phải riêng tư. Khi bạn giữ bí mật về mình hay ai đó, bạn sẽ không bao giờ quên. Những chuyện nói ra rồi bạn sẽ quên mất. Tôi dám chắc như vậy. Và còn một điều nữa, bạn phải tăng số lần bà mụ đánh lên, bởi vì như bố tôi nói, chúng ta không có bao giờ có cơ hội được bà mụ đánh lần thứ hai. Chúng ta chỉ được khóc một lần khi chào đời, một cái khóc dễ thương nhất.” Cũng như cái tên bố mẹ đặt cho, “cái tiếng đẹp đẽ nhất mà người ta sẽ gọi trong suốt cuộc đời đứa trẻ”. Đó là một bí mật mà bố mẹ dành riêng cho mình với tất cả tình cảm ưu ái. Cứ như thế từ đầu đến cuối truyện, cậu bé sẽ chỉ cho chúng ta nhiều điều bí mật thú vị, từ những bài học và những suy nghĩ “ông cụ non” trong cái đầu mười tuổi của cậu. Cái nôi nuôi dưỡng cậu bé là làng quê bình dị, là bố mẹ giàu lòng nhân ái, tinh tế trong cảm nhận và sẻ chia, là những người láng giềng nồng hậu, nghĩa khí . Cậu cũng có rất nhiều bạn. Hơn hết, cậu có cả khu vườn nhà rất rộng, nơi mà bố đã dạy cậu điều tuyệt vời nhất, bố dẫn cậu ra vườn bảo cậu nhắm mắt, rồi hướng dẫn cậu chạm vào từng bông hoa và đoán tên, lúc đầu cậu toàn đoán sai, bố nói không sao cả, dần dần con sẽ đoán đúng, mà thật vậy, từng ngày rồi từng ngày, cậu đã đoán đúng tên từng bông hoa trong vườn, rồi bố lại bày cậu tập đoán khoảng cách đến bông hoa, cậu thích chí mỗi khi đoán đúng, cậu đoán chính xác khoảng cách đến nỗi chú Hùng hàng xóm phải thốt lên “Thật không thể tin nổi, cháu có con mắt thần”, cũng nhờ “con mắt thần” này mà cậu đã cứu được bạn Tí khỏi chết đuối. Và Tí đã thành bạn thân nhất của cậu. “Con mắt thần” đã thành điều bí mật của hai bố con. Còn khu vườn trở thành điều bí mật của cậu. “Tôi đi nhẹ ra vườn. Tôi hiểu, khu vườn là món quà bất tận của tôi. Mỗi bông hoa là một món quà nhỏ, một vườn hoa là một món quà lớn, tôi nhắm mắt chạm tay rồi gọi tên từng món quà. Tôi chạm phải bố. Tôi la lên: “A! Món quà của tui đây rồi. Ôi! Cái món quà này bự quá!”. Bố lại nghĩ ra trò chơi khác, bày cho cậu đoán hoa bằng cảm nhận từ mũi, cho đến khi cậu nhận diện được tất cả mùi hương của các loại hoa trong vườn, lần này “con mắt thần” nằm ngay mũi cậu. Cứ thế, từ khu vườn nhà, cậu học cách cảm nhận cuộc sống quanh mình, một khu vườn rộng lớn hơn, bí mật hơn, hương sắc cũng đa dạng hơn, có vui, có buồn, có hạnh phúc, có khổ đau, có tự hào nhưng cũng có lỗi lầm và ân hận, có sinh ly tử biệt, có chia sẻ và yêu thương… Cậu cũng học được cách vượt qua tự ti, biến khiếm khuyết của bản thân thành điều bí mật khác biệt của riêng mình, để từ cảm giác xấu hổ vì cái răng khểnh đáng ghét, cậu đã có thể ngày ngày tự tin mỉm cười khoe răng. Còn với những khiếm khuyết của người khác, cậu lại biến nó thành sự đồng cảm. Cậu tình nguyện cho ông Tư cả bàn tay của mình sau khi nghe ông kể tại sao ông bị mất cả tay chân trong một trận pháo kích, ông Tư hỏi nhưng “làm sao ông lấy được”, cậu hồn nhiên nói “Dễ lắm. Thỉnh thoảng con chạy sang đây. Ông chỉ việc kêu lên: bàn tay ơi lấy cho tui cái bánh. Thế là bàn tay sẽ chạy lấy cho ông ngay”. Ông cười khà khà: “Ôi hay quá! Thật là hấp dẫn, vậy mà ông không nghĩ ra được. Để ông làm thử nhé! Ông hắng giọng rồi sôi nổi nói- Bàn tay ơi!” “Ơi! Có tui đây!- Tôi nói to- Tui là bàn tay! Bàn tay xin tuân lệnh hoàng thượng!”. Cậu cũng biểu lộ sự cảm thông và chia sẻ khi đến ngồi bên cô Hồng và nói: “Chừng nào cô khỏi bệnh, cô đan cho con chiếc nón len nhé. Con thích chiếc nón có nhiều tua và cái mũi dài dài.” Cô gật đầu, cậu nói tiếp: “Cô có thích ăn bắp rang không?” Cô lắc đầu nhưng mỉm cười với cậu, nụ cười đầu tiên từ lúc cô đánh mất em bé. Tối đó cậu nói với mẹ: “Mẹ ơi, hồi chiều cô Hồng cười với con, cô còn hứa đan cho con một cái nón len, mẹ có tin cô Hồng sẽ hết buồn khi ngồi đan nón không?” Mẹ trả lời “Mẹ tin”, bởi mẹ biết cậu vẫn nhớ lời mẹ nói “khi một ai đó buồn, họ cần rất nhiều người để chia sẻ. Nỗi buồn chỉ vơi đi bằng tình thương chứ không có một phương thuốc nào hết. Khi chia sẻ một nỗi buồn, chúng ta sẽ không buồn hơn, nhưng người khác sẽ vui hơn…Họ cần những khuôn mặt hơn là những viên thuốc. Họ cần những bàn tay, những tô cháo, những quả ổi hái để đầu giường. Họ cần mỗi buổi tối ghé lại ngồi với họ trong im lặng. Họ cần chúng ta dẫn họ lên đồi cuốc một mảnh vườn, và thỉnh thoảng hỏi họ có thích ăn bắp rang không…” Vẫn là trẻ con nên cậu vẫn thường háo thắng, đôi lúc lại hay ganh tị, thỉnh thoảng phạm lỗi nhưng ngại ngùng lúng túng nhận lỗi. Như khi quan tâm để ý đến hai ông cháu lão mù ăn xin lang thang trú chân ở sạp chợ, cậu muốn tặng cho bạn một con dế bắt ở vườn nhà mà không dám, khi đã tặng rồi lại nổi giận với bạn vì một lý do không đâu và xúc phạm bạn….để lúc nhận ra lỗi của mình muốn đến xin lỗi thì hai ông cháu lão ăn xin đã đi xa. Lúc đó cậu đã hiểu hơn lời của bố “Khi nhìn theo bóng một người mà ta không thể quên được, chúng ta sẽ thấy “nỗi nhớ” của mình”. Cậu sẽ nhớ mãi người bạn chưa từng biết tên ấy, cùng nỗi ân hận về một lời xin lỗi chưa kịp nói. Mở đầu sách là sự sống của bản thân, kết thúc sách lại là cái chết hụt của cậu bạn rất thân, chắc hẳn tác giả đã muốn nhân vật chính của mình nếm trải đủ mọi cung bậc cảm xúc của một cậu chàng mười tuổi rất hồn nhiên, giàu tình cảm lại hay suy tưởng và triết lý. Với tôi, “vừa nhắm mắt, vừa mở cửa sổ” thật sự là một bức tranh đồng quê dung dị, trong trẻo, sống động, đầy chất thơ, lại chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Tác giả Nguyễn Ngọc Thuần đã mang lại cho tuổi thơ một món quà quý báu, và cho cả những người đã bước qua tuổi thơ một khoảng vườn suy ngẫm: hãy nhắm mắt và mở lòng -mở cánh cửa của chính mình- hãy nhìn cuộc sống bằng tất cả các giác quan để cảm nhận, để thấu hiểu, để yêu thương, để quan tâm và để nhớ.

Đọc “Chùa Đàn”, hình như đa số độc giả đặc biệt thích thú những chi tiết quái lạ, đua nhau trầm trồ óc tưởng tượng phong phú của người viết. Một số bắt bẻ: “Phét, Cậu Lãnh nào phải như em trai Đặng Thị Huệ mà…”. Tiếc quá! Nguyễn Tuân”mải miết”làm văn chương chứ có phải hết sức nặn óc mình ra chi tiết hấp dẫn để giải trí cho ai đâu. Còn nhân vật trong truyện không giống ngoài đời thì chắc chắn cũng như khi sáng tác tất cả những “Yêu ngôn” khác, Nguyễn Tuân không hề chú ý đến tính hiện thực của bất cứ cái gì, kể cả nhân vật. “Yêu” dù quái đến đâu cũng chẳng qua cái cớ. “Ngôn” mới là thật. “Ngôn” thế nào cho có “yêu” trong “ngôn” mới là cái lý do khiến “tôi” say sưa viết và xót xa khi bị “cắt”… • Đọc “Chùa Đàn”, chắc nhiều người nhớ những truyện quái dị của Edgar A. Poe. Hai đằng không giống nhau đâu. Tác phẩm của Poe câu chuyện đặc biệt ly kỳ nhưng cảm giác cảm xúc sơ sài xoàng xĩnh. Trong khi những “Yêu ngôn” của Nguyễn Tuân chuyện có lẽ không ly kỳ bằng nhưng lại chứa đầy những “cảm” vô cùng tinh tế. Câu chuyện “Yêu ngôn” chỉ có vai trò dựng lên những khung cảnh kỳ lạ cho tác giả nhập vào đó mà tha hồ tưởng tượng ra những cảm giác cảm xúc độc đáo mà say sưa sáng tạo văn chương. Lời kể chuyện mặc sức dịch ra bất cứ ngôn ngữ nào. Lời gợi cảm không dịch được. Vẫn cái thất thế tự nhiên của thứ văn chương đích thực của dân tộc Việt Nam. • “Chùa Đàn” (như viết cuối năm 1945) có thể chia làm ba phần. Phần đầu dựng cái duyên cớ khiến một người phải kỳ công đi rước cho được một tiếng hát về để cho một người nghe. Vì mới là “nền”, nên chưa chứa bao nhiêu “lời (đẹp đến mức) yêu quái”. Sau đây chỉ nên coi như chút tín hiệu để báo trước cơn “yêu ngôn” sẽ đến: “Giấy tranh bồi cọ loạt soạt vào tường phòng vắng rộng (…) Màu xanh tái của tranh gia thêm xa lạ vào khí buồng rộng quạnh và đổ thêm buồn lên vẻ nhớ vợ của người ngắm tranh (…) Cậu Lãnh khóc to dân mãi lên, gợi đến cái thống khổ của toàn thể một đám chuyển cữu (…) Rồi tiếng khóc vụt rống lên in hệt cái tiếng người rừng – mình mẩy mọc lông móng chân móng tay hóa ra vuốt – bỗng phẫn nhớ đến nhân loại bị xa cách lâu ngày. Cơn khóc rống đã đổi sangthành tiếng hú hồn. Gió hiu hiu trên nương dâu, kéo lê thê những tiếng thảm rợn ấy xuống những vùng phụ cận thấp xa (…) Cỏ gò chôn rượu bừng dậy chật xanh bóng thạch sương bồ (…) Những tiếng chìm chìm sương rừng gieo xuống những tiếng đục đục loài kim khảo ruột loài thổ (…) Ánh sáng thản nhiên của bạch lạp tỏa quanh áo tang khăn trắng người tửu đồ tình chủng đang vò võ đối mặt vào tranh lạnh”. À, cái bài hò kéo cây gạo vặt hết “ta” với “dô ta” đi, cũng ngộ: “Một ngày đã ngả bóng dâu Trở về ấp Thảo tưới dâu chăn tằm… Rừng thiêng ngả cỗi sơn lâm Lần lừa ấp Thảo trông tằm thương dâu Con người rút ruột con sâu Đem tơ trả miếng lá dâu xót lòng” Cái ông nhà văn ngồi đung đưa “trên chiếc võng đay trong ngôi nhà của bà Chu ở Bần Yên Nhân” hí hoáy viết “Chùa Đàn”, ông ấy đã giác ngộ cách mạng rồi mà còn, nhỉ. Ờ, thì cũng mới…, chẳng viết cho xong “Chùa Đàn”, sao gọi được là đoạn tuyệt có hậu với những cái “Vang (và) bóng (của) một thời” l Phần thứ hai của “Chùa Đàn” kể cái “kỳ công”. Bà Nhỡ đến cầu Cô Tơ tất cả ba lần, y như Lưu Bị”tam cố thảo iư’Khổng Minh. Trước lần gặp thứ nhất là công phu liều chết đi tìm; giữa lần thứ nhất và lần thứ hai là “tử công phu” luyện lại ngón đàn đáy; sau lần thứ hai là công phu tự chất vấn mình căng thẳng đến nỗi tóc hóa bạc không chừa một sợi!… “Ta có nên quyến luyến với cái thể xác ta nữa không? Ta thử nghĩ xem ta có còn để dành ta vào việc gì khác không? Hay những ngày mai ngày kia cũng chỉ là sự tái diễn của ngày này thôi! (…) Hình như ta sắp đọc thấy cái ý nghĩa của thời giờ ta đang tiêu đây. Ta học nghề đàn, ta phải đánh lên thành tiếng, dẫu rằng đời chơi đàn của ta chỉ vẳng được lên có một lần (… ) cầm đến cây đàn Chánh Thú ấy mà đánh lên thì cái thác của đời tằm nào mà chẳng là say sưa. Nhả cái tơ lòng ấy ra, đánh lên cái tơ ấy cho dội vang lên một giây phút của thời gian rồi mà hết luôn với tất cả chung quanh! (…) Đã nhìn thấy cây đàn cũ ấy thì phải đánh – đánh cái cuộc đời mình vào đấy – để rồi xem nó thành được ra tiếng gì”. Hạ quyết tâm rồi, Bá Nhỡ ngồi đối ẩm với Cậu Lãnh, vừa rượu vừa đàn cho cậu nghe chơi ngón đàn mình vừa luyện xong sắp sửa đem đi thuyết phục Cô Tơ: “Hơi rượu ủ lấy hơi tơ. Tiếng gày kẹp lấy tiếng rót. Thời gian thản nhiên lướt trên hai cái tâm sự. Một người uống để kéo dài đời mình ra bằng sự nhớ thương một cái bóng trắng. Một người đánh đàn để càng cảm thấy rằng đời mình rồi sắp là cuộc đời của một sợi tơ do tay mình cấu đút”. Ở nhà Cô Tơ, sau chuyến thăm thứ hai của Bá Nhỡ, tình hình cũng không yên ổn gì cả. Nhà vốn có một con ma là ông Chánh Thú chồng quá cố của cô và một cây đàn đáy ma là đàn của ông. “Đêm nọ gân về sáng, Cô Tơ nửa thúc nửa ngủ chờn chợn nghe thấy tiếng người rón rén đi từ trong buồng thờ ra. Cô quay mặt lại phía cửa màn thì đã thây ông Chánh Thú đúng sững đấy, áo xô gai rộng tay và hoen ố (…) Một con đom đóm vờn bay trên cây đàn nhễ nhại mồ hôi. Trên nền tang đàn gỗ ngô đồng, có những đốm lân tinh lập loè. Cô Tơ lại gân nhìn mới biết đấy là máu của dây đàn đút. Đâu các dây còn rung lên, ruột sợi tơ rỉ tuôn ra một thú nước đặc sệt như máu con giời leo và xanh đục như ruột bọ nẹt. Chất ấy đọng thành giọt ở các đâu dây và loé tia xanh lạnh lên dưới cái sáng chờn vờn của lửa con đóm”. Có một người còn sống đang quyết chết là Bá Nhỡ. Có một hồn ma đang quyết bắt Bá Nhỡ chết để nó được đi đầu thai là hồn Chánh Thú. Công việc dàn dựng đích đáng cho một chầu hát phi thường coi như đã xong. • Đến nơi rồi! Chiếc cáng chở một người cần nghe hát để nguôi nhớ vợ đã vào đến sân nhà một người sau khi chồng chết đã thề thôi hát. Theo sát bên cáng là một người muốn “đánh cái cuộc đời mình” vào một cây đàn ma để xem “nó thành được ra tiếng gì”. Chầu hát Cô Tơ Bá Nhỡ Cậu Lãnh bắt đầu. Bá Nhỡ thử dây, vặn trục đàn. Trục nghiến gắt và nấc dân mãi lên. Cân đàn ôm sát vào mặt, Bá Nhỡ ngửi thấy một mùi tanh tanh và gỗ đàn đã truyền sang lòng tay một chất nhờn sánh. Buông đâu gảy xuống dây, đàn vẳng ngân một tiếng cuồng loạn (…) Chưa bao giờ Cô Tơ thấy rõ cái đau khổ ngậm ngùi của tiếng đàn đáy buổi này. Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian. Nó nghẹn ngào, liễm kết cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết được ra. Nó là một nỗi ủ kín bực dọc bưng bít. Nó giống như cái trạng huống than thở của một cảnh ngộ vô tri âm. Nó là cái tấm túc sinh lí của một sự giao hoan lưng chừng. Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó là cái dư ba của bể chiều đút chân sóng. Nó là cơn gió chẳng lọt kẽ mành thưa. Nó là sự tái phát chúng tật phong thấp vào cữ cuối thu dâm dề mưa ẩm và nhức nhối xương tủy. Nó là cái lả lay nhào lìa của lá bỏ cành. Nó là cái lê thê của nấm vô danh hiu hiu ngọn vàng so le. Nó là cái oan uổng nghìn đời của cuộc sống thanh âm. Nó là sự khốn nạn khốn đốn của chỉ tơ con phím. Nó là một chuyện vướng vít nửa vời. Tiếng đôi lá con cỗ phách Cô Tơ dồn như tiếng chim kêu thương trên dậm cát nổi bão lốc. Nhiều tiếng tay ba ngừng gục xuống bàn phách, nghe tàn rợn như tiếng con cắt lao mạnh xuống thềm đá sau một phát tên. Tay phách không một tiếng nào là nhụt. Mỗi tiếng phách sắc như một nét dao thuận chiều (…) Máu chảy ra nhiều quá. Toàn thân Bá Nhỡ đỏ ngòm. Áo quân màu trắng của Bá Nhỡ vụt trở nên vóc đại hồng, trông hệt một người phục sức để ăn thượng thọ. Người Bá Nhỡ đã là một cái vại đựng chất lỏng có nhiều chỗ rò rỉ. Máu trong cơ thể Bá Nhỡ cứ đều một dòng tuôn mà thấm lậu ra ngoài, Bá Nhỡ đã thây khát nước. Và khắp mình mẩy, xót nhức không biết đến đâu là chừng hạn nữa. Mỗi tiếng đàn là một miếng thịt lẩy ra. Tí một, tiếng đàn đưa nhau về nơi vĩnh quyết. Tùng. Tang. Tùng. Tùng! Tụng. Bá Nhỡ vấp một chỗ nhấn, đâu ngón chừng đỗi giây lát trên mõ phím cao quyện huyết (…) Vừa có một mũi kim nào châm vào cái đốt cuối xương sống Bá Nhỡ, làm cho cây đàn đột ngột bật hẳn cân dọc lên. Rồi không rõ từ đâu vào, vẫn ở đoạn xương sống, có rất nhiều hạt muối lạo xạo đánh loãng chất tủy người đang gò đàn. Ruột nhũn hẳn ra, óc se thắt lại, chỉ còn có cái tâm Bá Nhỡ là điều động với lớp tơ trúc dật dờ. Gân tay Cô Tơ xuống phách đã có chiều lảo đảo vì chuột rút. Hạt châu lẩy bẩy đọng trên môi người hát, sáng đục như mắt chuồn chuồn. Phải nuốt nước mắt mặn chát tuôn đều với máu người đàn đối diện, tiếng hát Cô Tơ có nhiều chữ buông bắt đã hết vuông hết tròn. Tiếng hát đã sa làn rồi khê và mực hát đã có chỗ bửng. Cả hát cả đàn đang dắt tay nhau sa lây trên cái mênh mông bùn sũng ngào vỏ ốc, mờ rộng xanh lơ ngút chân trời. Cô Tơ rùng mình. Hình như đây là pháp trường đang có những tiếng mớm chiêng đồng. Như ăn phải bát cháo lú bên sông Hắc Thủy, Cô mê thiếp đi. Tiếng hát méo dân. Thoáng một tiếng dây đàn đứt. Cô choàng tỉnh để nhận cái đâu tơ ấy bắn vào mặt. Thái dương Cô tê dại trong khoảnh khắc. Rồi vững lại tay phách, chỉnh lại hơi cổ hơi mũi, Cô Tơ hát bây giờ mới vượt qua những đỉnh nhọn của thế giới âm thanh. Tiếng hát mọc cánh, thăm thẳm trong trắng tinh khiết quá pha-lê gọt. Cô đang gọi nước suối đá ngọt trào dâng lên. Tiếng phách trúc díu dan như cô đúc lại được muôn điệu của muôn giống chim. Có những tiếng tre đanh thép, sắc bén đến cái mực cắt đứt được sợi tóc nào vô tình bay qua khoảng nơi phách đang bốc cao vươn mình dựng dậy như vách thành. Đôi tai Cậu Lãnh Út chỉ là hai cái phễu để Cô Tơ rót vào đấy cả một rừng chim và cả một suối thủy tinh (…) Trong buồng thờ Chánh Thú, có tiếng cười sằng sặc ở sau cái bài vị. Bát hương bàn thờ sứ chẻ dọc làm hai mảnh, tiếng nẻ toác to gọn như mắt tre nổ trong lửa. Hai mảnh sứ nhào lăn xuống nền đất, kêu đánh xoảng. Riêng Cô Tơ nhận thấy tiếng đổ vỡ này và hiểu nó là điềm báo hiệu của một điều linh thiêng gì. Qua cái màn mỏng nước mắt, người hát trừng trừng vào người đàn. Bá Nhỡ vốn đã còm, giờ lại càng khô sút hẳn đi. Máu tuôn ra nhiều quá, đánh đống quanh chỗ Bá Nhỡ như một khối hồng hoa. Bắt tay đàn để xuống mạnh một cái đẩu gâ’y thứ nhất ấy là máu trong người Bá Nhỡ vợi đi từ đây. Và thân hình ngót dân đi và teo tóp mãi lại chẳng khác gì cái xác khô người tâng già khổ hạnh. Hình như tới một chừng mực siêu thanh nào đó, âm nhạc có cái vật tính là làm quắt lại da thịt và chuốt dài thân người ra. Bá Nhỡ chỉ còn là một cái bóng. Bóng loãng dân và không động. Bóng cứ nhạt mờ thêm mãi qua cái hôn mê của nỗi thảm tình thương và Cô Tơ chỉ còn nhận thây có mỗi một cái chấm sáng trên thân người ôm đàn là còn linh động. Ấy là cái mặt ngọc chiếc nhăn ở ngón tay nắn dây. Tất cả sinh khí một kiếp người chỉ còn gởi có vào một cái mặt nhăn linh động theo âm đàn. Nhưng mà ngón tay câm đàn gây cũng đã uể oải rồi trên con phím. Rồi bẵng hẳn đi trong phòng không có một tiếng đàn nào nữa. Như một thứ keo, máu cũ khô quánh đã gắn chặt mười đâu ngón Bá Nhỡ vào mấy sợi tơ đỏ săm và mặt tang ngô đồng hoen ố. Mười ngón như một đã bị đóng đinh liền vào phím cây đàn. Máu tuôn đã hết chất nồng và chỉ còn tỏa ra một mùi tanh nhạt. Bá Nhỡ gục vào đàn, nách cắp lấy thành đàn mà nhoài ra giường. Gỗ bục đêm và thân người nhoài ra kia lạnh bằng nhau (…) Cây đàn vừa bị tay người lạnh thả dân xuống mặt bục, đang tự tan vụn ra từng miếng con. Phím long rồi, cân, thành, tang đều tung bật hết mộng chốt, và cùng một lúc nhả hết những đường sơn gắn. Đàn chỉ còn là một đống vụn gỗ linh tinh những bừa bộn bên một cuộc đời đánh đàn đang khô dân lớp máu cuối cùng. Sao lại có thể có người tưởng tượng ra được bao nhiêu cảm giác cảm xúc ấy nhỉ? Nên nhớ tất cả là thuần tưởng tượng! Một cơn “mơ cảm” kỳ lạ hết sức. Nhưng nếu chỉ có mơ không thôi, ai biết. Đây mơ đến đâu mực đen giấy trắng lời xuống rành rành đến đấy. Mơ hóa thành lời. Và hẳn lời hiện ra lại khiến mơ tiếp tục… À, đây là cả một cuộc giao hoan với chữ nghĩa có đầy đủ giáo đầu và đạt khoái cảm tột độ, chứ còn gì nữa! Dễ dàng hình dung viết xong chữ cuối cùng của “Chùa Đàn”, Nguyễn Tuân quẳng ngay bút, nằm vật thiêm thiếp trên chiếc võng đay nhà bà Chu! Nhà văn như là chính nhân vật Bá Nhỡ của mình, chỉ không đến nỗi hồn lìa, xác đợi lên cáng về Mê Thảo! Nguyễn Tuân cho Bá Nhỡ đàn hết cả máu ra, tức là Nguyễn Tuân viết hết cả “cảm” của mình ra. Máu hết thì người chết, còn cảm hết thì tâm hồn chỉ khô đi mất một lúc, sau đó lại bắt đầu ứa cảm… Đoạn kết của truyện càng nhiều chi tiết dễ trầm trồ. Có nghĩa lý gì bất cứ cái chi tiết hay ho nào. Thành tựu đây là một người đã diễn được toàn thể cái cơn mơ cảm phi thường của mình ra thành chữ nghĩa cực kỳ gợi cảm. “Chùa Đàn” là một trận lên đồng văn chương của “người đi tìm cái đẹp”.

Tác phẩm của Khái Hưng có cái tên thật lãng mạn "Hồng bướm mơ tiên". Câu chuyện buồn ẩn chứa trong đó cũng lãng mạn như thế. Đọc văn Tự lực văn đoàn, tôi cảm tưởng như đang đọc một tác phẩm ngôn tình ngọt ngào. Đây là tiếng súng đầu tiên phát nổ trên văn đàn, đánh dấu sự tồn tại và bành trướng của các cây viết có lối suy nghĩ mộng mơ. Ngọc, một học sinh trong dịp nghỉ hè lên thăm người bác tu hành ở chùa Giáng Long và gặp Lan, một chú tiểu giả trai. Mới gặp, Ngọc đã thấy "Quái lạ! Sao ở vùng nhà quê lại có người đẹp trai đến thế, nước da trắng mát, tiếng nói dịu dàng trong trẻo như tiếng con gái." Có một điều gì đó khiến Ngọc cứ chú ý đến Lan, quyến luyến chú đến lạ thường. Ngọc nấn ná ở chơi chùa Long Giáng đã mười hôm, tình thân mật đối với chú tiểu Lan một ngày một thêm khăng khít, đến nỗi cả chùa sư cụ cho chí ông Thiện, bà Hộ, đều biết rằng hai người là một cặp tri kỷ, ý hợp tâm đầu. Biết Lan là con gái giả trai, Ngọc sung sướng, hạnh phúc ngập tràn. Với những lời có cánh, với trái tim chân thành, chàng thổ lộ tình cảm dạt dào đó. Nhưng đáp lại là lời từ chối thẳng thừng của Lan.Lấy bối cảnh tôn giáo làm nền cho tình yêu nảy sinh, Khái Hưng muốn khẳng định sự tôn thờ tôn giáo chăng? Lan dằn xé giữa tình yêu con người và tình yêu tôn giáo. Cuối cùng, cô chọn tôn giáo, gạt bỏ tình yêu cá nhân "Ta rất có tội với đức Phật tổ", "Thế nào cũng phải lánh xa nơi trần tục!". Một cái kết buồn với Ngọc và khiến tim ai cũng xót xa. Nhưng âu cũng là do duyên số. Tác phẩm xứng đáng là một tiểu thuyết lãng mạn dễ đi sâu vào lòng người. Tuy không quá dài nhưng nó cũng đã có được một chỗ đứng vững chãi trên văn đàn.

Dế mèn phiêu ký của Tô Hoài là câu chuyện gắn bó với tuổi thơ của trẻ em. Hành trình phiêu lưu và cũng là quá trình trưởng thành của Dế Mèn - từ một cậu dế hấp tấp, háo thắng, xốc nổi, k biết sợ ai trở thành chú dế điềm đạm, chín chắn, biết ước mơ và hành động, hiểu sự đời. Mỗi một bước trong cuộc hành trình của Dế Mèn và Dế Trũi lại gặp những người, vật khác nhau, biết thêm những sự đời, hoàn cảnh khác và gửi gắm một bài học sâu sắc không chỉ cho dế mèn mà cả đối với mỗi bạn đọc. Dế Mèn vốn tính bướng bỉnh, kiêu ngạo, cậu rất tự hào về sức khỏe của mình với đôi càng mẫm bóng, những cái vuốt cứng dần và nhọn hoắt. Chính vì thế mà Mèn không coi ai ra gì, coi thường kẻ yếu. Một lần do tính xốc nổi nên Mèn chuốc thù với chị Cốc mà không biết mình đã gây họa khiến Dế Choắt chết oan. Dế Mèn được dạy một bài học sâu sắc về thái độ sống. Từ đó Mèn đã thay đổi, trở thành một chú dế tốt bụng, thấy chuyện bất bình chẳng tha. Mỗi bước đi trong cuộc hành trình của Dế Mèn và Dế Trũi càng khiến cậu trưởng thành hơn, tâm niệm sâu sắc nhiều bài học quý báu trong cuộc sống như bài học về tình bạn chân thành, lòng tốt, sự đoàn kết, ý thức kỷ luật,... Ai trong chúng ta cũng từng là đứa trẻ hiếu thắng, xốc nổi, bồng bột và mắc sai lầm. Thế nhưng chính những sai lầm ấy, những trải nghiệm trong cuộc sống sẽ giúp ta thay đổi thái độ với cuộc sống, dần dần trưởng thành hơn.