“Chùa Đàn” có thể nói là tập tiểu thuyết ngắn đỉnh cao của Nguyễn Tuân (nếu bỏ đi phần cuối truyện nhà văn viết những câu cưỡng ép để phù hợp với thời thế). “Chùa Đàn” là kết tinh của những truyện ngắn trong “Vang bóng một thời”, từ cái chí khí của ông Huấn Cao ở “Chữ người tử tù”, cái mê đắm ở “Thả thơ” hay “Đánh thơ”, cái rùng rợn ở “Bữa tiệc máu”, cái tiếc nuối ở “Chén trà trong sương sớm”, cái ma quái ở “Báo oán”…v…v…  Bởi thế “Chùa Đàn” gợi cho người đọc nhiều thang bậc cảm xúc như nghe một khúc nhạc cổ quái, vừa linh dị lại vừa siêu thoát, vừa tịch liêu lại vừa đắm đuối. Giải mã “Chùa Đàn” không đơn thuần là giải mã biểu tượng mà là tìm hiểu cái chí của nhà văn ẩn giấu các hình tượng nhân vật và các câu miêu tả bằng thứ bút lực siêu phàm.

“Chùa Đàn” kể về Lịnh, người tù có những khí chất và thói quen đặc biệt. Lịnh ẩn giấu trong mình những tâm tư sâu kín, những nỗi đau được chôn chặt sau vẻ ngoài lãnh đạm. Lịnh đã giao lại cho nhân vật tôi một tập ghi chép có tên “Tâm sự của nước độc”. Tập ghi chép này kể một câu chuyện ma quái ở ấp Mê Thảo, về cậu chủ đau lòng đắm chìm trong rượu khi người vợ trẻ qua đời, về Bá Nhỡ – người quản gia tài năng đã dồn toàn bộ tâm huyết của mình để chơi cây đàn ma những mong thức tỉnh cậu chủ, của cô Tơ – ca nương yêu cái đẹp của nghệ thuật và có tấm lòng tri âm với Bá Nhỡ. Đây là hình thức truyện ở trong truyện, đưa chúng ta vào các tầng thực tại khác nhau: từ thực tại của hiện thực (nhà tù) đến thực tại của quá khứ (ấp Mê Thảo), từ thực tại của chí khí anh hùng đến thực tại của nỗi đau, từ thực tại của cái đẹp đến thực tại tại của sự rùng rợn.

“Chùa Đàn” được chia làm ba phần: Dựng – Hát nói – Mưỡu cuối, cấu trúc của một khúc ca trù.

Phần Dựng tập trung vào việc xây dựng nhân vật Lịnh – người tù số 2910, một điểm sáng giữa cảnh tù đày chốn núi rừng. Lịnh gợi cho ta nhớ đến cái khí phách của Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”, lại phảng phất thái độ ngạo nghễ của bậc anh hùng chẳng may sa cơ thất thế thường thấy trong “Thủy Hử truyện”. Lịnh chính là hậu thân của Lãnh Út, cậu chủ trẻ tuổi của ấp Mê Thảo. Phần truyện về ấp Mê Thảo được ghi lại trong phần “Tâm sự của nước độc”, tựa đề tập hồi ký của Lịnh – Lãnh Út. Lãnh Út từ ngày mất vợ không quan tâm đến chăm lo cho ấp Mê Thảo, chỉ say sưa rượu chè và chìm đắm vào nỗi đâu. Toàn bộ công việc của ấp đều do Bá Nhỡ cai quản. Bá Nhỡ thường xuyên mời gánh hát ca trù để giúp vui cho Lãnh Út, nhưng bất thành. Cô Tơ là ca nương yêu thích nhất của Lãnh Út, nhưng từ khi chồng cô chết, cô không đi hát nữa. Bá Nhỡ đến tận nơi mời Cô Tơ thì mới biết rằng người chồng đã để lại lời nguyền về cây đàn của ông. Cô Tơ chỉ được đi hát khi nào có ai chơi được cây đàn ma ấy. Đã từng có người chơi cây đàn ma này mà bị vật cho tàn phế. Bá Nhỡ sẵn sàng luyện lấy ngón đàn và chấp nhận chơi cây đàn ma. Một chầu hát bất hủ đã diễn ra cùng lúc với cái chết rùng rợn của Bá Nhỡ.

Đây là phần hay nhất của “Chùa Đàn”, thậm chí, người ta còn muốn tách riêng “Tâm sự của nước độc” để tạo ra một tuyệt phẩm hoàn hảo. Mưỡu cuối là một phần hết sức vô duyên được thêm vào cho hợp với thời đại Cách mạng và để tránh những cuộc đấu tố chính trị. Mặc dù Khái Hưng, thủ lĩnh của Tự lực Văn đoàn thuở nào hoàn toàn phủ nhận phần Dựng và Mưỡu cuối, tôi vẫn cho rằng phần Dựng khiến cuốn tiểu thuyết có độ dầy về cấu trúc hơn, nhưng phần Mưỡu cuối thì thật sự đã làm những ai đang bay bổng cùng cái đẹp bỗng nhiên rơi tụt xuống. Nhưng thôi, dù sao Mưỡu cuối cũng chỉ là phần thêm vào. Người đọc có thể chỉ cần đọc phần Dựng và “Tâm sự của nước độc”, thậm chí cực đoan hơn, cũng chẳng cần đọc luôn cả phần Dựng làm gì.

Cuốn tiểu thuyết tập hợp một nhóm biểu tượng đại diện cho sự đeo đuổi nghệ thuật. Chính sự tập trung vào một nhóm biểu tượng nhất định chứ không dàn trải nên tôi mới nhận định rằng đây là cuốn tiểu thuyết nói lên cái chí của nhà văn. Cái chí ở đây không phải là hùng tâm tráng chí của người muốn làm việc lớn mà là cái chí của một kẻ đeo đuổi nghệ thuật muốn đạt đến sự hoàn mỹ – một thứ mặc cảm Pygmalion thường thấy của các nghệ sĩ.

Đầu tiên phải nói đến cái tên “Chùa Đàn”. Chùa này không thờ Phật, không thờ Thánh mà là thờ đàn – một biểu tượng cho nghệ thuật. Không phải là đền (đền thường thờ Thánh, những vị thần có quyền năng trấn giữ một địa phương hay có công với dân chúng), vì đền không siêu thoát. Chùa là nơi vừa tôn nghiêm, vừa thoát tục (ở đây muốn nói đến khái niệm “chùa” chứ không nói đến những ngôi chùa ô trọc hiện nay). Nghệ thuật đỉnh cao trong tâm tưởng của Nguyễn Tuân vừa nghiêm cẩn lại vừa thoát tục. Bởi thế, cây đàn được thờ cũng là thứ không phải kẻ phàm phu tục tử nào cũng có thể chạm vào. Chỉ có người với cái tâm vô dục vô cầu và sự trân trọng với cái đẹp, sự truy cầu cái hoàn hảo mới có thể chạm vào. Bởi thế, chùa Đàn như một thánh đường thiêng liêng tôn thờ cái đẹp vậy.

Ca trù là loại hình hát nói đặc trưng của đất Kinh Kỳ. Tuyến truyện đều xoay quanh những người đắm đuối với ca trù – đại diện cho sự đắm đuối với cái đẹp. Ca trù không đơn điệu như các loại hình dân gian, cũng không phô trương như nhã nhạc cung đình. Ca trù là thú chơi của tầng lớp nhà Nho tài tử thời trung đại và của tầng lớp trung lưu thời trước năm 45. Những biến đổi chính trị trong mấy năm 45, 46 của thế kỷ 20 đã khiến cho văn hóa ca trù này đột ngột bị gián đoạn. Nguyễn Tuân viết tác phẩm vào thời gian này, nên cái không khí ca trù mà đến những năm 40s vẫn còn xôm tụ (được ghi lại trong “Một chầu hát không tiền khoáng hậu” của Vũ Hoàng Chương sau này), đến lúc bấy giờ chỉ còn là “một thời vang bóng”. Thế nên ca trù xuất hiện trong “Chùa Đàn” đều mang sắc màu của ký ức, của sự nhớ nhung: Lịnh đi tù không nghe hát nữa, cô Tơ không được cất lên tiếng ca của mình, các tù nhân đều chờ đợi được nghe một chầu hát…

Mặc dù bối cảnh trong truyện không hoàn toàn gắn liền với xã hội năm 45 – 46, nhưng tác phẩm lại được viết trong thời gian này, nên cái nhớ của người tù Lịnh, của cô Tơ lại đồng nhất với cái nhớ của Nguyễn Tuân chăng. Nhớ ca trù, thực ra là nhớ sự hào hoa của chốn kinh kỳ Hà Nội, nơi mà lúc nào cũng “dập dìu tài tử giai nhân”. Nỗi nhớ không khí Hà Nội ấy ở Nguyễn Tuân còn được Tô Hoài ghi lại trong tập hồi ký “Cát bụi chân ai”, khi hai ông đi uống cà phê dạo ở phố cổ để lấy chút không khí về cái nếp sống xưa kia. Có lẽ, khi viết “Chùa Đàn”, Nguyễn Tuân đã mơ hồ cảm thấy những gì đẹp đẽ cũng đang dần mất đi cùng thời thế. Vậy nên, dù ông có cố gán ghép của Lịnh một thứ lý tưởng Cách mạng mơ hồ ở phần Mưỡu cuối thì cũng không thể che giấu được cái sự tiếc nuối ấy.

Ấp Mê Thảo cũng là một biểu tượng. Cái tên của ấp đọc lên gợi cho ta cảm giác liêu trai. Nếu diễn giải từ cái tên “Mê Thảo”, ta có thể mường tượng nó ám chỉ cho một vùng thôn dã nửa là cõi thực, nửa là cõi mê. Mê Thảo là nơi hoang sơn dã lĩnh. Từ cậu chủ Lãnh Út và người dân nơi này đều tránh xa nền văn minh (Nỗi đau mất vợ đã khiến Lãnh Út thù ghét mọi loại máy móc), một nơi có thể nói là “đáy thời gian một đời sống trung cổ”. Nguyễn Tuân đã tả không khí ấp Mê Thảo như thế này:

“Ở đấy, giờ người ta sưởi cho tằm bằng than gỗ và tiết nóng nực có những đứa trẻ chuyên môn cầm quạt giấy phẩy phất cho tằm. Ông chủ ấy không mặc đồ len vải có chỉ máy khâu nữa. Ông đã mặc thứ vải chàm của thổ dân gần vùng dệt tay, giặt giũ bằng nhựa trái bồ hòn, đêm đọc sách bằng sức sáng của dầu ép. Lúc giải trí, đi săn cầy bắn chim thì ông chủ ấp thù văn minh cơ khí đó đã có một đàn chó dày lông, một cái nỏ và cái bẫy”.

Lãnh Út còn hay cho dân phu đi đánh các cây cổ thụ về để trồng trong ấp, góp phần tạo nên một không khí cổ quái. Đó là còn chưa kể những hố ủ rượu của Bá Nhỡ mà khi nhìn qua người ta có thể tưởng tượng rằng đó là những tiểu sành chôn người chết. Ấp Mê Thảo là một thực tang thương và rùng rợn. Trong thực tại ấy, chỉ những người như Lãnh Út và Bá Nhỡ (có thể là cả mợ Lãnh nữa) mới có thể thấu hiểu nhau và cảm thương nhau. Khi tả về ấp Mê Thảo, Nguyễn Tuân đưa ta vào cái cảm giác rùng rợn. Ta những tưởng rằng câu chuyện ghê rợn sẽ xảy ra ở ấp Mê Thảo, một hồn ma nào đó sẽ hiện về, một vụ thảm sát sẽ tắm máu nơi đây… Nhưng không, sự ghê rợn ấy kéo dài dai dẳng trong bóng tối, và chỉ có tình yêu với đàn hát của Bá Nhỡ và Lãnh Út là điểm sáng cho nơi đây. Ấp Mê Thảo là thực tại biểu hiện cho tâm trí của một kẻ chán chường, cho những đau thương không thể xoa dịu.

Nhà tù lại giống một chốn khổ tu. Không phải những nhà tù đau khổ trong “Bá tước Monte Cristo” (Alexandre Dumas) hay “Chuyện kể năm 2000” (Bùi Ngọc Tấn), nhà tù trong “Chùa Đàn” là nơi mà Lãnh Út hóa thân thành Lịnh với lối sống thanh bạch, vừa để hối lỗi, vừa để luyện tâm. Trong cuộc khổ tu ấy, sự tiếc nhớ với đàn hát vẫn trỗi dậy khi anh nghe tiếng gió va nhau, khi có người chèo kéo anh thưởng thức một chầu hát. Lý tưởng dường như cũng không đè nén được cõi lòng đắm đuối vì cái đẹp của anh. Anh có thể khước từ mọi thú vui trong cuộc khổ tu, nhưng nhạc vẫn luôn cất lên trong lòng anh vậy.

 

 

Nếu Lịnh gợi cho ta nhớ đến những chàng thư sinh nhạy cảm, thấu hiểu được vẻ đẹp của nghệ thuật, của thiên nhiên, có những chuẩn mực mang tính lý tưởng trong đời sống, thì Bá Nhỡ và cô Tơ là đại diện cho người nghệ sĩ chân chính. Bá Nhỡ vì trốn án giết người mà chạy lên Mê Thảo, một lòng chăm lo cho Lãnh Út trong những ngày đau thương. Bá Nhỡ đến với cây đàn ma không phải chỉ một lòng cứu Lãnh Út mà còn vì thực sự muốn được đàn một khúc toàn thiện toàn mỹ cho xứng tầm với cây đàn của một thầy đàn cự phách. Bá Nhỡ là một kẻ không chút sợ hãi với cái chết, sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình để đạt được đỉnh cao của nghệ thuật. Đó không phải là người nghệ sĩ đích thực hay sao?  Cô Tơ lúc nào cũng nhớ nhung với nghề, rung động bởi âm nhạc và cảm nhận cái chết đang đến dần với Bá Nhỡ mà cất lên tiếng hát. Đó chẳng phải là người nghệ sĩ đích thực hay sao? Chầu hát hôm ấy đã đạt đến tính nghi lễ thiêng liêng tại thánh đường nghệ thuật chùa Đàn:

“Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian. Nó nghẹn ngào, liễm kết cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết được ra. Nó là một nỗi ủ kín bực dọc bưng bít. Nó giống như cái trạng huống than thở của một cảnh ngộ vô tri âm. Nó là cái tấm tức sinh lý của một sự giao hoan lưng chừng. Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó là cái dư ba của bể chiều đứt chân sóng. Nó là cơn gió chẳng lọt kẽ mành thưa. Nó là sự tái phát chứng tật phong thấp vào cữ cuối thu dầm dề mưa ẩm và nhức nhối xương tủy. Nó là cái lả lay nhào lìa của lá bỏ cành. Nó là cái lê thê của nấm vô danh hưu hưu ngọn vàng so le. Nó là cái oan uổng nghìn đời của cuộc sống thanh âm. Nó là sự khốn nạn khốn đốn của chỉ tơ con phím. Nó là một chuyện vướng vít nửa vời.

Tiếng đôi lá con cỗ phách Cô Tơ dồn như tiếng chim kêu thương trên dậm cát nổi bão lốc. Nhiều tiếng tay bangwnfg gục xuống bàn pahcsh, nghe tàn rợn như tiếng con cắt lao mạnh xuống thềm đá sau một phát tên. Tay phách không một tiếng nào là nhụt. Mỗi tiếng phách sắc như một nét đao thuận chiều. Và gõ đến thế thì thật là đem cái vinh quang đến cho tre cho trúc và tạo cho thảo mộc một tấm linh hồn. Dưới mười ngón tay hoa múa dẻo quánh, tre trúc bật nẩy lên vì thỏa thích. Đàn và hát dắt nhau mà lướt bổng. Cậu Lãnh Út mềm tay roi, càng mê tơi đi vì tơ trúc ríu ran. Chưa hồi tỉnh cuộc rượu của ấp, cậu lại tự bồi thêm trận rượu của đêm nhạc.”

Và trong nghi lễ âm nhạc ấy còn có cả sự hiến tế – hiến mình cho âm nhạc, cho cái đẹp bằng tấc lòng đeo đuổi sự toàn hảo mà không chút tham luyến. Một chầu nhạc dù tuyệt mỹ có thể kết thúc mà không hề để lại chút dấu vết nào. Thế nhưng ai cũng hết mình cho cái khoảnh khắc đẹp đẽ mà hư vô ấy. Thậm chí, Bá Nhỡ còn chấp nhận chấp dứt sinh mệnh để đổi lấy nó. Tại sao? Những kẻ dân thường ở ấp Mê Thảo sẽ không thể hiểu được điều này, người đời khó có thể hiểu được điều này. Chỉ có ai nuôi cái chí vượt lên khỏi những tầm thường của đời sống vật chất, truy cầu sự vươn cao của tinh thần mới hiểu được lẽ ấy. Họ nhận thức được rằng cái xác phàm không quan trọng bằng sự siêu tuyệt của tinh thần. Trong cuộc hiến tế của nghi lễ âm nhạc ấy, Bá Nhỡ đã tử vì đạo, đã đắc được cái đạo của cái đẹp, cái đạo của nghệ thuật vậy.

 

 

Lãnh Út đã gọi tên tập hồi ký của mình là “Tâm sự của nước độc”. “Nước độc” là cái gì? Dân uống rượu thường gọi vui rượu là một thứ “nước độc”. Nhưng gọi bằng “rượu” thì lộ quá, mà lại hạn hẹp về nghĩa. Khái niệm “nước độc” gợi hơn. Nghệ thuật và cái đẹp được coi như một thứ “nước độc”, có thể làm say người cũng có thể giết người, nhưng người ta vẫn ham mê, vẫn sẵn sàng hiến thân vì nó. Bởi thế, với nghệ thuật, người thường vừa thích thú lại vừa e dè, sợ hãi.  “Tâm sự của nước độc” là tâm sự của người yêu nghệ thuật, dám thưởng thức thứ độc hại mà tuyệt vời ấy, mà cũng dám hiến thân mình để tạo ra thứ “nước độc” ấy.

Cái chí của Nguyễn Tuân là thế đó! Không phải vì dân vì nước, không phải vì tự do, mà vì muốn được một lần rút cạn sinh mệnh của mình để tạo ra tuyệt tác.

Tiếc thay, Nguyễn Tuân vẫn chỉ là một người kể chuyện chứ không thể chạm đến “cây đàn ma” của văn chương. Ông sợ quá nhiều thứ. Ông không có cái dũng khí của Bá Nhỡ. Tự ông đã làm mất đi sự hoàn hảo mà “Tâm sự của nước độc” có cơ hội đạt đến, chỉ để sinh tồn. Người đọc trách ông vì điều ấy cũng không oan. Nhưng người đọc cũng phải cảm ơn ông vì ông không tách bạch rõ ràng những vỏ ngụy trang để sinh tồn và cái chí của người yêu nghệ thuật để người đọc có thể biết được đâu là ông, đâu là mặt nạ của ông.

Suy cho cùng, cái đau của người làm nghệ thuật thời ông và cho đến tận thời nay ở đất Việt Nam này, đó là sự tranh chấp nhau giữa tấc lòng mình và cái mặt nạ. Nếu Nguyễn Tuân dám viết về điều này, có lẽ tầm cỡ của ông đã ở một mức khác. Nhưng thôi, tiếc vẫn chỉ là tiếc mà thôi. Dù gì, “Chùa Đàn” vẫn là một tác phẩm hiếm hoi mà bất cứ ai truy cầu nghệ thuật đều nên đọc, để thấu được cái lẽ của đạo nghệ thuật, để tìm thấy chút đồng điệu như Khái Hưng đã nhận xét: “Đoản thiên ấy, tuy chỉ là một đoản thiên, cũng an ủi làng văn chúng ta được đôi chút trong cái thời sáng tác trụy lạc này.”

 

Nguồn: bookhunterclub

------

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về các cuốn sách hay tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn/

Trở thành CTV viết reviews sách để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị cùng Bookademy, gửi CV (tiếng Anh hoặc Việt) về: [email protected]

 

 

Xem thêm

Phần đầu của “Chùa Đàn” dựng cái duyên cớ khiến một người phải kỳ công đi rước cho được một tiếng hát về để cho một người nghe. Vì mới là "nền", nên chưa chứa bao nhiêu "lời (đẹp đến mức) yêu quái". Sau đây chỉ nên coi như chút tín hiệu để báo trước cơn "yêu ngôn" sẽ đến:

"Giấy tranh bồi cọ loạt soạt vào tường phòng vắng rộng… Màu xanh tái của tranh gia thêm xa lạ vào khí buồng rộng quạnh và đổ thêm buồn lên vẻ nhớ vợ của người ngắm tranh… Cậu Lãnh khóc to dần mãi lên, gợi đến cái thống khổ của toàn thể một đám chuyển cữu… Rồi tiếng khóc vụt rống lên in hệt cái tiếng người rừng - mình mẩy mọc lông móng chân móng tay hoá ra vuốt - bỗng phẫn nhớ đến nhân loại bị xa cách lâu ngày. Cơn khóc rống đã đổi sang thành tiếng hú hồn. Gió hiu hiu trên nương dâu, kéo lê thê những tiếng thảm rợn ấy xuống những vùng phụ cận thấp xa... Cỏ gò chôn rượu bừng dậy chật xanh bóng thạch sương bồ... Những tiếng chìm chìm sương rừng gieo xuống những tiếng đục đục loài kim khảo ruột loài thổ... Ánh sáng thản nhiên của bạch lạp tỏa quanh áo tang khăn trắng người tửu đồ tình chủng đang vò võ đối mặt vào tranh lạnh.".

À, cái bài hò kéo cây gạo vặt hết "ta" với "dô ta" đi, cũng ngộ:

"Một ngày đã ngả bóng dâu

Trở về ấp Thảo tưới dâu chăn tằm...

Rừng thiêng ngả cỗi sơn lâm

Lần lừa ấp Thảo trông tằm thương dâu

Con người rút ruột con sâu

Đem tơ trả miếng lá dâu xót lòng.".

Cái ông nhà văn ngồi đung đưa "trên chiếc võng đay trong ngôi nhà của bà Chu ở Bần Yên Nhân" hí hoáy viết Chùa Đàn, ông ấy đã giác ngộ cách mạng rồi mà còn..., nhỉ. Ờ, thì cũng mới..., chẳng viết cho xong “Chùa Đàn”, sao gọi được là đoạn tuyệt có hậu với những cái "Vang bóng một thời".

Khía Cạnh Nhân Bản – như đã sơ lược, truyện gồm có ba nhân vật chính: Lãnh Út chủ ấp, Bá Nhỡ quản gia và cô Tơ đào hát. Các nhân vật đều đã được Nguyễn Tuân xây dựng bằng những nét kỳ quái cho phù hợp với không khí ma quỷ: Lãnh Út, một chủ đồn điền còn trẻ, vợ chết trong một tai nạn xe lửa lật xuống vực khiến y trở nên thù ghét cơ khí máy móc. Lãnh đã vứt bỏ, bán tống táng hết những đồ đạc do nền văn minh cơ khí sản xuất ra như ô tô xe đạp, máy bơm nước, máy chữ… để trở về thời trung cổ chỉ vì quá thương yêu vợ, cậu đã trở thành kẻ thù của nền văn minh cơ khí.

Bá Nhỡ có liên hệ một vụ giết người ở dưới Trung Châu, bị kết án tử hình, vợ Lãnh Út đã đưa Bá về Mê Thảo đổi lại lý lịch cho làm quản gia. Cảm cái ơn cứu tử của Lãnh nên Bá đã hết sức trung thành ra sức cứu vãn ngày tận thế của ấp Mê thảo. Bá quán xuyến mọi việc sổ sách, trồng dâu nuôi tằm. Không những thế Bá còn lo cho cậu Lãnh Út tỉnh cơn điên dại vì thương cậu. Bá coi cậu như anh em ruột, Bá đã cứu vãn được ngày tàn của ấp Mê thảo mà còn cứu người chủ nhân vì lòng trung thành, vì tình thương.

Cô Tơ một góa phụ đoan chính, một danh ca có tình thương và căn tu. Mặc dù Bá nài nỉ nhiều lần nhưng vì đã trót thề giải nghệ nên đã không lên ấp Mê thảo hát cho cậu nghe. Cô quý trọng tài nghệ của Bá Nhỡ, cảm thông cho lòng trung thành của hắn nên cũng đã cố sức cứu mạng cho Bá: Một tối nọ cô nửa ngủ nửa mê thì chồng (Chánh Thú) hiện hồn về cho biết một ngày rất gần đây sẽ có người đến nghe cô hát, cứ để hắn lấy cái đàn ở bàn thờ mà gẩy, gẩy xong hắn sẽ lăn ra chết thế mạng cho ông dưới cung Thủy Tinh để ông đầu thai lên dương thế. Chánh Thú thần đàn hát cho Diêm Vương trong mười vương phủ tối tăm khổ lắm.

Khía Cạnh Quái Đản – Đây cũng là một đặc điểm chính của tác phẩm, “Chùa Đàn” đã nằm trong số những truyện ma quỉ của Nguyễn Tuân, một chuyển hướng mới của ông đi tìm cảm giác lạ. Đây là truyện quái đản cuối cùng của ông và phần lớn giá trị của truyện dựa trên tính chất ma quái kinh dị.

Khía Cạnh Nghệ Thuật – “Chùa Đàn” cũng là một đoản thiên chan hòa nghệ thuật đàn ca của nền âm nhạc ả đào cổ truyền của dân tộc.

“Tại ấp (đồn điền) Mê Thảo, Lãnh Út một chủ ấp còn trẻ, vợ bị chết trong một tai nạn xe lửa lật, quá thương vợ Lãnh Út đâm thù oán cơ khí máy móc. Cậu bán rẻ hay đem cho hết những sản phẩm của nền văn minh máy móc như ô tô, xe đạp, máy bơm nước, máy hát, máy chữ, lò cồn, đèn măng sông, súng săn… Khách đến chơi không được đem đến ấp những vật dụng về máy móc như đồng hồ, bật lửa, bút máy… vì vậy ấp đã vắng khách, làm ăn cũng kém hẳn đi, nay việc kinh tế chỉ trông vào trồng dâu, nuôi tằm.

Dân trong ấp than thở về ông chủ ngày càng khùng điên, gàn dở, uống rượu sáng đêm, ngày càng càn dỡ. Nay chỉ có Bá Nhỡ thông cảm chủ ấp Lãnh Út. Bá có họ hàng xa với vợ Lãnh Út, tòng phạm một vụ án mạng, bị kết án tử hình. Vợ Lãnh đã đưa Bá lên đây nhờ chồng làm giấy tờ giả cho Bá ẩn náu trong ấp. Bá Nhỡ chịu ơn Lãnh Út nên hết sức trung thành, Bá nay là quản gia quán xuyến mọi việc trong ấp, Bá cũng có tài đàn hát giỏi.

Lãnh Út thương vợ chết trẻ, buồn rầu, rượu chè, say sưa, sao nhãng việc sản xuất, có khi áp bức đánh đập dân trong ấp. Bá Nhỡ dàn xếp mọi việc êm thấm, nếu không có Bá ấp Mê Thảo đã tiêu tan rồi, vì thế người dân biết ơn quản gia Bá Nhỡ vừa chịu khó lại công bằng. Bá vừa lo phục hưng kinh tế ấp còn săn sóc tinh thần cậu Lãnh. Bữa rượu tối nào của Lãnh, Bá cũng ngồi hầu rượu, bình văn, ngâm thơ Đường, diễn lại truyện Tây Hán, Đông Chu hay gảy đàn. Có khi Bá dựng nhà rạp cho tìm các gánh hát về làm cho cậu Lãnh vui, nhưng cậu vẫn u sầu. Bá lo lắng cho ấp vì cậu Lãnh cứ thương vợ khóc lóc, rượu chè say sưa mãi có ngày ấp cũng tiêu tan. Ngày giỗ vợ, Lãnh Út khóc um lên, cậu uống rượu hết bình này sang bình khác, rồi cho đào rượu ở tửu phần lên, đây là khu mả rượu, Bá đã cất rượu rồi đem chôn ngoài gò.

Sau trận giỗ ấy, cậu Lãnh Út không khóc, chỉ ra mồ hôi tóc, cậu không nói nửa nhời, Bá Nhỡ càng lo, bèn đi tìm bọn con hát nhà nghề để cứu vãn cái tâm hồn đau khổ ấy. Phường chèo, hát đến diễn tuồng một hồi, cậu lại dở chứng bãi cuộc vui, không uống rượu nữa, đòi mua pháo đốt, tằm giật mình chết cả lứa vì tiếng pháo của người cuồng, dân ấp nhiều người bỏ trốn, Bá Nhỡ ngồi chờ ngày tận thế của Mê Thảo.

Cậu bây giờ lại thôi không uống, không khóc, không nghe đàn hát. Trông cậu ngày càng thê thảm, ngày đêm ngồi sừng sững như nhà sư nhập định, khối óc đã cầm cho tương tư. Bỏ rượu cả năm nay rồi một đêm mưa gió cậu đòi rượu. Bá vừa quán xuyến việc ấp còn lo cho cậu trở lại yêu đời, tục huyền với đời sống. Rượu vào cậu lại nhớ đến đàn hát, sai Bá đi tìm cô Tơ, một danh ca về hát cho cậu nghe, chỉ cho một người đánh đàn đi theo cô. Bá mừng rỡ đi tìm cô Tơ hy vọng chữa cho cậu hết bệnh tâm thần, Bá tìm cùng cả sau phải về tận quê cô Tơ và gặp cô ở một nếp nhà tranh vùng quê. Ông Chánh Thú chồng cô đã mất, cô Tơ bỏ tỉnh về quê vui việc đồng áng, Bá nài nỉ cô về hát cho Lãnh Út nghe, cô Tơ chối từ nói từ ngày chồng mất, cô giải nghệ, bây giờ hát sợ động vong hồn người xưa.

Bá ngủ nhờ tối ấy, hôm sau năn nỉ cô Tơ nhưng cô vẫn một mực chối từ, Bá tưởng cô không nhận lời vì cho là không có ai đàn cho xứng, Bá trước đây cũng là tay đàn điêu luyện. Về Mê Thảo Bá đón một người đàn giỏi về luyện lại ngón đàn cho mình, kiếm mua cây đàn đáy cũ rồi đến quê cô Tơ dạo thử một khúc cho cô nghe. Cô Tơ khâm phục ngón đàn ấy nhưng vẫn chối từ vì đã trót thề với tổ, Bá thật tình kể bệnh trạng cậu Lãnh ra cho cô nghe, cô cũng thật tình kể lại từ khi chồng chết đã thề không hát nữa, ai mà cầm cây đàn đáy của chồng gẩy sẽ gặp tai biến hay vong mạng.

Đàn làm bằng ván nắp cỗ quan tài một cô gái đồng trinh, như có yểm bùa, hồi chồng còn sống nó đã có nhiều chứng, nay chồng mất, gần ngày giỗ cây đàn ấy đổ mồ hôi phát ra những tiếng thở dài. Bá Nhỡ đòi xem cây đàn, vào đến gần bỗng một tiếng nổ tách, một sợi dây đứt, Bá thắp nhang thì bỗng các chân nhang cháy bùng lên, cô Tơ và Bá sợ tái mặt. Cô tơ nói năm ngoái có ông khách cũng sành đàn ôm cây đàn cũ ấy gẩy được vài khổ thì lăn đùng ra sau bị bán thân bất toại.

Bá Nhỡ về ấp suy nghĩ miên man, bỏ cả công việc, nghĩ rằng hễ cầm cây đàn của Chánh Thú là phải chết hay thân bại danh liệt, Bá cũng muốn đánh liều một bản rồi thác như con tằm rút ruột nhả tơ. Tự nhiên tóc Bá bạc hẳn đi, Bá và cậu Lãnh Út đối ẩm, hai người nay lại thân thiết nhau hơn.

Tối nọ cô Tơ mơ thấy chồng hiện về bảo sẽ có người sẽ đến lấy cây đàn ở gần bàn thờ gẩy, sau đó hắn sẽ chết sẽ thế mạng cho ông ở dưới cung Thủy Tinh. Ông sẽ đầu thai lên làm người dương gian, cô giật mình ghê sợ. Sau Bá Nhỡ lại đến, cô nhớ ra giấc mơ tối nọ bèn mời Bá uống nước rồi lẻn vào buồng khấn chồng tha mạng cho Bá Nhỡ, chờ người khác, nhưng Chánh Thú không thuận.

Một hôm Bá lại tới quê tìm cô Tơ, hắn đòi ôm cây đàn bên bàn thờ đánh mấy khúc và xin chịu mọi oan khiên xảy ra. Hắn cương quyết cầm cây đàn đó và nói cậu Lãnh Út sẽ đi võng xuống đây để cầm trống chầu, và rồi cậu đã tới.

Bá vào buồng ôm đàn ra, cậu Lãnh Út cầm chầu, cô Tơ hát nhưng trong lòng như người mất hồn, tiếng đàn của Bá thật đau khổ ngậm ngùi, nhức nhối. Tiếng hát cô Tơ, tiếng đàn Bá Nhỡ dắt nhau mà lướt bổng, Bá Nhỡ nhận thức mình đang chết dần, mười đầu ngón tay chảy máu, quần áo Bá dần dần đỏ như vóc đại hồng, máu trong người Bá cứ thấm ra ngoài. Mỗi tiếng đàn là một miếng thịt nẩy ra, cô Tơ rùng mình, tiếng đàn hát như đang sa lầy trên bãi sình mênh mông. Bỗng dây đàn đứt phựt bắn vào mặt cô Tơ, khi ấy tiếng hát cô như mọc cánh bay lên, tiếng trống chầu lợi hại, cậu đang ngủ cái thôi miên của âm nhạc.

Trong buồng có tiếng cười trên bàn thờ Chánh Thú, bát hương vỡ đôi lăn xuống đất kêu một tiếng soảng, cô Tơ hiểu đó là điều linh thiêng. Bá Nhỡ ngày càng ốm yếu sa sút vì mất máu rồi bỗng gục xuống sàn lạnh ngắt, cô Tơ oà lên khóc, đỡ xác Bá Nhỡ, vuốt mắt cho y, chiếc đàn tự nhiên nổ tung vỡ tan ra đất. Lãnh Út ngủ ngồi bên xác tới hôm sau, khi tỉnh giấc Lãnh đặt thi thể Bá vào võng cho người khiêng đưa về Mê thảo, cô Tơ lẽo đẽo theo sau. Bá Nhỡ được hạ thổ lúc xế chiều, tửu phần bị khai quật, Lãnh Út vứt bó đuốc vào gò rượu khiến phát hoả, thảo mộc chim muông bị say lây, Lãnh thề bỏ rượu, đàn hát.

Một năm sau, chùa Đàn mọc lên ở ấp, cô Tơ giữ việc kinh kệ, Lãnh Út bán ấp, giữ lại hai mẫu nơi dựng chùa Đàn.”.

Nguyễn Tuân sinh 10-7-1910, mất ngày 28-7-1987 tại Hà Nội.

“Chùa Đàn” là truyện ma quỷ của Nguyễn Tuân viết vào năm 1945 đã được một số nhà phê bình coi như tác phẩm đặc sắc nhất của ông, có người nói đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật. Truyện đã được tái bản tại Sài Gòn trước năm 1975. Sau ngày Việt Minh cướp chính quyền tại Hà Nội, Nguyễn Tuân “giác ngộ cách mạng” bèn viết thêm một phần mở đầu gọi là Dựng và một phần kết gọi là Mưỡu Cuối để biến câu chuyện thành một tác phẩm “văn chương vô sản” do Quốc Văn xuất bản tại Hà Nội 1946.

Năm 1947 “Chùa Đàn” được nhà xuất bản Tân Việt in lại tại Sài Gòn.

Sau khi Nguyễn Tuân viết thêm, “Chùa Đàn” viết năm 1945 đã trở thành phần thứ hai và được gọi là “Tâm Sự Của Nước Độc”.

“Chùa Đàn” viết 1945 đã được quay thành phim “Mê Thảo Thời Vang Bóng” năm 2002, đạo diễn Việt Linh.

Trước hết chúng tôi xin đề cập tới “Chùa Đàn” viết năm 1945, phần tác giả viết thêm sẽ đề cập sau.

“Chùa Đàn” nay đã được in lại trong tập III, bộ “Nguyễn Tuân Toàn Tập”, nhà xuất bản Văn Học năm 2000, bìa cứng rất đẹp và trang trọng. Truyện cũng đã được in lại trong cuốn “Yêu Ngôn” của Nguyễn Tuân, truyện ngắn do nhà xuất bản Hội Văn Hà Nội ấn hành năm 1999.

Nói về truyện quái đản nổi tiếng trên thế giới phải kể đến những đoản thiên của Edgar Allan Poe, một thi sĩ, văn sĩ cổ điển Mỹ (1809-1849), truyện nổi tiếng nhất của ông là “The Fall Of The House Of Usher” (1839), có người dịch là “Giọt Máu Cuối Cùng Dòng Họ Usher”, chắc nhiều quý vị đã đọc qua. Nhà thi hào Pháp Charles Baudelaire (1821-1867) đã dịch các truyện của Edgar Poe trong cuốn “Les Histoires extraordinaires d’Edgar Poe” (“Những chuyện quái đản của Edgar Poe”), đây là một trường hợp đặc biệt, bản dịch lại được người ta coi là hay hơn bản chính.

Tại Á Đông chúng ta phải kể Bồ Tùng Linh (1644-1715) với bộ truyện ma quỷ lừng danh “Liêu Trai Chí Dị” (1670-1707) đã làm say mê nhiều thế hệ đã qua với màu sắc, không khí quái đản của đông phương. Tác phẩm này đã được nhiều người hâm mộ từ thế kỷ 17 đến nay.

Nguyễn Tuân chịu ảnh hưởng của truyện ma quỷ “Liêu Trai”, vào năm 1943 ông viết một số truyện ma theo lối Bồ Tùng Linh đăng trên các tờ Thanh Nghị và Trung Bắc chủ nhật, hết sức hoang đường, kỳ quái. Hồi ấy tác giả đã có ý định thu thập các truyện quái đản trên để in trong một tuyển tập lấy tên là “Yêu Ngôn” nhưng vì chiến tranh bùng nổ nên công việc đã phải bỏ dở. Năm 1999 nhà nghiên cứu văn học trong nước Nguyễn đăng Mạnh đã thu thập những đoản thiên ma quái ấy để in thành tập “Yêu Ngôn”, nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành gồm: “Khoá Thi Cuối Cùng”, “Trên Đỉnh Non Tản”, “Đới Roi”, “Xác Ngọc Lam”, “Rượu Bệnh”, “Lửa Nến Trong Tranh”, “Loạn Âm”, “Tâm Sự Của Nước Độc” (tức “Chùa Đàn”), Nguyễn Mạnh Đăng có nhận xét như sau:

“Nhưng Nguyễn Tuân tìm vào thế giới yêu ma có lẽ còn do một yêu cầu khác. Con người này luôn thèm khát những cảm giác mới lạ và mãnh liệt. . . . những cảm giác ấy, Nguyễn Tuân không thể tìm được trong cái môi trường vẫn vây bọc lấy ông trong cuộc sống hàng ngày mà ông chỉ thấy là lèm nhèm, lẹt đẹt và xám xịt”.

Vào những năm 1943, 1944, 1945 Nguyễn Tuân đã chuyển hướng từ tùy bút sang viết những truyện ngắn ma quỷ như trên và “Chùa Đàn” viết năm 1945 là truyện quái đản cuối cùng của ông. Nó cũng là tác phẩm thuần túy văn chương cuối cùng của tác giả vì sau đó theo Cộng Sản, ông đã trở thành cây bút phục vụ tuyên truyền cho chế độ. Từ thập niên 80 về trước “Chùa Đàn” đã bị coi như loại văn nghệ duy tâm phản động, nay với tinh thần đổi mới tư duy, trong nước người ta đã đánh giá lại “Chùa Đàn” và đã đề cao giá trị của tác phẩm như sau.

“Nhiều độc giả ái mộ và am hiểu văn chương Nguyễn Tuân đã đánh giá “Chùa Đàn” là tác phẩm đặc sắc nhất của nhà văn. Trong các sáng tác của mình, nhà văn Nguyễn Tuân biểu lộ một tài năng sáng tạo đặc biệt. Mỗi công trình nghệ thuật đều in đậm dấu ấn đỏ chói của ông, không thể lẫn với một ai khác, không một người nào khác mô phỏng được. Với “Chùa Đàn”, tài năng sáng tạo của nhà văn đã vươn tới thượng đỉnh”.

( Hoàng Như Mai – Tác phẩm “Chùa Đàn” Của Nguyễn Tuân.)

Hoặc:

“. . . Tất nhiên ‘Chùa Đàn’ là một hiện tượng độc đáo và phức tạp. Đọc ‘Chùa Đàn’ phải thấy Lãnh Út,. . . Bá Nhỡ hay cô Tơ, những nhân vật tài hoa nghệ sĩ ấy, tất cả đều là Nguyễn Tuân”.

(Nguyễn Đăng Mạnh – Đọc Lại “Chùa Đàn” Của Nguyễn Tuân.)

Bàn đến khía cạnh nghệ thuật của Nguyễn Tuân, nhà biên khảo Nguyễn Mạnh Đăng có viết: “Những đoạn văn như thế, phi Nguyễn Tuân, chắc không ai viết được. Bởi vì trong giới cầm bút, ai sành sỏi được như Nguyễn Tuân về các ngón nghề của hát ả đào, của cây đàn đáy, của chiếc trống chầu…”. Nguyễn Tuân đã đưa toàn bộ kiến thức uyên bác về nghệ thuật hát theo lối ả của mình vào trong tác phẩm khiến nó đậm chất thơ trong từng câu chữ. Ngay cả khi ông điều chỉnh lại kết cấu của tác phẩm thì ba phần Dựng – Tâm sự cùng nước độc – Mưỡu cuối cũng là một ngụ ý của tác giả để thể hiện đúng cấu trúc ba phần của ca trù.

Có ý kiến đánh giá việc thêm hai phần đầu cuối khiến Chùa Đàn mất đi ít nhiều vẻ đẹp tự thân của nó. Tuy nhiên, không thể phủ định đây là một trong những tác phẩm thể hiện hết phong cách văn chương đặc sắc của Nguyễn Tuân.

Xin được kết lại bài viết bằng nhận định của Giáo sư Hoàng Như Mai: “Trong các sáng tác của mình, nhà văn Nguyễn Tuân biểu lộ một tài năng sáng tạo đặc biệt. Mỗi công trình nghệ thuật đều in đậm dấu ấn đỏ chói của ông, không thể lẫn với một ai khác, không một người nào khác mô phỏng được. Với 'Chùa Đàn', tài năng sáng tạo của nhà văn đã vươn tới thượng đỉnh”.

Đọc “Chùa Đàn”, ta bắt gặp một Lãnh Út ngày ngày chìm đắm trong đau thương và rượu bởi cái chết của vợ sau vụ tai nạn tàu hỏa. Từ đó, anh thù ghét máy móc, anh cấm tất cả mọi người trong ấp Mê Thảo không được sử dụng vật dụng liên quan đến khoa học hiện đại.

Ta gặp cả một Bá Nhỡ, người quản gia trung tín vốn nhờ vợ chồng Lãnh Út mà thoát khỏi án tử hình vì tội giết người, thế nên hết lòng cung phụng chủ ấp. Đến một ngày, Lãnh Út bỗng thèm được nghe tiếng hát ả đào, Bá Nhỡ đáp ơn tri ngộ, dày công luyện tập để có thể so dây cây đàn kỳ bí được làm từ ván nắp cỗ quan tài một gái đồng trinh của Chánh Thú mà rước cô Tơ về hát.

Bất chấp lời nguyền oan nghiệt của Chánh Thú, Bá Nhỡ khao khát được “sóng tơ mình với trúc người” hầu mộng tiếng hát có thể khiến Lãnh Út “có dịp đầu thai lại vào đời sống”. Bá Nhỡ - Lãnh Út – Tơ đã hợp thành “tam vị nhất thể” để tạo nên một buổi đàn ca vô tiền khoáng hậu. Bá Nhỡ đã chết để Lãnh Út hồi sinh.

Một năm sau, ấp Mê Thảo mọc lên chùa Đàn, cô Tơ là người coi kinh kệ ở đó, chùa chưa có pho tượng Phật nào, mà sau bát hương là một cây đàn đáy với những nét chính của nhạc khí được tạc chìm vào gỗ mộc.

Bản nguyên của “Chùa Đàn” mang đậm tinh thần vị nghệ thuật vốn có trong bút pháp của Nguyễn Tuân, nhưng nhờ sự tài tình trong cách khai thác nội dung, trong ngôn từ đa dạng mà nó hòa hợp với cả vị nhân sinh nữa.

Ta thấy được trong tác phẩm khía cạnh nhân sinh với những con người mang trong mình nỗi khổ đau khác nhau, nhưng họ đều tha thiết với nghệ thuật. Lãnh Út khao khát muốn được thưởng thức, Bá Nhỡ bất chấp cái chết để đánh lên một bản đàn mong thức tỉnh cậu Lãnh, còn Tơ thực sự mong được cất tiếng hát sau nhiều năm mà cầu xin vong linh của chồng cho phép được sánh cùng ngón đàn tài hoa của Bá Nhỡ.

Để rồi người đọc cùng hòa vào đêm nhạc tuyệt mỹ mà hồi hộp, đau xót từng hồi cùng với sự chết dần chết mòn của Bá Nhỡ giữa tiếng nhạc, tiếng trúc, tiếng tơ và giọng hát xúc động của Tơ.

Đa phần người đọc, đặc biệt là người đọc trẻ, biết đến Nguyễn Tuân nhiều hơn với thể loại tùy bút hay truyện ngắn như “Vang bóng một thời”, “Tùy bút sông Đà”…Tuy nhiên, trong giai đoạn 1943 - 1945, Nguyễn Tuân còn theo dòng văn học ma mị bởi sự ảnh hưởng sâu sắc từ các truyện ngắn trong “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh.

Những “Đoản thiên ma quái” như “Khóa thi cuối cùng”, “Trên đỉnh non Tản”, “Đới roi”, “Xác ngọc lam”, “Rượu bệnh”, “Lửa nến trong tranh”, “Loạn âm” hay “Tâm sự của nước độc” (tức là “Chùa Đàm”) đã được tập hợp vào tập “Yêu ngôn” in năm 1999.

“Chùa Đàn” được viết vào năm 1945, tuy nhiên, sau khi Việt Minh giành được chính quyền tại Hà Nội, Nguyễn Tuân đã mau chóng giác ngộ Cách mạng và viết thêm phần đầu mang tên “Dựng” và phần kết mang tên “Mưỡu cuối” cho tác phẩm xuất bản năm 1946. Phần gốc của “Chùa Đàn” được đặt ở vị trí thứ hai với tên gọi “Tâm sự của nước độc”.

Vẫn là phong cách duy mỹ thường thấy ở Nguyễn Tuân, ngòi bút của ông trong tác phẩm này hướng đến việc đi tìm cái đẹp, nhưng không còn là cái đẹp hoài vọng, phảng phất u buồn về một thời xa vắng, về những thú chơi trong “Vang bóng một thời”. Cái đẹp của “Chùa Đàn” kỳ quái, bi thương và đau đớn hơn rất nhiều khi con người ta sẵn sàng hy sinh thân mình để dùng nghệ thuật mà tái sinh cho một người khác.