Chiến tranh khốc liệt luôn để lại những hậu quả ám ảnh đến với toàn nhân loại. Ký ức về những ám ảnh khốc liệt và những mất mát đau thương mà chiến tranh để lại đã được các nhà văn lưu giữ lại qua những trang tiểu thuyết của họ. Sau đây là 5 cuốn tiểu thuyết về chiến tranh được đánh giá là nên đọc nhất.

1. Chiến tranh và hòa bình

Là một trong những cuốn sách thuộc vào hàng “kinh điển” của văn chương, Chiến tranh và hòa bình lấy bối cảnh cuộc xâm lược nước Nga năm 1812 của quân đội Napoleon, qua đó cho thấy một lối viết tiếp cận lịch sử nghiêm chỉnh – được ca ngợi là vô cùng xác thực. Chính bản thân tác giả - Tônxtôi cũng đã từng phục vụ trong Chiến tranh Krym (Crimean War – bắt đầu từ năm 1853 và chấm dứt năm 1856, giữa hai lực lượng quân sự châu Âu, phe đồng minh gồm Đế quốc Pháp, Đế quốc Anh, Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ và Sardinia chống lại Đế quốc Nga. Cuộc chiến tranh này còn được người đương thời gọi là Chiến tranh nước Nga – Theo Wiki). Đây là một tác phẩm đồ sộ, với độ dài 1225 trang trong lần xuất bản đầu.

Tônxtôi cũng đã từng băn khoăn: "Thú thật tôi hoàn toàn không biết một trăm năm sau liệu có ai đọc các tác phẩm của tôi không..." (Thư ông gửi cho nhà nghiên cứu người Anh Uyliam Rôtxôn ngày 27-12-1878).

Lênin vĩ đại của chúng ta đã giải đáp nỗi băn khoăn đó: "Tônxtôi đã mất rồi và nước Nga trước cách mạng đã chìm vào dĩ vãng. Nhưng trong di sản của ông có cái không chìm vào dĩ vãng, có cái thuộc về tương lai. Di sản đó, giai cấp vô sản Nga đón lấy và nghiên cứu nó." Chiến Tranh Và Hòa Bình của L. Tônxtôi chính là loại tác phẩm thuộc về tương lai.

Aragông cho biết: Đã có một thời ở Pháp, người ta không thể đi trên xe lửa mà không thấy những người đọc Chiến Tranh Và Hòa Bình của Tônxtôi. Cuốn tiểu thuyết này có lẽ là tác phẩm lớn nhất, chưa từng thấy, được người Pháp say mê vào những năm 1942-1943.

Năm 1943, một nhà thơ lớn, một người cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu dịch nửa đầu của Chiến Tranh Và Hòa Bình ở trong tù. Và kỳ diệu thay, năm 1943, giữa lòng thành phố Lêningrat anh hùng đang bị giặc Đức vây hãm ngặt nghèo, Chiến Tranh Và Hòa Bình được in lại với số lượng 100.000 cuốn.

Năm 1960, một nhà văn Pháp đã nói rất hay về sức sống của tác phẩm Tônxtôi: "Khi đọc lại Chiến Tranh Và Hòa Bình tôi cảm thấy trước mắt tôi không phải là một giai đoạn đã qua mà là bí mật đã mất".

Link download: https://drive.google.com/open?id=0B72xFxVGBiLzcWp5TkpTSGJLMFk

2. Chuông nguyện hồn ai

Nhà văn Mỹ lừng danh Ernest Hemingway, tên đầy đủ là Ernest Miller Hemingway, sinh năm 1899 tại Oak Park, bang Illinois, có bố là bác sĩ và mẹ là ca sĩ. E. Hemingway học hành dang dở, chưa qua trung học đã trốn nhà trốn trường bỏ đi kiếm sống, từ làm công ở trang trại, làm túi đấm ở lò quyền Anh đến làm thông tín viên cho tờ “Kansas City Star”… Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) nổ ra, E. Hemingway tình nguyện làm lái xe cứu thương cho Hội Chữ thập đỏ ở vùng Bắc Italy và bị thương tại đó, mở đầu cho hàng trăm vết thương ông mang trên mình khi sống sót bước ra khỏi cuộc chiến.

Chuông nguyện hồn ai là đỉnh cao trong cuộc đời sáng tác của Ernest Hemingway. Ông viết về cuộc nội chiến Tây Ban Nha bằng trái tim nhà văn và tấm lòng của người chiến sĩ trong hàng ngũ các Lữ đoàn Quốc tế tình nguyện chiến đấu cho nền Cộng hòa của xứ sở bò tót này. Nghĩa là ông không chỉ viết bằng bút mà cả bằng súng, đúng như lời công kích chủ nghĩa phát xít của ông tại Đại hội lần thứ hai các nhà văn Mỹ - 1937. Chuông nguyện hồn ai lập tức được cả thế giới đón nhận, và đến hôm nay hàng chục triệu bản với hàng chục thứ tiếng đã đến tay bạn đọc.

Link download: https://drive.google.com/open?id=0B72xFxVGBiLzQUFaakVZZFpiUU0

3. Nỗi buồn chiến tranh

Nỗi Buồn Chiến Tranh là một tác phẩm dễ làm người đọc ám ảnh vì câu chữ sâu xa, đau đớn, tàn khốc của một đời chiến binh với từng đoạn hồi ức đứt đoạn bởi cảm xúc, bởi những đoạn đời ngắn ngủi mà cho dù cố ghép lại cũng không thể liền mạch.

Kiên - người kể chuyện, trong mười năm chiến tranh và mười năm hoà bình với gia đình lạc loài không hoàn hảo, với tình yêu mãnh liệt, điên cuồng, với hiện thực chẳng thanh cao mà chỉ nhuốm đầy ti tiện của con người. Trong thế giới ấy, Kiên sống mà như đang mộng, mộng trên chiến trường đầy máu, mộng trong cuộc đời liều lĩnh và theo đuổi sự tự do vĩnh cửu.

Nỗi Buồn Chiến Tranh day dứt nhiều hơn buồn. Người đọc lạc vào những trang sách như đang cất bước trong mê cung tâm tưởng với đủ loại người, đủ loại tính cách, đủ loại quan điểm sống mà ít nhiều đều mang tính huỷ diệt. Nhận diện chiến tranh dưới góc nhìn bi quan và tiêu cực, Nỗi Buồn Chiến Tranh khắc hoạ cái định nghĩa bi thảm về chiến tranh, rằng "Chiến tranh là cõi không nhà không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu, vô cảm, là tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người." Trong cái cõi ấy, có hàng ngàn thanh niên, như Kiên, dù đã tự hỏi mình nhưng vẫn nhiệt tình cống hiến, để rồi khi nó qua đi, cả cuộc đời đã không còn lại gì nữa.

Trang sách khép lại, khó có ai còn thấy bình thường sau những gì đã đọc. Hoang mang, tiếc nuối, tuyệt vọng... với những câu hỏi về đời, về người, về lý tưởng sống mà có lẽ vĩnh viễn, dù con người có cố công tìm kiếm bằng cách nào, cũng không ra lời đáp.

Link download: https://drive.google.com/open?id=0B72xFxVGBiLzd2hlOGFMX05DM00

4. Kẻ trộm sách

Kẻ trộm sách - tác phẩm của nhà văn Úc Markus Zusak xuất bản năm 2005 đã làm mưa làm gió trên bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của The New York Times hơn 100 tuần liên tiếp, trở thành một tác phẩm kinh điển, một sự lựa chọn của hệ thống các thư viện trường học của Anh và Mỹ. Kẻ trộm sách khi mới ra đời đã lập tức gây ngạc nhiên cho những cây bút phê bình văn học trên thế giới và làm hàng triệu cặp mắt phải nhòa lệ.

Chọn một đề tài tưởng như đã có quá nhiều cây bút đào xới - Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 - nhưng Markus Zusak vẫn gây bất ngờ cho người đọc. Người kể chuyện trong tác phẩm này là Thần Chết - một “gương mặt” quen thuộc của chiến tranh, gắn liền với cái chết, với sự bi thương, sự tăm tối. Nhưng câu chuyện mà thần chết kể ra, về sự dữ dội của những gì con người gây ra đối với chính đồng loại của họ thì đến ngay cả Thần Chết cũng phải rùng mình. Lật giở những trang sách, người đọc như bước vào cuộc trò chuyện với Thần Chết, một nhân vật có khiếu hài hước, với một lời cảnh báo nho nhỏ đầy hóm hỉnh ngay khi mở đầu câu chuyện rằng “Bạn sẽ chết”. Đây là một câu chuyện với quá nhiều cái chết nhưng cũng đầy ắp tình yêu thương và thấm đẫm tính nhân văn.

Kẻ trộm sách được viết nên bằng một văn phong đặc biệt, lôi cuốn. Sự thành công của Kẻ trộm sách còn nằm ở tài năng khắc họa nhân vật của Zusak - ông đã thổi một luồng sinh khí vô cùng mạnh mẽ vào từng nhân vật, khiến cho họ - tuy chỉ được biết đến qua những con chữ trên mặt giấy - vẫn sống động và đầy cá tính, vẫn khiến người đọc phải đau nỗi đau của họ, vui niềm vui của họ, và hồi hộp theo dõi câu chuyện cuộc đời họ cho đến tận trang sách cuối cùng.

Đúng như lời khẳng định các nhà phê bình văn học, Kẻ trộm sách là một tác phẩm mà bạn sẽ khó lòng bỏ xuống nửa chừng một khi đã bước vào câu chuyện kể của vị thần chết đầy vui tính…

Link download: https://drive.google.com/open?id=0B72xFxVGBiLzRm9DZXltN1Q0akE

5. Sông Đông êm đềm

Sông Đông êm đềm là bộ tiểu thuyết vĩ đại nhất của nhà văn Nga Mikhail Aleksandrovich Sholokhov. Với tác phẩm này, Sholokhov đã được tặng Giải Nobel văn học năm 1965.

Sông Đông êm đềm miêu tả một giai đoạn lịch sử mười năm từ 1912 đến 1922 trong phạm vi địa lý rộng lớn: mặt trận miền Tây nước Nga trong Thế chiến thứ nhất, Ukraina, Ba Lan, România cho đến Sankt-Peterburg, Moskva nhưng chủ yếu diễn ra ở hai bờ sông Đông và tập trung vào một làng Cossack ven sông. Trong phần đầu của tiểu thuyết, Sholokhov đã quay lại quá khứ của gia đình Melekhov từ thời người ông nội với cô vợ người Thổ Nhĩ Kì bị người dân Cossack xa lánh và dị nghị do lối sống kì lạ. Gregori Melekhov là con thứ hai trong một gia đình ông nội là người Cossack, bà nội là người Thổ Nhĩ Kỳ. Gregori đem lòng yêu Aksinia, vợ một người hàng xóm và nhằm ngăn cản mối quan hệ này, gia đình Melekhov cưới Natalia cho chàng. Để được tiếp tục sống bên nhau, Gregori và Aksinia cùng bỏ nhà đi làm thuê. Tủi nhục, phẫn uất, Natalia đã quyên sinh nhưng không chết.

Gregori phải đi lính khi đến tuổi và cùng với những chàng trai Cossack khác, trong đó có người anh Pyotr nhập ngũ trước đó chiến đấu chống lại quân Áo, Đức trong những năm đầu của Thế chiến thứ nhất. Tham gia chiến tranh, do cứu sống một Trung tá bị thương, chàng được tặng Huân chương thánh Gorge đồng thời cảm nhận thấy tính chất tàn bạo, vô nghĩa của chiến tranh và luôn day dứt về điều đó. Ở quê nhà, Aksinia sống trong cơ cực, cô đơn, tuyệt vọng, đứa con đầu lòng cũng không sống nổi vì bệnh tật, nàng đã chấp nhận quan hệ với Evgeni, con trai của chủ nhà. Bị thương và về phép, biết được chuyện của Aksinia, Gregori quay trở về sống với Natalia và sau khi chàng trở lại quân ngũ ít lâu thì Natalia sinh đôi một trai, một gái. Cách mạng tháng Mười nổ ra, trong những ngày hỗn loạn ấy, Gregori bị xô đẩy hết từ "bên Đỏ" rồi lại sang "bên Trắng". Mặc dù chán ghét và không ý thức được mình chém giết để làm gì nhưng vó ngựa Cossack của Gregori vẫn phiêu bạt khắp các chiến trường, lao vào những trận đánh đẫm máu.

Bất chấp những gì đã xảy ra, Gregori và Aksinia vẫn yêu nhau và họ đã nối lại quan hệ. Tuyệt vọng, Natalia nhờ một bà lang băm bỏ đi giọt máu của mình và Gregori mà nàng đang mang trong người rồi chết do mất máu, trước khi chết Natalia đã tha thứ cho Gregori. Không lâu sau, con gái của Gregori và Natalia cũng chết do bệnh tật. Sau khi giải ngũ về quê, đã chán ghét cảnh chém giết trên chiến trường chàng chỉ mong có một cuộc sống bình yên cùng Aksinia. Bất chấp điều đó và mặc dù giữa em gái Gregori với Miska Kosevoi, một người bạn của chàng đã trở thành đại diện cho chính quyền Xô viết trong vùng yêu nhau tha thiết, chàng luôn sống trong sự đe dọa phải trả giá cho những gì đã gây ra khi chống lại chính quyền mới. Lo sợ trước nguy cơ bị bắt giam và xét xử, Gregori bỏ trốn theo quân thổ phỉ của Fomin.

Chính quyền Xô viết ngày càng được củng cố và toán phỉ của Fomin không còn đất dung thân, Gregori đem Aksinia bỏ trốn đi một nơi xa mong có được cuộc sống yên ổn nhưng trên đường trốn chạy bị phát hiện, truy đuổi, Aksinia trúng đạn chết trên tay Gregori. Cùng trong lúc này, Gregori đã đem tất cả vũ khí thả xuống sông Đông như một hành động giã từ vũ khí. Trở về vùng sông Đông, anh gặp lại con trai. Anh được biết bố mẹ đã mất, anh trai (lính bảo hoàng) bị em rể (hồng quân) giết. Tất cả những gì còn lại của Gregori trên đời là đứa con trai duy nhất. Hình ảnh cuối cùng của bộ tiểu thuyết là cảnh Gregori bồng đứa con về nhà.

Link download: https://drive.google.com/open?id=0B72xFxVGBiLzR3BGRWVlOS1lUFU

 

Tổng hợp bởi Thái Hà - Bookademy

-----

Trở thành CTV viết reviews sách để có cơ hội đọc và nhận những cuốn sách thú vị cùng Bookademy, gửi CV (tiếng Anh hoặc Việt) về: [email protected]

Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về các cuốn sách hay tại link: https://www.facebook.com/bookademy.vn

Xem thêm

Nhà văn Nga, trong tác phẩm Chiến Tranh và Hòa Bình, dạy chúng ta rằng, mặc cho những sự kiện khủng khiếp trong cuộc đời, nhân loại đang từng bước để lại phía sau tất cả những gì tồi tệ, xấu xa mà nó mang theo trong mình. Tôi đọc Chiến tranh và Hòa bình lần đầu tiên cách đây hơn nửa thế kỷ, trong thời gian nghỉ phép được hưởng lương đầu tiên của mình, ở Perros Guirec. Lúc đó tôi đang làm cho hãng thông tấn France-Presse và viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, tin tưởng sâu sắc rằng ở thể loại văn học này, khác các thể loại khác, điều kiện chính để cho tác phẩm có chất lượng là độ dày, những cuốn tiểu thuyết vĩ đại thường là rất dày vì chúng bao quát nhiều tầng, nhiều lớp của hiện thực và dường như bao trùm được toàn bộ kinh nghiệm phong phú của nhân loại. Cuốn tiểu thuyết của Lev Tolstoy dường như xác nhận đầy đủ quan điểm này. Ngay từ đầu, câu chuyện, bằng giọng nhẹ nhàng, kể về cuộc sống trong những phòng trà ở St. Petersburg và Moscow, nơi các nhà quý tộc nói tiếng Pháp nhiều hơn là tiếng Nga, rồi chuyển dần sang tất cả các giai tầng của xã hội Nga đầy phức tạp, cho ta thấy sự đa dạng của các giai cấp, các loại người, từ các vị bá tước và tướng lĩnh đến người nông nô, kể cả thương nhân, những cô dâu ở tuổi kết hôn, các hội tam điểm, với tất cả các tính chất của chúng, những người theo đạo, những kẻ lừa đảo, các quân nhân, nghệ sĩ, những kẻ có nhiều tham vọng và nhà thần bí. Người đọc cảm thấy như lịch sử nhân loại muôn hình vạn trạng đang lần lượt hiện ra ngay trước mắt anh ta. Theo tôi nhớ, nổi bật nhất trong cuốn tiểu thuyết lớn này là những cảnh chiến đấu, những đoạn mô tả chiến thuật thiên tài của nguyên soái Kutuzov; mặc dù gặp nhiều thất bại nhưng ông vẫn liên tục gây thiệt hại cho đội quân xâm lược của Napoleon, trong khi giá rét, băng tuyết và đói khát chưa giúp ông đánh tan được họ. Tôi đã có quan niệm sai lầm rằng nếu cần dùng một câu để tóm tắt nội dung Chiến tranh và Hòa bình thì ta có thể nói rằng đây là một tấm thảm lộng lẫy, kể câu chuyện về cách người dân Nga đập tan tham vọng xâm lược của “kẻ thù của nhân loại” là Napoleon Bonaparte và bảo vệ được nền độc lập của họ. Nghĩa là, đây là cuốn tiểu thuyết vĩ đại viết về chiến tranh và lòng yêu nước, trong đó chiến tranh, truyền thống và cái gọi là lòng can đảm trong chiến trận của người Nga được ca tụng hết lời. Nhưng bây giờ đọc lại, tôi nhận ra rằng mình đã lầm. Hoàn toàn không tìm cách trình bày chiến tranh như một sự kiện, trong đó tâm hồn con người được tôi luyện, những phẩm chất cá nhân và sự vĩ đại của đất nước được hình thành, cuốn tiểu thuyết, trong từng trận đánh – và có lẽ thể hiện rõ nhất là trong đoạn mô tả đầy ấn tượng về chiến thắng của Napoleon ở Austerlitz – cho ta thấy tất cả những nỗi khủng khiếp của chiến tranh, số lượng khổng lồ các nạn nhân, những nỗi bất công và đau khổ vô cùng tận giáng xuống những con người bình thường. Phần lớn nạn nhân chính là những người bình thường đó. Tác giả cho thấy sự ngu ngốc đầy nham hiểm và tàn bạo của những kẻ đã gây ra tất cả những tai họa này trong khi khoác lác về danh dự, lòng yêu nước, lòng can đảm trong chiến đấu và trong đời thường. Tất cả sự sáo rỗng và vô nghĩa của những từ ngữ này càng trở nên rõ ràng ngay khi đạn bắt đầu nổ. Cuốn tiểu thuyết của Tolstoy kể về hòa bình nhiều hơn là về chiến tranh. Chứa đầy tình yêu của ông đối với lịch sử và văn hóa Nga, nhưng không ca ngợi sự ồn ào và dữ dội của những vụ giết chóc, thể hiện cuộc sống nội tâm phong phú, những suy tư, nghi ngờ, tìm kiếm sự thật và mong muốn làm điều tốt, như được thể hiện trong hình ảnh con người tốt bụng và dịu dàng là Pierre Bezukhov, một trong những nhân vật chính của Chiến tranh và Hòa bình. Mặc dù bản dịch tiếng Tây Ban Nha của tác phẩm mà tôi đang đọc không phải là hoàn hảo, có thể cảm nhận được thiên tài của Tolstoy trong tất cả những điều ông viết, những lời bóng gió, dụ ngôn còn thể hiện rõ hơn là những điều được nói ra một cách rõ ràng. Sự im lặng của ông bao giờ cũng rất hùng hồn, chứa nhiều thông tin, đánh thức sự tò mò của người đọc; người đọc không thể bỏ sách xuống, người đọc háo hức muốn biết liệu cuối cùng bá tước Andrei có công nhận mình yêu Natasha hay không, hai người có lấy nhau hay không hay vị bá tước ủ dột Nikolai Andreyevich sẽ làm cho cô đau khổ. Trong cuốn tiểu thuyết, gần như không có tình tiết quan trọng nào bị bỏ dở, bị đứt đoạn, không kể cho độc giả những điều thú vị và có tính quyết định nhất, làm cho độc giả phải theo sát sự phát triển của cốt truyện, trong khi không làm loãng sự chú ý của người đọc. Đúng là, dường như khó tưởng tượng được là trong một tác phẩm dài và đa dạng như vậy, với nhiều nhân vật như thế mà người kể chuyện toàn trí đã xây dựng cốt truyện một cách tài tình, không bao giờ đánh mất quyền kiểm soát, phân chia một cách khôn ngoan đến như thế cho mỗi nhân vật một khoảng thời gian, không bao giờ và không quên một nhân vật nào. Mỗi nhân vật đều có khoảng thời gian và không gian vừa đủ để câu chuyện diễn ra một cách suôn sẻ, như trong cuộc đời thực, đôi khi rất chậm, đôi khi bùng nổ mãnh liệt, với những niềm vui và nỗi buồn, với những giấc mơ, tình yêu và những thay đổi diễn ra mỗi ngày. Bây giờ đọc lại Chiến tranh và Hòa bình, tôi nhận ra điều mà lần đọc đầu tiên mình chưa hiểu. Cụ thể là chiều kích tâm linh của cuốn tiểu thuyết quan trọng hơn hẳn những chuyện xảy ra trong các phòng khách và trên bãi chiến trường. Triết học, tôn giáo, tìm kiếm chân lý, giúp phân biệt tốt xấu và hành động cho phù hợp, là mối quan tâm chính của các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết này, trong đó có nhân vật lỗi lạc như nguyên soái Kutuzov. Mặc dù thực tế là đời ông là chiến trận – trên mặt ông vẫn cón vết sẹo do viên đạn của người Thổ Nhĩ Kỳ bắn phải – đây là một người đức hạnh, không biết thù ghét là gì. Có thể nói rằng ông chiến đấu vì không có cách nào khác: nhất định một người nào đó phải làm chuyện này. Và nói chung, ông thích những hoạt động có trí tuệ và tâm hồn hơn. Mặc dù, nói đúng ra, những sự kiện trong Chiến tranh và Hòa bình là rất khủng khủng khiếp, nhưng tôi ngờ rằng nó không làm cho người đọc buồn. Ngược lại, cuốn tiểu thuyết cho ta cảm giác rằng, dù cuộc đời có tất cả những nỗi kinh hoàng như thế, nhiều nhân vật phản diện và những tên vô lại như thế, đằng nào thì những kẻ đó cũng giành được điều mà chúng muốn, nhưng sau khi cân đong đo đếm vào phút chót thì người tốt vẫn nhiều hơn kẻ xấu; hạnh phúc và bình an vẫn nhiều hơn cay đắng và hận thù, mặc dù không phải lúc nào cũng rõ ràng, nhân loại đang dần để lại ở phía sau những điều tồi tệ nhất mà nó mang trong mình. Nghĩa là, thường là bằng những biện pháp mà mắt thường không nhìn thấy được, nhân loại trở nên tốt hơn, trong khi loại bỏ bớt những tính chất tiêu cực của mình. Rõ ràng là, đây là những thành tựu chủ yếu của Lev Tolstoy, giống như Cervantes khi viết Don Quixote, như Balzac khi viết Tấn trò đời, như Dickens, tác giả Oliver Twist, như Victor Hugo với Những người khốn khổ và Faulkner với lịch sử của miền Nam nước Mỹ. Mặc dù khi đọc những cuốn tiểu thuyết của họ là chúng ta ngụp lặn vào tầng dưới cùng của sự xấu xa của con người, nhưng đồng thời, trong chúng ta lại xuất hiện niềm tin rằng dù có những khúc quanh và bước ngoặt, nhưng cuộc sống của con người phong phú và sâu sắc hơn tất cả những rắc rối và khó khăn vốn có trong cuộc đời. Nếu nhìn vào cuộc sống với tất cả chiều sâu của nó, một cách bình tĩnh và có cân nhắc, thì có thể nói rằng đáng sống tiếp. Ít nhất, bởi vì chúng ta có thể không chỉ sống trong thế giới thực, mà còn sống trong thế giới của những người anh hùng trong những cuốn tiểu thuyết lớn. Tôi không thể kết thúc bài viết này mà không đưa ra công khai câu hỏi mà từ lâu đã không để tôi yên: Làm thế nào mà giải thưởng Nobel đầu tiên về văn chương lại được trao cho Sully Prudhomme chứ không phải là Lev Tolstoy? Chả lẽ lúc đó không thấy rõ ràng, hệt như bây giờ, rằng Chiến tranh và Hòa bình là một trong những phép màu mà hàng thế kỷ mới xảy ra trong địa hạt văn chương hay sao?

Sông Đông Êm Đềm – Bộ tiểu thuyết vĩ đại nhất tựa như tấm biên niên sử lí tưởng về con người được đặc cách của Chúa rơi xuống trần gian. Sông Đông êm đềm là tác phẩm giúp Sholokhov được tặng Giải Nobel văn học năm 1965 đồng thời cũng khiến tên tuổi của ông bị bôi nhọ, phỉ báng trong đau đớn đến tận lúc hơi thở đã hóa vào hư không vĩnh hằng. Nhưng giống như ai đó đã nói: văn chương là bầu sữa mẹ nuôi lớn thế giới. Có những tác phẩm sinh ra để hàng trăm thế kỉ sau giúp nhân loại nhận ra chân thân của chính mình trong một thế giới tự do hơn, không còn biên giới lãnh thổ, không còn thước đo thời gian căn lề từng tý, không còn những định kiến, trù dập bởi khuôn vàng thước ngọc của định giới nó phôi thai nữa. Nó được là nó, dẫu trắng, dẫu đen thậm chí biến dị thành xám bởi một sự phối kết quái dị nằm ngoài dự tính của đức chúa trời. Sông Đông êm đềm chính là một cuốn sách như thế. Cuốn sách miêu tả một giai đoạn lịch sử 10 năm từ 1912-1922 tập trung ở hai bờ sông Đông và một làng quê người Kozak ở ven sông đồng thời cũng khắc trọn vẹn 10 năm cuộc đời của nhân vật Gregori Melekhov. Anh đem lòng yêu Aksinia, vợ người hàng xóm nhưng để ngăn cản mối quan hệ này phát triển khó thể cứu vãn, gia đình Melekhov đã dạn hỏi và cưới Natalia cho Gregori. Gregori và Aksinia cùng nhau bỏ đi biệt xứ làm thuê để lại Natalia tủi nhục, khuất nhục vì bị chồng mới cưới ruồng bỏ mà quyên sinh nhưng may mắn không chết ở phía bên kia bờ sông Đông. Sau đó, Gregori bị bắt buộc đi lính tham chiến vào Thế chiến I. Khi về phép, chàng phát hiện Aksinia vì quá cơ cực, nghèo đói, đứa con đầu lòng chết vì bệnh tật mà nàng đã dan díu với con trai chủ nhà. Gregori quay về với Natalia và sau hết nghỉ phép quay về quân ngũ, Natalia sinh đôi một trai, một gái. Sông Đông giống như một nhân chứng sống cho cuộc đời Gregori bất hạnh, vò võ vì cô đơn, hối hận, chán ghét tính chất vô nhân đạo của chiến tranh. Sau những mất mát về lòng tin, sự trong trắng của người phụ nữ trong thời kì chiến tranh, Gregori vẫn quay lại với Askinia khiến Natalia một lần nữa tuyệt vọng. Nàng tìm đến bà lang để bỏ đi giọt máu của hai người, nhưng do mất máu quá nhiều, nàng ra đi. Trải qua nhiều biến cố về chính trị, Gregori Melekhov bỏ trốn theo quân thổ phỉ đến khi hết đường trốn chạy, chàng ước mong mang Aksinia bỏ chạy thật xa vì mong muốn, khát cầu một cuộc sống bình yên nhưng Aksinia trúng đạn chết trong vòng tay Gregori trên đường trốn chạy. Tất cả Gregori còn lại trên mặt đất này chỉ là đứa con trai duy nhất. Dẫu hay được đặt trên bàn cân so sánh với các tác phẩm lớn về chiến tranh như “Chiến tranh và hòa bình”, “Số phận một con người”, “Chuông nguyện hồn ai” nhưng Sông Đông êm đềm vẫn khẳng định được giá trị thời đại kinh điển của mình trong văn đàn Nga nói riêng, văn đàn thế giới nói chung. Bộ tiểu thuyết vĩ đại này sẽ kéo chúng ta đến hố sâu nhân tính do chiến tranh khoét đục thành, chỉ vào đó và dõng dạc nói rằng khi bình yên không được đếm xỉa tới, nó sẽ chết trong tức tưởi và phanh thây giữa bàn cờ âm mưu chính trị, quân sự phi nhân tính này. Trắng, đen và…xám Sông Đông êm đềm dắt dẫn tâm trí người đọc đến một sông Đông không hề yên ả, không hề êm đềm mà tràn đầy hơi thở rất nóng của nhân gian, của thời cuộc, tiêu biểu cho bức tranh khắc họa chân thật về sự tàn bạo, tính chất vô nghĩa của chiến tranh trong những ngày đầu Thế chiến thứ I. Số phận con người bị xô đẩy từ “phe đỏ” sang “phe trắng” như một miếng giẻ rách trong cuộc chiến giành giật của hai bên quái thú to ác, hung hãn, ngang tàn. Sholokhov đập vỡ quan niệm về chiến tranh mà các nhà cầm quyền gieo rắc vào đầu con dân của họ. Bên trong đó, những dòng văn vẫn thấm đượm cảnh vật quê hương đất nước, những tập tục, bài hát dân ca hòa quyện vào các chàng trai, cô gái Kozak coi sông Đông như điểm tựa cuộc sống. Sông Đông là mẹ tự nhiên nuôi nấng họ bởi dòng nước ngọt, bởi những au cá ngọt từ thịt đến xương, bởi những mối tình đầu thơ mộng, lãng mạn, bởi những khúc tráng ca trong lịch sử. Dẫu có lúc sông Đông cáu bẳn bực tức ra sao thì nó vẫn hung dữ mà dịu dàng đến kì lạ. Có thể nói tâm hồn của mọi nhân vật được Sholokhov khắc họa chân thật cả mặt trắng, mặt đen giống như sông Đông. Đó là một Gregori táo bạo, chính trực, đầy lòng tự trọng nhưng cũng có những mặt xấu như thô bạo, ít nhiều tàn nhẫn, tư hữu. Gregori cho rằng cách mạng đã tước đoạt quyền lợi của cộng đồng Kozak, xâm phạm bờ cõi truyền thống, danh dự của con người Kozak. Bản thân chàng cũng mang trọng tội khi phản bội lại chính quyền Xô Viết và một mình trơ trọi giữa cuộc đời. Con người bên lề cuộc chiến dường như không còn được sống với đúng nghĩa con người nữa. Đó là Askinia với “lọn tóc trên cái gáy rám nắng” quyến rũ, dám đứng lên đấu tranh đến hơi thở cuối cùng để được yêu thương nhưng cũng có lúc không vượt qua được bản năng rất đàn bà, ngã vào vòng tay người khác. Đó là Natalia với bản tính yếu đuối, nhu nhược, cam chịu nhưng nhất mực thủy chung, dịu dàng và đằm thắm. Những con người ấy, ai cũng có trong mình những mâu thuẫn nội tại rất chân thật và bởi vì nét thật ấy mà họ sống mãi trong tim độc giả ngàn đời với từng mảng gam màu dù trắng hay đen hay xám. Nếu ai đó hỏi bạn về chiến tranh, bạn sẽ trả lời ra sao? Hãy trả lời thật lòng rằng, hỡi những con người luôn mong chờ một tình yêu ban đầu mát rượi, tươi mới ơi, khi tâm hồn bạn là những chàng trai, thiếu nữ đôi mươi như sông Đông, chiến tranh sẽ phô tỏ cho bạn thấy, có một nét đẹp đau đáu gì đó ở đây, đó chẳng là gì khác ngoài tình yêu con người, tình yêu quê hương đất nước dám chiến đấu vì bờ cõi. Đến tận cuối trang tiểu thuyết, tôi vẫn không sao hiểu được trong đầu cứ vừa vang lên câu câu hát Việt Nam “Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây, sông Lam hết nước thì đó với đây mới hết tình” hòa quyện cùng câu hát cổ nước Nga: “Mảnh đất thân thương, mảnh đất vinh quang của chúng ta được gieo những cái đầu Kozak Điểm trang sông Đông êm đềm của chúng ta có những nàng gái góa trẻ măng Hoa nở trên sông Đông êm đềm, cha của chúng ta bầy trẻ thơ côi cút Sông Đông êm đềm đầy nước mắt những người mẹ, người cha.” Sông Đông êm đềm chính là khép lại vào một chiều mưa rả rích như thế với hai câu hát trĩu nặng tình người, tình nước non sau khi đã phanh phui no đủ bộ mặt của chiến tranh trên bản đồ văn học thế giới.

Nỗi Buồn Chiến Tranh ban đầu có tên “Thân phận của tình yêu” bởi nó kể lại câu chuyện của hai người trẻ tên Kiên và Phương. Họ mang trong mình tình yêu trong sáng, ngây ngô của tuổi 17 nhưng phải tạm chia cách vì Phương đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Ngày Kiên nhập ngũ, Phương tiễn người yêu của mình trên một chặng đường dài. Không may, trên tuyến tàu hàng hải ra tiền tuyến, Phương bị cưỡng bức nên mang trong mình thái độ điềm nhiên khinh nhờn và thờ ơ lãnh đạm sau biến cố kinh khủng ấy. Sau 10 năm chiến tranh, Phương may mắn sống sót trở về cuộc sống hòa bình. Vậy nhưng, những vết thương trên thân thể và tâm hồn khiến anh không thể hòa nhập vào dòng chảy của cuộc sống hiện đại. Kiên trở thành một nhà văn cấp phường khó tính, kỳ quặc mà chẳng ai có thể hiểu. Nhà văn hậu chiến viết về những ký ức ám ảnh của cuộc đấu tranh tàn khốc. Những giấc mơ gắn liền với cái chết, có người hy sinh vì anh, cũng có người đã chết vì những lỗi lầm của anh. Tất cả sống lại trong cuốn tiểu thuyết của Kiên dưới những hình hài hỗn độn. Chẳng ai có thể hiểu được chúng, trừ một người đàn bà câm sống trên gác áp mái tòa nhà. Hồi ức đưa Kiên trở lại ngày anh gặp Phương. Anh muốn cùng Phương quay về thời yêu nhau bất chấp nhưng cô đã buông rơi mình trong trụy lạc. Hai người đã khác xa nhau của tuổi 17, khi chiến tranh và biến cố cuộc đời đã gạch chi chít vào những nét chỉ tay. Chán chường trước cuộc sống hiện tại, Kiên tự tay đốt thành tro cuốn tiểu thuyết của mình và cuộc đời anh cũng dừng lại từ đó. Anh ra đi. Những gì còn sót lại là mớ bản thảo rối bời được người đàn bà câm gom góp, cất giữ. Bi kịch đời người trong năm tháng chiến tranh Nỗi Buồn Chiến Tranh tả thật đến rùng rợn những nỗi ám ảnh mà chiến tranh để lại trong tâm trí mỗi người lính. Chiến tranh qua đi, người ta vẫn chẳng thể xóa nhòa những hình ảnh thương tâm găm vào khối óc. Đó là người đội trưởng tên Quảng cầu xin Kiên hay kết liễu đời anh vì anh đau đớn quá. Bụng rách trào ruột, xương xẩu dường như gãy hết, tay lủng liểng. Hay những người lính dù trang phục vằn vện nằm phơi nắng trong các lùm bụi lúp xúp ven rừng Ko Leng, thản nhiên trương phình lên, thản nhiên chịu đựng lũ ruồi, bầy dòi và mùi da thịt khắm lặm của mình. Rồi hình dung về những trận mưa cẳng chân, bàn tay rơi lịch bịch lẹt bẹt xuống đồng cỏ voi bên bờ sông Sa Thầy. Những người lính bị ám ảnh bởi những cái xác mà xe tăng mình đã nghiến qua, bởi mùi thịt hôi thối khong sao gột rửa được. Những bóng ma quá khứ liệu có buông tha người lính để họ trở về và bước tiếp cuộc sống bình thường? Kiên chính là điển hình cho người lính bị đeo đuổi bởi những giấc mơ kinh hoàng như thế. Anh dường như phát điên, phải mượn rượu để sống bởi không thể tự thoát ra khỏi những chấn thương tâm lý mà chiến tranh gây ra. Cả đời Kiên chắc sẽ không dứt được hình bóng của Phương, kể từ khi hai người còn là học sinh trường Bưởi. Anh đáng thương nhưng cũng thật đáng trách, vì chưa đủ dũng cảm đấu tranh cho tình yêu mặc kệ miệng lưỡi người đời. Nhân vật Phương trong câu chuyện cũng là một cô gái đáng thương. Khi Kiên – người duy nhất còn ở bên đã rời cô mà đi, Phương dần xuống dốc và trở thành thứ đồ chơi cho cánh đàn ông tha hồ dè bỉu. “Nàng xinh đẹp, mê dại và bất kham, hấp dẫn đến lịm người bởi sắc đẹp kì ảo và khôn lường, đẹp một cách đau lòng, đẹp như thể một sắc đẹp bị chấn thương, như thể một sắc đẹp lâm nguy, mấp mé bên bờ vực”. Nhận xét về truyện ngắn Nỗi Buồn Chiến Tranh Lối viết của nhà văn Bảo Ninh trong Nỗi Buồn Chiến Tranh làm người đọc nhảy từ câu chuyện này sang hồi ức khác. Mọi thứ cuộn chảy nhưng xô bồ và điên loạn, âu cũng bởi sự hỗn độn trong suy tư của nhân vật chính. Người ta đã hy vọng về một tình yêu đẹp, một kết cục có hậu cho hai nhân vật chính nhưng mọi thứ lại dần đi xa do bàn tay độc ác của số phận và những lưỡi dao của chiến tranh. Một chuyện tình đẹp lại đi vào bế tắc. Hai người học trò dễ thương ngày nào nay trở thành những thân phận hoặc sa đọa, hoặc cuồng điên mà không tìm được lối thoát nào. Nỗi Buồn Chiến Tranh của nhà văn Bảo Ninh là một viên đá quý gai góc trong nền văn học Việt Nam. Nhờ có ông, thế hệ về sau mới thấm hết nỗi đau đớn và ám ảnh khôn cùng mà chiến tranh phi nghĩa để lại trên mảnh đất bé nhỏ, nơi đâu đó vẫn còn những con người vật lộn trong âm thầm với những di chứng không tên.

Chuông nguyện hồn ai là đỉnh cao trong cuộc đời sáng tác của Ernest Hemingway. Ông viết về cuộc nội chiến Tây Ban Nha bằng trái tim nhà văn và tấm lòng của người chiến sĩ trong hàng ngũ các Lữ đoàn Quốc tế tình nguyện chiến đấu cho nền Cộng hòa của xứ sở bò tót này. Nghĩa là ông không chỉ chiến đấu bằng súng mà cả bằng ngòi bút, đúng như lời công kích chủ nghĩa phát xít của ông tại Đại hội lần thứ hai các nhà văn Mỹ – 1937. Chuông nguyện hồn ai lập tức được cả thế giới đón nhận, và đến hôm nay hàng chục triệu bản với hàng chục thứ tiếng đã đến tay bạn đọc. Với tôi, cái tên Chuông nguyện hồn ai không cuốn hút bằng Ernest Hemingway nhưng vì đó là tác phẩm của ông nên tôi sẵn sàng đọc một cách nghiêm túc. Nhấm nháp tách trà và lật từng trang sách trong một buổi chiều mưa Đà Lạt, trông tôi cứ như một bà lão 70 đang suy ngẫm sự đời, nhưng đó không phải là đời tôi mà là đời của những con người Tây Ban Nha trong các cuộc chiến tranh đẫm máu. Thế đấy, lịch sử chiến tranh luôn là đề tài không bao giờ ngủ yên đối với các nước trên thế giới và Tây Ban Nha cũng vậy, họ cũng đã từng chiến đấu, từng đau khổ, từng hy sinh rất nhiều để giữ được hòa bình trên quê hương của mình. Theo tôi nếu bạn thư thả đọc và cảm nhận thì mới thấy được cái ẩn ý mà tác giả muốn đưa ra còn nếu bạn đọc theo kiểu chỉ muốn thấy lời hay ý đẹp thì xin nói rằng quyển sách này không phù hợp với bạn bởi vì ngay từ đầu cuốn sách làm cho người đọc thấy khó hiểu, có một chút gì đó cứng nhắc và dài dòng nhưng nếu ngồi nghiền ngẫm một lúc thì nó lại rất hay theo kiểu gây cấn lôi cuốn sẽ làm bạn càng muốn đọc nhanh những trang tiếp theo. Được xuất bản năm 1940, Chuông nguyện hồn ai là tiểu thuyết kể về bốn ngày của Robert Jordan, một chiến sĩ trẻ người Mỹ, được lệnh phối hợp với một nhóm du kích đặt mìn phá hủy một cây cầu để chặn viện binh và đường rút chạy của quân địch trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Được sự giúp đỡ của nhóm du kích cộng hòa đã thông thạo địa hình vùng núi, anh cùng họ điều tra địa hình, xây dựng lực lượng và lập kế hoạch tác chiến. Nhưng khi nhìn vào tình hình hiện tại Robert Jordan nhận thấy bọn phát xít đã đánh hơi được kế hoạch của cuộc tấn công và đang ráo riết tập trung quân bố trí phản kích. Anh cử ngay Andres mang báo cáo về Ban chỉ huy Sư đoàn đóng ở Navacerrada đề nghị thay đổi kế hoạch tác chiến và cho ngừng ngay việc phá hủy cầu. Thế nhưng thật không may, do nhiều trắc trở và tính quan liêu của nhiều sĩ quan, lẽ ra đoạn đường chỉ cần đi trong ba giờ, Andres phải mất cả một ngày. Khi bức thư của Robert Jordan đến tay Gôndơ thì đã quá muộn, những chiếc máy bay ném bom đầu tiên mở màn cho trận đánh đã bay vút trên bầu trời. Robert Jordan đành cho nổ mìn phá cây cầu theo kế hoạch đã định và dẫn đội du kích rút lui. Dọc đường, bom đạn quân thù khiến anh bị gãy chân, vết thương quá nặng, anh quyết định từ giã đồng đội và người yêu, ở lại ngọn đồi bên cạnh chiếc cầu bị phá nhằm chiến đấu cầm chân địch cho đội du kích rút lui an toàn. Có thể thấy hình ảnh của Robert Jordan là hình ảnh của một anh hùng quên mình vì nước nhưng đổi lại “Chàng nghe tim mình đập sát trên mặt đất của khu rừng phủ đầy xác lá thông” hình ảnh cuối của anh khiến người đọc xao xuyến và đầy tiếc nuối cho một người hùng. Và có lẽ người đau nhất là Maria – người con gái mà Robert Jordan đã có cảm tình ngay từ lần gặp đầu tiên, những hình ảnh thật đẹp của họ khi bên nhau trên thảm cỏ xanh, trong chiếc túi ngủ giữa đêm tuyết trắng hay khoảnh khắc Robert Jordan nhìn chiếc kim đồng hồ chuyển động để cảm nhận niềm hạnh phúc quý giá không kéo dài, vậy mới thấy được thời gian của họ được tính bằng khắc, trân trọng nhau đến từng giây để không phải hối tiếc. Thật xót xa thay một mối tình sâu nặng nhanh chóng bắt đầu nhưng cũng lại nhanh chóng kết thúc. “Maria vừa kêu lên vừa quay đầu lại – Cho em ở lại! Cho em ở lại! – Anh ở bên em – Robert Jordan kêu to – Bây giờ thì anh ở bên em. Cả hai chúng ta đang đi đó. Đi đi! “ Một khung cảnh đau buồn mà tôi cũng không nói nên lời của cặp đôi này, tình yêu không có lỗi, lỗi tại hoàn cảnh đưa đẩy khiến họ phân ly nhưng họ vẫn luôn cảm nhận hình ảnh đối phương trong tim mình. Tôi nhận thấy rằng tình yêu trong chiến tranh là tình yêu liều lĩnh nhất nhưng cũng là tình yêu đẹp nhất bởi vì họ sẵn sàng hy sinh cho nhau, chờ đợi nhau bằng cả tấm lòng và luôn mong cho người mình yêu hạnh phúc. Hemingway cũng từng tham gia Chiến tranh Thế giới thứ nhất và bị thương quay trở về, nên ông mang theo nhiều nỗi đau về cả thể xác lẫn tinh thần nên văn phong của ông trong Chuông nguyện hồn ai mang đầy chất trữ tình nhưng lời lẽ vẫn sắc bén, phơi bày sự thật trần trụi của các tầng lớp người lính. Có người hùng dũng không tiếc thân mình để bảo vệ đất nước nhưng có người lại sợ hèn nhát chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân, có người mưu trí nhưng cũng có người ngu ngốc và tự cho là thông minh, thế mới có những sự việc đáng tiếc xảy ra và câu không sợ kẻ địch mạnh chỉ sợ đồng đội ngu là không hề sai. Ở thế hệ của chúng ta, các bạn trẻ lớn lên trong hòa bình nên chỉ được nghe về chiến tranh anh dũng và mất mát, sẽ không thể nào hiểu được cuộc sống và con người lúc còn chiến tranh, hay có đi nữa thì cũng là sự đồng cảm có giới hạn khi mà lịch sử chiến tranh được giản lược, nhằm ủng hộ cho chế độ chính trị, thay vì để giải thích tại sao con người lại hành động như vậy. Ở Việt Nam cũng vậy, môn lịch sử là niềm tự hào của cả dân tộc ấy vậy mà học sinh bây giờ xem nó như một gánh nặng thật khó vượt qua, đó là một điều đáng buồn cho thế hệ trẻ của đất nước. Chuông nguyện hồn ai là một trong số những tác phẩm chân thực về chiến tranh, về Robert Jordan chàng trai dũng cảm không chỉ thực hiện nhiệm vụ để chiến thắng, mà còn để kiếm tìm ý nghĩa cuộc đời mình. Chiến tranh cũng là một điều kiện đầy thử thách, nơi mà bạo lực chiếm hữu và ý chí của con người cũng được đẩy lên cao độ, máy bay lượn trên đầu, giữa khói lửa, giữa những xác chết tơi tả. Những câu nói của các nhân vật trong truyện khiến người ta phải suy nghĩ nhiều khi mỗi hành động trong truyện đều mang tính triết lý. “Những đoạn độc thoại nội tâm của các nhân vật và những dòng trữ tình ngoại đề của cuốn sách khiến cho cốt truyện Chuông nguyện hồn ai tưởng như đơn giản lại trở nên sinh động, phong phú trong các tình tiết, nhuần nhuyễn và linh hoạt trong kết cấu, cuốn hút hàng triệu đọc giả trên thế giới khi tiếp cận tác phẩm.” Thật không hổ danh là nhà văn lừng danh nước Mỹ, Ernest Hemingway đã hết sức tinh tế để khắc họa hình ảnh chân thật. Là nét đẹp trong sáng, mộng mơ của cô gái Maria, là người hay đi đó đây như Jordan, là mụ đàn bà ít học như Pilar, là ông cụ già nhiệt tình như Anselmo, hay là anh chàng láu cá như Rafael thì họ vẫn tương tác hài hòa của những con người xa lạ, vẫn sát cánh đồng hành cùng nhau dù là trong hoàn cảnh khắc nghiệt thì vẫn xem cái chết là hiển nhiên để sống thật ý nghĩa cho thời gian còn lại. Đây là một tiểu thuyết phản ánh chân thật về cuộc chiến tranh, nó tàn khốc và cũng đầy yêu thương, nó anh dũng nhưng cũng không ít lúc yếu đuối. Nó cho bạn của hôm qua, tôi của hôm nay và con người mai sau có thể thấy rõ được những góc khuất của chiến tranh để rồi từ đó mỗi người sẽ nhận ra bản thân mình đang sống ở hiện tại như thế nào, có trân quý thời gian, có yêu thương những người xung quanh, có thôi ngưng đố kỵ để thay vào đó là hoàn thiện bản thân và sống tốt hơn từng ngày. Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều ẩn chứa một thông điệp của cuộc sống, bạn hãy đọc và rút ra thông điệp cho riêng mình qua Chuông nguyện hồn ai.

Nói về tính sử thi và hùng tráng của tác phẩm thì hẳn ai cũng biết, sách vốn là tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy phản ánh một giai đoạn bi tráng của toàn xã hội Nga, từ giới quý tộc đến nông dân, trong thời đại Napoléon. Cốt truyện được xây dựng trên hai biến cố lịch sử chủ yếu đầu thế kỉ 19: cuộc chiến tranh năm 1805 và 1812, đồng thời phản ánh cuộc sống hòa bình của nhân dân và giai cấp quý tộc Nga vào các giai đoạn 1805-1812, 1812-1820. “Nguyễn Du từng lo không biết ba trăm năm sau có ai khóc mình không… Nhưng như Tố Hữu viết: “Tiếng đàn xưa đứt ngang dây Hai trăm năm lại càng say lòng người”. L.Tônxtôi cũng đã từng băn khoăn: “thú thật tôi hoàn toàn không biết một trăm năm sau liệu có ai đọc các tác phẩm của tôi không…” (thư ông gửi cho nhà nghiên cứu người Anh Uyliam Rôtxôn ngày 27 – 12 – 1878). Lênin vĩ đại của chúng ta đã giải đáp nỗi băn khoăn đó: “Tônxtôi đã mất rồi và nước Nga trước cách mạng đã chìm vào dĩ vãng. Nhưng trong di sản của ông có cái không chìm vào dĩ vãng, có cái thuộc về tương lai. Di sản đó, giai cấp vô sản Nga đón lấy và nghiên cứu nó”. Chiến tranh và Hòa bình của L.Tônxtôi chính là loại tác phẩm “thuộc về tương lai”. Trong những ngày đánh trả mãnh liệt cuộc chiến tranh phá hoại man rợ bằng không quân của đế quốc Mỹ xâm lược, trên miền Bắc, sinh viên Việt nam vẫn viết những đề tài nghiên cứu về chiến tranh nhân dân, về con đường đi tìm lý tưởng của Anđrây Bônkônxki, Pier Bêzukhôv trong tiểu thuyết Chiến tranh và Hòa bình. Aragông cho biết: Đã có một thời gian ở Pháp, người ta không thể đi trên xe lửa mà không thấy những người đọc Chiến tranh và Hòa bình của Tônxtôi. Cuốn tiểu thuyết này có lẽ là tác phẩm lớn nhất, chưa từng thấy, được người Pháp say mê vào những năm 1942 – 1943. Do miêu tả cuộc chiến tranh yêu nước 1812 như biến cố trung tâm có ý nghĩa quyết định không chỉ vận mệnh nước Nga mà toàn châu Âu, miêu tả số phận của cả dân tộc, nhiều tầng lớp xã hội rộng rãi trong một thời điểm nghiêm trọng trong lịch sử đất nước, Chiến tranh và Hòa bình mang dáng dấp rõ rệt của một thiên anh hùng ca.”

Từ ngày cấp 1, tôi đã biết đến một vài đoạn trích của “Thép đã tôi thế đấy” qua lời kể của bà ngoại. Ngày đấy mỗi cuốn tiểu thuyết bà đều kể cho tôi nghe vài đoạn, mãi sau này lớn lên mới gắng tìm đọc cho hết. Thú thực về cách mạng nước ngoài tôi vẫn cảm thấy “Thép đã tôi thế đấy” cuốn nhất. Khác với những cuốn tiểu thuyết đầy bi lụy và đau thương, bóc mẽ trần trụi mặt xấu của xã hội thì ở đây Ostrovsky đã chọn cho mình một lối đi riêng mà theo Thép Mới nhận xét: “Thép đã tôi thế đấy không phải là một tác phẩm văn học chỉ nhìn đời mà viết. Tác giả sống nó rồi mới viết nó”. Với niềm tin “sẽ chiến thắng” ông đã dành hết tâm huyết, bút lực của mình viết nên một cuốn thiên truyện để đời trên giường bệnh khi bị mất khả năng đi lại rồi bị mù ở tuổi 24. Tác phẩm xoay quanh sự trưởng thành của Pavel như quá trình tôi luyện một thanh thép thực sự. Pavel từ con nhà “mụ nấu bếp”, nghịch ngợm, đầy tính tự phát, đã trở thành một chiến sĩ Bô-Se-Vich, anh hùng trong nội chiến, đầy bản lĩnh sống, là chân dung một con người của cách mạng. Pa-Ven là người trần mắt thịt, Pavel có quyền được yêu như bao nhiêu người khác .Đó là tình yêu nồng cháy với cô nàng Tonya, hay anh được Rita quý mến, được cô y tá chăm sóc và động viên trong những ngày phải nhập viện. Anh lại chẳng hề chọn hưởng hạnh phúc cho riêng mình, Pavel tự nguyện: “Anh trước hết là người của Đảng – sau đó mới là người của em và những người thân khác. Em có gan yêu một công nhân, nhưng lại không có gan yêu một lý tưởng…”. Đọc đoạn này tôi lại nhớ đến vài dòng thơ Tố Hữu từng viết: “Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều Phần cho thơ và phần để em yêu…” “Cái quý nhất của con người là đời sống. Ðời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để đến khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người. Và ta phải sống gấp lên mới được vì tật bệnh vô lý hay một sự tình cờ bi đát nào đó có thể bỗng nhiên cắt đứt cuộc đời”. Ðó là đoạn văn lột tả tâm trạng của Pavel trên nghĩa địa quê hương, nơi những bạn bè bị treo cổ, khi anh vừa thoát khỏi cái chết do bệnh thương hàn ở công trường Bayarka. Thật vậy, chừng nào con người còn những khát vọng cao cả, chừng đó, “Thép đã tôi thế đấy” vẫn còn là cuốn sách hấp dẫn!

Thép đã tôi thế đấy là tác phẩm sử thi, xã hội bậc nhất do Nikolai Ostrovsky (1904 – 1936) viết trong thời kỳ Stalin. Đích thị là một cuốn tiểu thuyết vĩ đại ám ảnh tận cùng hồn tủy con người trong suốt hành trình tìm kiếm một tượng đài xứng đáng chạm khắc mình vào kỷ nguyên mới của nhân loại chứ không riêng gì xứ sở bạch dương. Thép đã tôi thế đấy – thiên tiểu thuyết không ngừng cuốn hút những giác độ thiên biến vạn hóa từ người đọc khiến chúng ta trở nên ham sống, ham chiến đấu với những thói hư tật xấu bào mòn năm tháng, bào mòn giá trị sống, bào mòn căn nguyên nguồn cội của một con người đang đèo bồng cái danh nghĩa tạm gọi là đang sống này. Nikolai A. Ostrovsky – chàng chiến sĩ kỵ binh dũng mãnh của đơn vị Kotovsky năm 1920 bị chấn thương cột sống nên mất khả năng di chuyển, rồi bị mù ở tuổi 24 ấy từng khiến Andre Gide bật thốt lên khi ông viết kiệt tác đời mình: “Tôi nhìn thấy một chúa Jesus hiện đại đang soạn cuốn sách Phúc âm cách mạng”. Rõ ràng cuốn sách này được sản sinh từ ngọn lửa đời ham sống, ham trải nghiệm tràn ngập dưới lớp trầm tích của loài người khi trải qua vô vàn biến cố, gian nan thử thách từ cuộc sống đang cố chăng ra để nhằm cười cợt sự đớn hèn, yếu đuối thẳm sâu trong mỗi người xuất hiện khi chúng ta vấp ngã. Những cõi lòng ham sống và ham chiến đấu dữ dội dưới gầm trời Trước Ostrovsky, phần chung văn đàn Xô Viết thời bấy giờ chỉ có những nhân vật tiêu cực lấn lướt, lãng quên mất các nhân vật tích cực. Paven trong Thép đã tôi thế đấy đã làm màu mỡ thêm mảnh đất khô cằn này bởi những phẩm chất ưu tú của người con cách mạng. Anh không ngừng hoài địu trên vai sự dũng cảm can trường như chất thép được tôi luyện giữa lò đời cháy rát và sự mẫn cảm với chất nhân văn thấm đượm trong cuộc chiến, nơi mà tưởng như khiến cho con người bão hòa trái tim nồng nhiệt với nhau, với cuộc đời để trưởng thành và tôi luyện mình thành hình hài mà mình hằng mong ước. Sau Ostrovsky, dường như kéo theo một trào lưu viết về những đấng anh hùng trở thành biểu tượng vĩ đại trong “thế kỉ bạc” – văn học Nga giao mùa giữa thế kỉ XIX và XX. Ông tôn tạo nên những linh hồn văn học đi vào trái tim độc giả muôn đời, đi vào bảo tàng những hình tượng người anh hùng tầm vóc không chỉ của văn đàn Nga mà còn của cả thế giới. Người đã truyền chất thép cho cả thời đại sau khi ngã mình nằm yên dưới lớp đất mẹ quê hương ấy cũng có lúc chinh chiến không khác gì một người chiến binh quả cảm khi chín phần mười cơ thể ông bị bệnh tật giày vò, tàn phá đến mức không một ai tin ông có thể viết nên kiệt tác để đời muôn thuở trong hoàn cảnh bất khả thi ấy. Rõ ràng như ta thấy, ông và văn của ông hòa quyện gắn kết vào sợi dây tinh thần bất diệt, nêu cao quyền được sống và giá trị của cuộc sống đúng nghĩa là gì khi dõng dạc nói: “Cái quý nhất của con người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người”. Paven đã đứng trong nghĩa địa quê hương, trước những nấm mồ bè bạn ngã xuống mà đưa ra tuyên ngôn sống của bản thân mình như vậy đấy. Vậy thép đã tôi thế nào? Thép đã tôi trong cả thời chiến và thời bình, con người không ngừng giải phóng những phẩm chất ưu tú và hoàn thiện trái tim đạo đức của mình hơn nhằm tạo nên tấm gương, động lực thúc đẩy những lớp đàn em đi sau biết soi rọi vào mình những điều tốt và những điều chưa tốt ở mình đến tận hơi thở cuối. Dẫu trong chiến tranh, ta vẫn biết nơi ấy là nơi “hy sinh còn dễ dàng hơn ăn một bữa cơm” (Đặng Thùy Trâm) nhưng có lẽ giống như “Nợ tang bồng” mà Nguyễn Công Trứ từ không ngừng chạm khắc vào thơ ca dân tộc muôn đời mà mỗi đấng nam nhi đang vương: “Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc Nợ tang bồng vay trả trả vay Chí làm trai nam bắc đông tây Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể” (Chí làm trai) Ostrovsky đã sống và chết với tinh thần của Paven, chiến thắng của Paven như ông hoài ước ao và phải chăng đã thỏa cái chí tang bồng trả gánh nợ đất nước nợ sông núi trên mỗi trang sách tâm huyết rồi hay chăng? Thép đã tôi thế đấy – Thảo nguyên của những cuộc chiến không hồi kết giữa cá nhân và xã hội, cái chung và cái riêng Dân tộc Việt Nam ta là dân tộc không ngừng chinh chiến và trưởng thành bước ra từ khói lửa những cuộc chiến thần thánh để giữ gìn bờ Nam cõi Bắc. Bởi vậy nên ta dễ dàng thấm đẫm tinh thần Paven, chiến thắng của Paven, sống với những gian khổ của Paven qu hàng mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước trong cuốn tiểu thuyết vĩ đại Thép đã tôi thế đấy của Ostrovsky. Hình ảnh người anh hùng sống động và tầm vóc biết bao ấy đã khơi dậy ngọn lửa sáng tác về các bậc anh hùng trong nền văn học Việt đã từng bị coi là còi cọc về các tác phẩm chính luận và bút chiến. Paven chính là đàn anh thuộc thế hệ cách mạng tháng Mười Nga đi trước của đất nước ta, của nhân dân cách mạng cộng sản toàn thế giới dẫn dường đến lý tưởng cách mạng. Thép đã tôi thế đấy Bối cảnh của Thép đã tôi thế đấy bắt nguồn từ những bước đi chập chững của Paven vào thế giới gai góc, chân thật của người lính tại xã hội Nga khốn khó thời bấy giờ. Ở đấy, Paven – một chàng trai do địa vị xã hội “thấp kém”, con của “mụ đầu bếp” nên phải chịu sự đối xử bất công, bóc lột độc ác của giai cấp tư sản. Những dấu hiệu manh nha từ việc gây sự với bọn nhà giàu như Victor Lensenki và Xukhacco đến việc liều lĩnh lấy trộm súng lục từ tên trung úy Đức đã cho ta niềm tin rằng đây chính là hành vi dẫu mang tính trẻ con, liều lĩnh nhưng đồng thời cũng mang tính tự phát có ý thức của giai cấp công nhân. Paven buộc phải chấm dứt thời thơ ấu khi anh cứu Giukhơrai ra khỏi tên lính Pếtluara và được giác ngộ lý tưởng cộng sản vì ấm no của nhân dân mọi tầng lớp. Sau đó, Paven bị bắt giam. Trong cuộc nội chiến đẫm máu nhưng cũng đầy những cung bậc cảm xúc, thăng trầm của người lính, Paven được tôi rèn thành chất thép cứng rắn bởi kỉ cương quân đội và ý thức kỉ luật từ bỏ những khuyết điểm tồn tại, đặc biệt là thói vô tổ chức. Ở đây kỉ luật chính là nguyên tắc sống còn. Giống như F.V.Renatus từng nói: “Ít người sinh ra đã can đảm, rất nhiều người trở thành như vậy qua rèn luyện và kỷ luật”. Paven trong những ngày tháng trên công trường Baiơraica, ý thức Bônsêvich trong anh không ngừng được củng cố và tôi luyện dày dặn, cứng cáp, nhất là giữa giai đoạn khi mà mặt trận lao động của cuộc chiến đang diễn ra cam go và căng thẳng vô cùng. Ở nơi “biên giới là hai cột biểu”, “hai cột biểu đối diện với nhau, im lặng và thù địch, là hiện thân của hai thế giới”, “đều trồng trên dải đất bằng thế mà giữa hai thế giới đó là một vực sâu thăm thẳm” giống như thế giới của sự chết chóc. Hai biên giới không nói chuyện được với nhau, chỉ khi người lính hồng quân bên này ném cho người lính Ba Lan bên kia bao diêm nhãn hiệu chiếc máy bay rồi nghĩ thầm: “Ừ, mà phải, của này không hợp với họ” mới có chút lóe lên dấu hiệu giao tiếp đồng loại với nhau. Sự im lặng như tờ ấy khiến người đọc buồn đến nao lòng. Vì chúng ta đều biết, họ là hai con người ở hai chí tuyến khác nhau sẽ buộc phải giết chết nhau khi chiến tranh bắt đầu. Như Ernest Hemingway từng nói: “Đừng bao giờ nghĩ rằng chiến tranh, dù cần thiết hay chính đáng đến bao nhiêu, lại không phải tội ác”. Tội ác đó thường hay được nhân loại coi là giết người nhưng xét về bản chất nó là tự sát. Chúng ta thích tự giết chết mình hơn bởi luôn sống mà không biết thế hệ mình vì sao lại tồn tại, ý nghĩa và giá trị cao cả của nhiệm vụ chiến đấu vì cái chung hay vì cái tôi riêng biệt, cuộc sống cá nhân, cuộc sống đồng loại. Tính nhân văn của tiểu thuyết vĩ đại Thép đã tôi thế đấy xuất phát từ những vạch kẻ chỉ ra phẩm chất yêu con người, yêu đất nước, yêu hòa bình của các nhân vật tham chiến. Họ cần người đốt lò để trưởng thành nhưng mỗi một thanh thép sau khi tôi đều cần sự hi sinh, mất mát cố hữu. Paven dứt khoát, quyết liệt bỏ qua tình yêu đôi lứa đương mặn nồng với Tonya – cô người yêu xinh xắn tuổi mới lớn. Paven yêu Tonya nhưng gia đình cô lại thuộc tầng lớp tư sản. Anh nói với cô trước khi dứt áo ra đi về ánh sáng của lý tưởng:“Anh trước hết là người của Đảng – sau đó mới là người của em và những người thân khác. Em có gan yêu một công nhân, nhưng lại không có gan yêu một lý tưởng”. Sau này, trong khó khăn bởi việc xây dựng đường sắt nhỏ nối khu rừng với thành phố khiến Paven gặp lại Tonya nhưng cô bây giờ đã khác, có chồng và “sặc mùi băng phiến”, son phấn trong khi Paven dẫu rách rưới, tím tái vì lạnh ra sao vẫn ánh mắt ngời ngời sáng thuở thiếu thời. Cuối cùng, trong quá trình sinh hoạt trong tổ chức Đảng anh đã gặp Rita và được cô yêu quí bởi đức tính chiến binh mạnh mẽ trong con người mình. Đến tận khi bị sốt thương hàn, bại liệt và vôi hóa cột sống, anh vẫn không thôi nhắc nhở mình rằng không được lùi bước trước chông gai, tin tưởng vào tình yêu và chất lính được tôi luyện trong cuộc đời mình. Paven chính là hóa thân của tác giả trong thời kì “đất nước lớn lên, những con người cũng lớn lên” bởi cốt cách kiên nghị, chất thép thượng hạng sau ngàn lần nung chảy, đe đập của cuộc đời mà ngẩng cao đời đứng lên và đi tiếp trên thảo nguyên tươi xanh của sự sống bên cạnh những cuộc chiến giữa giá trị nội tại và ngoại giới trong chính trái tim mình. Ngựa thồ của quãng gánh cuộc đời Trong văn đàn Nga thời bấy giờ, bên cạnh “Người mẹ” của Macxim Gorki thì Thép đã tôi thế đấy mang một vị trí giáo dục tâm hồn cao thượng, nồng nhiệt và yêu mến cuộc đời tươi đẹp vô hạn thông qua nhân sinh quan cộng sản giúp sự soi xét địa vị xã hội dường như bị san bằng, người với người đến với nhau bằng tinh thần thay cho vật chất. Bởi thế, nó trở thành cuốn sách gối đầu giường của những người con kỉ luật hàng ngày hàng giờ chống lại những cám dỗ bủa vây xung quanh đời sống như một người anh gương mẫu tiêu biểu dẫn đầu lớp trẻ trong thời đại mới. Nhiều người hay đem so sánh Thép đã tôi thế đấy của Ostrovsky với “Chuông nguyện hồn ai” của Ernest Hemingway hay “Chiến tranh và hòa bình” của Lev Nikolayevich Tolstoy bởi tính nhân văn và giá trị tham chiến của nó trong trái tim mỗi người con yêu nước thương nòi nhưng nếu xét trên phương diện ảnh hưởng, nó đều mang bản chất là chất xúc tác tích cực cho thanh niên thời đại mới đang trên con đường lột xác và giác ngộ của chính mình, luôn đứng giữa hai lối rẽ cá nhân và xã hội, vì tình yêu riêng tư đôi lứa hay vì nền độc lập chung của nước nhà. Nói đến đây xin cho phép ta dành một phút tưởng niệm những ai đã ngã xuống vì bờ cõi đất nước mà họ luôn cất chứa trong tim. Tuổi trẻ nếu mỗi khi màn đêm buông xuống ta chỉ nghĩ về chết chóc và biệt ly thì còn gì để ta thèm sống khát gợi tìm những điều tốt đẹp, trong sáng bậc nhất trong thế gian này nữa? Phải biết quên mình cho tất cả, hiến dâng cuộc sống bé nhỏ của mình vì sự sống của toàn dân tộc. Tuổi 20 ai mà không tiếc nhưng tiếc tuổi hai mươi thì còn đâu đất nước. Ostrovsky chính là gợi cho tất cả những người trẻ một tâm thế biết hi sinh, biết dấn thân làm “ngựa thồ” cho quãng gánh gian truân của phận người, phận nước. Tuổi trẻ mà sống hời hợt, vô kỉ luật, không muốn tất tưởi lo toan, suy tính cho tương lai thật đáng lo ngại cho số phận nước nhà lắm thay. Chính Thép đã tôi thế đấy đã giúp những người con yêu nước “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” mang lại những chiến thắng vẻ vang cho không chỉ một thế hệ Việt Nam. Nó đồng thời cũng khơi ra những người khỏe mạnh về thể xác nhưng lại bất động về tâm hồn. Cuộc sống của họ bị “vôi hóa” sâu sắc bởi trong xương tủy không có một chút kỉ luật nào, mong ước nào, khát khao, lý tưởng nào rực cháy. Không một mồi lửa nào đốt họ hừng hực để sống cho ra con người. Đôi khi, ta cũng thấy trong đáy mắt họ lập lòe chút khao khát rồi vụt tắt như que diêm ẩm ướt không sống đúng với giá trị mình đã sinh ra: đó là được cháy hết mình như những Paven, những Ostrovsky, như thế hệ lớp lớp ông cha đi trước của của đất nước hình chữ S nói riêng. nhân loại nói chung. Vậy, thế nào là cuộc sống trọn vẹn? Nhân đây cho tôi xin mượn những dòng thơ của nhà thơ, triết gia lừng danh người Mỹ Ralph Waldo Emerson: “Biết đã giúp một cuộc đời được dễ thở hơn Vì mình đã làm đã sống… Bạn ơi, như vậy là đã thành công!” (“Thành công”-TS. Phùng Liên Đoàn dịch)

Sau khi đọc xong tác phẩm này, mình có thể nói rằng nó chính xác là một tuyệt tác của nền văn học đương đại. Nó tách biệt hoàn toàn với những tác phẩm viết cho độc giả trẻ ngày nay, với cốt truyện, nhân vật và phong cách vô cùng độc đáo, mang đến những cảm xúc tuyệt vời. “Kẻ Trộm Sách” là một tựa sách kì lạ, kích thích sự tìm hiểu người đọc như tôi. Bối cảnh trong Thế chiến II, sự độc tài và tàn bạo của chủ nghĩa Phát- xít đứng đầu là Hitle không được thể hiện trực tiếp thông qua chiến tranh đẫm máu mà được kể dưới cái nhìn của Thần chết. Một lối dẫn truyện đặc biệt, độc đáo và tài tình. Đôi nét về tác phẩm Lấy bối cảnh ở những năm thế chiến thứ hai, cuốn sách nói về Liesel Meminger, một bé gái được nhận nuôi sống ở phố Thiên Đàng. Tại đây, cùng với tình yêu và sự đam mê đặc biệt đối với sách và từ ngữ, Liesel đã gắn kết con người mình với mọi người xung quanh cô. Lúc ấy Liesel Meminger mới chín tuổi. Bố mẹ ruột cô bé bị đưa đến trại tập trung, em trai đã chết trên đường cùng em đến nhà bố mẹ nuôi. Tại phố Thiên Đàng, ông bà Hans Hubermann đã nhận nuôi em. Cô bé lớn lên trong sự yêu thương của Bố, sự khắc nghiệt của Mẹ, sự khủng khiếp của bom đạn và sự cuốn hút của những quyển sách. Khi nhìn thấy những cuốn sách, Liesel Meminger luôn cảm thấy sự say mê đặc biệt: “Khắp nơi là sách! Trên mỗi bức tường là những chiếc kệ nhét đầy sách nhưng hết sức trật tự. Khó có thể nhìn thấy được lớp sơn tường. Chỉ có những con chữ theo phong cách và kích thước khác nhau trên gáy của những quyển sách màu đen, màu đỏ, màu xám, những quyển sách đủ màu. Đó là một trong những cảnh tượng đẹp đẽ nhất mà Liesel Meminger từng thấy. Con bé nở nụ cười kinh ngạc.” Tác phẩm Kẻ trộm sách của nhà văn Markus Zusak. Kẻ trộm sách là tác phẩm cuốn người đọc vào những cảm xúc nghẹt thở, muốn ngừng lại nhưng không thể nào đặt cuốn sách xuống được. Ta bắt buộc phải đi theo nó, đi đến cùng, đi đến cùng để rồi vỡ oà trong niềm thổn thức nghẹn ngào. Nếu như Leonard Cohen từng nói rằng “Chúng ta xấu xí thật đấy nhưng chúng ta vẫn còn âm nhạc.”, thì ở Kẻ trộm sách, bạn sẽ thấy rằng Markus Zusak nói với chúng ta về sự an ủi kì lạ và sống động của những cuốn sách. Nó đã giúp cô bé Liesel Meminger bồi đắp tâm hồn trong trẻo, giàu có. Sách đã giúp những người dân ở phố Thiên Đàng sống qua những thời khắc sợ hãi nhất của bom đạn, là sợi dây nối liền tình bạn kỳ lạ và đẹp đẽ của Liesel và Max, là ánh sáng lấp lánh theo Liesel trong suốt cuộc đời đằng đẵng,… Đó là một cuốn sách kỳ diệu, được kể bằng lời kể chuyện của Thần Chết, một hiện thân của những mất mát, chết chóc, đau buồn, tăm tối, và huỷ diệt. Nhưng sáng bừng lên giữa màu xám của cuộc chiến tranh khốc liệt ở nước Đức khi ấy, người đọc sẽ thấy được những điều tốt đẹp của con người, những điều sẽ sưởi ấm, xoa dịu bạn. Con người có lẽ là tạo vật kì lạ nhất trên thế giới này, như chính lời của Thần Chết khi kết thúc cuốn sách: “Tôi những muốn hỏi bà ấy làm sao mà một giống loài lại có thể vừa xấu xa vừa quá vĩ đại như vậy, và làm sao mà từ ngữ của giống loài ấy lại có thể vừa đáng nguyền rủa vừa thần diệu đến thế.” Dù lấy bối cảnh chiến tranh đầy khắc nghiệt, nhưng Markus Zusak đã đi sâu vào tâm trí con người, lẩy ra từ đầy những phiền muộn u tối để khơi dòng những điều đẹp đẽ nhất. Trong cuốn sách của ông, mỗi nhân vật đều được hiện diện bằng những vẻ đẹp của tình cảm đầy trìu mền. Độc giả sẽ nhớ mãi một Liesel say mê tưởng tượng, bố Hans với trái tim nhân hậu ấm áp, cậu bé tóc vàng Rud ngây thơ, thẳng thắn, đáng mến, chàng thanh niên Do thái Max, lặng lẽ nhưng nồng nhiệt… Nhà văn người Úc Marcus Zusak. Có thể nói Kẻ trộm sách là một trong những cuốn sách mà bạn có thể khóc, cứ thoải mái khóc trong khi đọc. Bạn nên đọc nó và để cho trái tim mình tan vỡ một chút. Bạn nên đọc nó để hiểu hơn về con người, về thứ còn đau đớn hơn nỗi nỗi đau, về cái chết, về chiến tranh, về tình yêu, về mọi thứ từ thứ điên rồ lớn lao nhất đến thứ nhỏ bé đơn giản nhất. Và hơn hết, cuốn sách tưởng chừng u ám này, lại có khả năng an ủi, nâng đỡ bạn trong những khi tuyệt vọng và cô độc. Chỉ cần đặt niềm tin vào cuộc đời, và theo đuổi cuộc đời này, bạn sẽ có môt kết cục đẹp đẽ như Liesel Meminger, như chính Victor Hugo đã từng nói rằng “Chính từ sách mà những người khôn ngoan tìm được sự an ủi khỏi những rắc rối của cuộc đời”. Cuộc đời của Liesel Meminger không phải là cuộc đời của một nhân vật cổ tích, nhưng cô đã tìm được sự an ủi, sự hồi sinh từ những cuốn sách, và cuộc đời cô sẽ khiến bạn tin vào những điều đẹp đẽ. Kẻ trộm sách được xuất bản vào năm 2005 và được dịch sang hơn 30 ngôn ngữ. Bên cạnh chiến thắng giải thưởng văn học tại Úc, cuốn sách còn giữ vị trí bán chạy số một trên Amazon và New York Time. Cuốn sách đã được chuyển thể thành một bộ phim cùng tên vào năm 2013. Nội dung tác phẩm Chọn một đề tài tưởng như đã có quá nhiều cây bút đào xới – cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 – nhưng Markus Zusak vẫn gây bất ngờ cho người đọc. Người kể chuyện trong tác phẩm này là Thần Chết – một “gương mặt” quen thuộc của chiến tranh, gắn liền với cái chết, với sự bi thương, sự tăm tối. Nhưng câu chuyện mà Thần chết kể ra, về sự dữ dội của những gì con người gây ra đối với chính đồng loại của họ thì đến ngay cả Thần Chết cũng phải rùng mình. Lật giở những trang sách, người đọc như bước vào cuộc trò chuyện với Thần Chết, một nhân vật có khiếu hài hước, với một lời cảnh báo nho nhỏ đầy hóm hỉnh ngay khi mở đầu câu chuyện rằng “Bạn sẽ chết”. Đây là một câu chuyện với quá nhiều cái chết nhưng cũng đầy ắp tình yêu thương và thấm đẫm tính nhân văn. Dù vậy, nội dung chính của câu chuyện không lột tả những cảnh chiến trường đẫm máu của thế chiến II, những cảnh giết chóc man rợ… mà đây là câu chuyện về Liesel, cô bé gái mồ côi được làm con nuôi tại phố Thiên Đàng thuộc thành phố Munich. Chính tại thị trấn nhỏ nghèo nàn với vẻ ngoài bình yên của những trận đá bóng của trẻ con, những phi vụ ăn trộm nho nhỏ của đám trẻ đói khát, tình bạn tuyệt đẹp của Liesel và cậu bé Rudy đầy cá tính… đã toát lên không khí của nước Đức căng thẳng đầy những xung đột 0 một nước Đức đang trải qua một trong những giai đoạn kinh hoàng nhất của lịch sử nhân loại. 1 48 . Từ cuộc sống nghèo tại phố Thiên Đàng nhỏ bé, Liesel đã phải – trực tiếp và gián tiếp – chứng kiến sự tàn khốc của cuộc chiến, sự man rợ đến rùng mình của chế độ phát xít đối với những người Do Thái vô tội. Ngay trong số các công dân nước Đức luôn bày tỏ sự trung thành tuyệt đối với Quốc trưởng mọi lúc mọi nơi thì đó vẫn có những con người như Hans Hubermann – cha nuôi của Liesel – lén lút giấu trong nhà mình một thanh niên Do Thái trước sự truy lùng của chế độ Đức quốc xã. Và vì hành động đó, Hans và gia đình ông đã phải sống trong những tháng ngày căng thẳng, sợ hãi tột độ. Có biết bao bất hạnh ập xuống những con người vô tội ở phố Thiên Đàng, những đứa trẻ mang nhiều phẩm chất đẹp đẽ và tuyệt vời như Rudy cũng phải lãnh chịu số phận bi thương. Chứng kiến cảnh đó, chính trái tim của Thần Chết như bị giày xéo và khiến ông bật khóc. Trước những gì con người gây ra cho đồng loại, Thần Chết phải thốt lên: “Tôi nhìn thấy sự xấu xí và vẻ đẹp của họ, và tôi tự hỏi rằng làm sao mà một thứ như vậy lại có thể mang cả hai thuộc tính này.” Trong câu chuyện về Liesel, điều ấn tượng nhất với thần chết chính là niềm say mê sách của cô bé. Liesel ăn cắp những cuốn sách bất cứ khi nào có thể. Trong cuốn sách này còn có những tác phẩm của các nhân vật của chúng ta – những tác phẩm viết tay với hình minh họa đầy thú vị, cho thấy niềm say mê ngôn ngữ đồng thời đây là một ẩn dụ của tác giả về sức mạnh của ngôn từ. Ngôn từ có ma lực của riêng chúng: Chính nhờ có từ ngữ mà Hitler đã gần như thống trị được cả thế giới, nhưng cũng chính nhờ từ ngữ mà cô bé Liesel mới thoát chết. Ngôn từ trong Kẻ trộm sách được nhắc đến thường xuyên và khó nắm bắt thư thể những nốt nhạc của một bản giao hưởng. Kẻ trộm sách được viết nên bằng một văn phong đặc biệt, lôi cuốn. Sự thành công của Kẻ trộm sách còn nằm ở tài năng khắc họa nhân vật của Zusak – ông đã thổi một luồng sinh khí vô cùng mạnh mẽ vào từng nhân vật, khiến cho họ – tuy chỉ được biết đến qua những con chữ trên mặt giấy – vẫn sống động và đầy cá tính, vẫn khiến người đọc phải đau nỗi đau của họ, vui niềm vui của họ, và hồi hộp theo dõi câu chuyện cuộc đời họ cho đến tận trang sách cuối cùng. Đúng như lời khẳng định các nhà phê bình văn học, Kẻ trộm sách là một tác phẩm mà bạn sẽ khó lòng bỏ xuống nửa chừng một khi đã bước vào câu chuyện kể của vị thần chết vui tính này. Nhận định đánh giá của cá nhân tôi về quyển sách này Tôi rất thích quyển sách này, một quyển sách tuyệt vời, một tuyệt tác của văn học hiện đại. Tôi thích ngôn ngữ nhẹ nhàng, không phô trương, mang nhiều hình ảnh trừu tượng, điều đó làm chiến tranh như đang hiện hữu, đang diễn ra khi tôi lật từng trang sách. Tôi thích cách trình bày của sách, in đậm những nội dung nổi bật, nhấn mạnh cái cần thiết, như mang khung cảnh cuộc sống thực vào lòng người đọc. Dù ngông cuồng, nhưng, đôi lúc tôi lại muốn sống giữa những năm tháng chiến tranh, để tận mắt chứng kiến, để gặm nhấm tội ác của con người. Cảm ơn tác giả, dịch giả và nhà xuất bản đã mang đến cho người đọc tuyệt tác này. Xin chân thành cảm ơn!

Lần đầu tiên trong lịch sử nền văn học thế giới, một câu chuyện được kể bởi Thần Chết. Bởi Thần Chết có mặt ở khắp mọi nơi, và vào năm 1943, thì công việc của hắn trở nên bận rộn hơn bao giờ hết. Hắn không phải là kẻ thù của bất cứ ai, trái lại, hắn lại là một người bạn thân ái, của kẻ trộm sách, khi câu chuyện này kết thúc. Và câu chuyện này, là câu chuyện về cuộc đời của một kẻ trộm sách - “người lay từ ngữ” - Liesel Meminger. Đứa bé gái trên phố Thiên Đường Chuyện của Liesel bắt đầu vào những ngày tháng yên bình cuối cùng của thế giới - mùa hè năm 1939 - ngay trước khi nhân loại bước vào một trong những sự kiện lịch sử tồi tệ nhất của loài người - thế chiến thứ II, trong đó, có thảm họa diệt chủng Holocaust. Cô bé 9 tuổi được một gia đình trên phố Himmel (Thiên Đường) nhận nuôi, gia đình của Hans Hubermann và Rosa Hubermann. Liesel là một đứa ngang ngạnh, ương bướng, là đứa mà có thể sẵn sàng đấm vào mặt bạn bất cứ lúc nào nếu nó bị bạn xúc phạm. “Cậu chẳng bao giờ biết được khi nào thì nó sẽ giáng cho cậu một cái bạt tai đâu”, một thằng con trai vừa nhận một trận nhừ đòn từ Liesel đã nói thế. Tại phố Thiên Đường này, Liesel đã bắt đầu quen mặt với đủ loại nhân vật: từ người đàn bà không chồng Holtzapfel đặc biệt ưa thích việc khạc nhổ và chửi rủa người khác, đến mụ chủ cửa hàng tạp hóa người Aryan cao quý, thuần chủng; từ Rudy Steiner, đứa con trai với mái tóc màu vàng chanh và ba huy chương vàng treo trên cổ - mà sau này sẽ trở thành người bạn chí cốt của Liesel, đến thằng nhóc bị “thối tai kinh niên” Tommy Muller với bộ mặt lúc nào cũng có xu hướng co rúm lại đã nhận nhiều hơn một quả đấm từ Liesel. Và cũng phố Thiên Đường ấy, mặc cho sự trỗi dậy mạnh mẽ về mặt kinh tế của nước Đức dưới thời Hitler, vẫn là con phố của những kẻ nghèo khổ, bần hàn. Hans Hubermann Khi đến phố Thiên Đường, người bạn đầu tiên của Liesel, không ai khác, chính là người bố nuôi - Hans Hubermann - một người chơi đàn xếp tài ba. Hans đến bên nó khi nó gặp cơn ác mộng đầu tiên, ở bên nó những khi màn đêm buông xuống, bắt cho nó những con chữ đang nhảy múa trên từng trang sách. Ông mang âm nhạc tới con phố nghèo nàn u ám này, với cây đàn xếp cũ kỹ trên tay. Và cũng chính ông, một người Đức thuần chủng, đã giang tay che chở cho Max Vandenburg, một thanh niên người Do Thái sinh ra trên đất Đức đang bị chính đất nước mình ghẻ lạnh, mặc cho giấu một người Do Thái trong nhà mình ở thời điểm đó là một việc làm đầy nguy hiểm. Nhưng lương tâm của ông đã buộc ông phải làm vậy, dù cho những tháng ngày đó ông phải sống trong sự dằn vặt, sợ hãi trước một sự thật rằng một khi Max bị phát hiện, không chỉ ông, mà cả Rosa và Liesel cũng sẽ không còn đường sống sót. Ông đã làm vậy, cho tới khi không còn có thể tiếp tục được nữa. Những cuốn sách của Người lay từ ngữ Có thể nói, cuộc đời của Liesel chính là gắn liền với những cuốn sách. Chúng gần như là cầu nối duy nhất giúp Liesel đến gần với mọi người ở phố Thiên Đàng hơn. Đầu tiên, là Hans Hubermann, bố nuôi của nó. Hans là người phát hiện ra cuốn sách đầu tiên nó ăn trộm, và cũng là người đã nhen lên tình yêu sách, tình yêu văn chương trong trái tim con bé. Bố đem đến cho nó từ ngữ, trong bóng tối, dưới tầng hầm, hay bên dòng sông Amper êm đềm chảy xuôi, mà chính những từ ngữ đó, sau này, đã cứu sống cuộc đời nó, cứu sống nó. Và vì thế, mà con bé yêu bố mình da diết. Có những đêm, sau khi buổi học dưới tầng hầm kết thúc, Liesel ngồi trong nhà tắm và nghe những lời bình luận quen thuộc vọng ra từ căn bếp. “Ông thối quá”, Mẹ nói với Hans. “Như mùi thuốc lá và dầu hỏa ấy.” Vừa ngồi ngập trong nước, con bé vừa tưởng tượng ra thứ mùi tỏa ra từ quần áo bố nuôi nó. Hơn hết, đó là mùi của tình bạn, và nó cũng có thể ngửi thấy cái mùi ấy trên người mình. Liesel yêu cái mùi đó. Con bé thường hít ngửi cánh tay mình, trong lúc làn nước mát cứ bồng bềnh xung quanh. Những cuốn sách cũng chính là sợi dây liên kết vô hình giữa Liesel và một nhân vật đặc biệt, Ilsa Hermann. Nhờ có Ilsa, con bé đã lần đầu tiên được bước vào thư phòng nhà thị trưởng. Nhờ có Ilsa, con bé đã lần đầu tiên được chạm tay vào những cuốn sách quý giá, cả một kệ đầy sách, và thư thái tận hưởng vị ngọt của văn chương. Nó lướt mu bàn tay của mình dọc theo hàng kệ đầu tiên, lắng nghe tiếng móng tay quẹt lạo xạo trên gáy của từng quyển sách. Âm thanh ấy nghe như một thứ nhạc cụ, hay như một thứ công cụ để ghi chép lại những bước chân đang chạy. Nó dùng cả hai tay. Nó đua chúng. Kệ này nối tiếp kệ khác. Và nó cười. [...] Con bé lại đi một vòng và lặp lại hành động ấy một lần nữa, lần này chậm hơn rất nhiều, tay nó để xuôi, cho lòng bàn tay nó cảm nhận được từng quyển sách một. Nó có cảm giác như một phép màu, như cái đẹp, như những tia sáng chiếu xuống từ một ngọn đèn treo. Có vài lần con bé đã gần như rút một quyển sách ra mà không dám. Chúng quá hoàn hảo. Liesel yêu sách da diết. Và tình yêu ấy của nó, sau đó, thường được hiện thực hóa theo cái cách kì dị và điên rồ nhất - trộm sách, đặc biệt là sau khi con bé đã có thể tự đọc được chữ, thì niềm khao khát những cuốn sách mới trong nó càng cháy bỏng hơn bao giờ hết. Liesel là một cô bé với những ý nghĩ và những quyết định kì quặc, nhưng bên cạnh nó, đồng hành với nó trong những vụ ăn trộm, luôn là Rudy Steiner. Rudy không phải một kẻ mê sách, nhưng thằng bé vững chãi và luôn muốn đảm bảo rằng “cô bạn gái bé nhỏ” của nó được an toàn. Vì thế, trong mọi hoàn cảnh, trên mọi “chiến trường”, bên Liesel luôn là một mái tóc màu vàng chanh của cậu bạn nhà bên luôn miệng gọi nó là “Đồ lợn!” Nói tới Liesel và những cuốn sách, chắc chắn sẽ là một thiếu sót không thể bỏ qua nếu không nhắc về một nhân vật với tầm ảnh hưởng rất lớn tới tính cách và tình yêu văn chương trong con bé - Max Vandenburg. Như đã đề cập đến ở trên, Max là một “tay đấm” người Do Thái sẽ trú ngụ trong nhà Liesel trong một khoảng thời gian khá dài và nhiều biến cố. Max là người Liesel lo lắng nhiều nhất, cũng tìm kiếm nhiều nhất. Thời gian có Max trong gia đình với con bé là khoảng thời gian tuyệt đẹp khi nó được hàng ngày ngồi cùng anh dưới tầng hầm, anh viết truyện, còn nó thì đọc sách; khi nó sẽ lao ra khỏi nhà và ngay lập tức vào báo với Max tình hình thời tiết ngày hôm nay. Max giúp nó trở thành một người có-bí-mật, và một người biết-giữ-bí-mật. Và cũng chính anh đã là người đặt cho con bé cái tên mà nó rất thích Người lay từ ngữ. Anh viết: Những người leo lên cây lời nói được gọi là những người lay từ ngữ. Những người lay từ ngữ giỏi nhất là những người hiểu được sức mạnh đích thực của từ ngữ. Họ luôn là những người có thể trèo lên cao nhất. Một trong số những người lay từ ngữ như vậy là một đứa con gái bé nhỏ, mảnh khảnh. Cô bé ấy nổi tiếng là người lay từ ngữ giỏi nhất vùng, bởi cô biết một con người có thể bất lực đến thế nào NẾU KHÔNG CÓ từ ngữ. Cô bé luôn đói khát những từ ngữ. Sức mạnh của từ ngữ... Cô bé luôn đói khát những từ ngữ có lẽ là những câu chữ vừa vặn nhất dành cho Liesel. Cô bé đã nhận ra, sau những biến cố đã xảy đến với mình, gia đình, người bạn thân nhất, con phố Thiên Đường, thị trấn Molching và cả nước Đức, đúng, cô bé đã thực sự nhận ra từ ngữ có sức mạnh to lớn đến nhường nào. Những từ ngữ đã giúp một kẻ tàn bạo như Adolf Hitler thu phục biết bao con người Đức thuần chủng, buộc họ phải từ bỏ, ghẻ lạnh đồng loại Do Thái, ngay cả khi những con người Do Thái đó được sinh ra trên chính đất nước mình. Những từ ngữ, được Liesel hít vào rồi thở ra dưới căn hầm chật chội nhà Fiedler, chen chúc dưới những âm điệu rền vang của những quả bom dội xuống trần nhà, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của nó là xoa dịu nỗi sợ hãi của tất cả mọi người, sự hỗn loạn, căng thẳng của người lớn, và tiếng gào khóc của lũ trẻ con. Tất cả đều dừng lại, để cho sự im lặng rỉ qua tầng hầm đông nghịt người, nhường chỗ cho tiếng đọc sách lảnh lót của một cô bé gái. Những từ ngữ, quả thật, nó có một sức mạnh khủng khiếp nhường ấy, nó có thể xây đắp tất cả mà cũng có thể phá hủy tất cả. Tất cả, do con người tạo nên, ngay cả Thần Chết cũng cảm thấy sợ hãi. Tôi muốn kể cho kẻ trộm sách nghe rất nhiều điều, về cái đẹp và sự tàn khốc. Nhưng tôi có thể kể với bà ấy cái gì đây về những điều mà bà ấy vẫn chưa biết? Tôi muốn giải thích với bà rằng tôi thường xuyên đánh giá con người quá cao hoặc quá thấp - rằng rất hiếm khi tôi chỉ đơn giản là đánh giá họ. Tôi những muốn hỏi bà ấy làm sao mà một giống loài lại có thể vừa quá xấu xa vừa quá vĩ đại như vậy, và làm sao mà từ ngữ của giống loài ấy lại có thể vừa đáng nguyền rủa vừa thần diệu đến thế. ...Và chiến tranh Kề về chiến tranh, ấy vậy mà dường như “những chiến trường đẫm máu”, hay “những cỗ xe tăng súng đạn chết người” lại không phải là điều Zusak muốn tập trung khắc họa. Thay vào đó, là 4 năm đầy ắp những ám ảnh, lo lắng, sợ hãi, 4 năm bị bao trùm bởi những nỗi kinh hoàng của một cô bé tại một thị trấn nhỏ thuộc ngoại ô thành phố Munich, Đức, trên một con phố mang tên Thiên Đường. Cuộc sống ấy đã có thể thật đẹp đẽ nếu như không có cuộc tàn sát Holocaust, và gia đình Hubermann đã không phải sống trong dằn vặt khi phải giấu một thanh niên Do Thái trong căn nhà chật chội của mình. Cuộc sống ấy đã có thể trở nên đáng nhớ theo một cách dễ chịu hơn nếu những quả bom không rơi xuống Munich từ lồng ngực của những chiếc máy bay hàng đêm gầm rú trên bầu trời. Bởi chiến tranh, không là gì khác, chính là nỗi đau không thể nguôi ngoai, đặc biệt với những người ở lại. Hẳn rồi, chiến tranh có nghĩa là chết chóc, nhưng nó luôn khiến cho mặt đất dưới chân người ta trở nên chao đảo khi cái chết ấy là của một người đã từng sống và hít thở gần bạn đến như thế. Rosa đã chứng kiến cả hai đứa con trai nhà Holtzapfel lớn lên. Lời kết Chủ đề của Kẻ trộm sách - thế chiến thứ II - không phải là một chủ đề mới. Đã có quá nhiều những tác phẩm văn học được tạo nên để mô tả tội ác và tất cả những thảm kịch mà những kẻ phát xít đã gây ra cho thế giới loài người. Nhưng Kẻ trộm sách lại được “vẽ” nên bởi những “từ ngữ” hoàn toàn khác - đơn giản mà sâu lắng, nhẹ nhàng mà táo bạo - đã khoác lên thế chiến thứ II một diện mạo hoàn toàn mới, hiện hữu trong chính tâm can của từng nhân vật, trong suy nghĩ, cảm xúc và những biến cố cuộc đời của chính họ. Để rồi người đọc sẽ cùng cười, cùng khóc và sẽ đồng hành với họ tới tận những trang sách cuối cùng!

Kẻ Trộm Sách là một cuốn sách kỳ lạ, nó mang màu chết chóc nhưng lại tràn đầy hơi thở của sự sống. Dõi theo những nhân vật được đặt trong bối cảnh của một chiến tranh tàn khốc, đến cuối cùng chúng ta phải thốt lên “Nhân hậu nhất là con người, độc ác nhất cũng là con người” Kẻ trộm sách, được biết đến bởi độc giả trên toàn thế giới với cái tên The Book Thief, là một tiểu thuyết lịch sử được viết bởi tác giả người Úc Markus Zusak. Xuất bản vào năm 2005, Kẻ trộm sách đã trở thành một trong những cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất trên thế giới theo bình chọn của NewYork Time, và được dịch ra hơn 30 ngôn ngữ. Cuốn tiểu thuyết xuất sắc này đã được chuyển thể thành một bộ phim cùng tên vào năm 2013 với thông điệp được in trên poster “Lòng can đảm vượt xa mọi ngôn từ” Giữa khung nền ảm đạm của cuộc chiến, len lỏi vào đó là sự trân trọng âm nhạc và sắc màu “Mỗi buổi sáng khi bố đẩy hay kéo cái xe ra khỏi nhà, Liesel đều mang theo cây đàn. “Chúng ta thà để lại những thùng sơn”, Hans bảo với nó, “còn hơn là để quên âm nhạc ở nhà”  Âm nhạc và những sắc màu là đại diện cho những điều nhỏ nhoi đẹp đẽ luôn hiện hữu xung quanh chúng ta. Một bài hát có thể làm lòng ta nhẹ nhõm phần nào trong những căng thẳng của đời sống, một sắc cầu vồng sau ngày mưa cũng làm ta phấn chấn hơn trên đường trở về nhà. Một sớm mai thức dậy thấy bầu trời xanh lộng gió cũng làm ta thêm yêu đời. Cuộc sống sẽ đẹp hơn biết bao nhiêu nếu ta biết trân trọng những điều như vậy. Giữa sự lạnh lùng tàn bạo của chiến tranh là tình thương giữa người cha nuôi và cô con gái nhỏ, tình bạn hồn nhiên giữa hai cô cậu bé lớn lên trong cùng một góc phố tồi tàn thời chiến, là tình cảm của những kẻ đồng cảnh ngộ trú ngụ trong hầm tránh bom, là lòng thương xót của người cha với anh chàng Do Thái đang trốn chạy khỏi sự truy đuổi của Đức Quốc Xã “Khi ông bật đèn sáng lên trong gian phòng rửa nhỏ xíu và thảm hại vào đêm hôm đó, Liesel quan sát nét lạ lùng trong đôi mắt của người cha nuôi. Chúng được làm từ lòng tốt, và bằng bạc. Như thứ bạc mềm, đang tan chảy vậy.” (Trích: Kẻ trộm sách) Sự kết nối giữa người với người là một sợi dây giữ ta thăng bằng trong cuộc sống. Con người, nếu không có đồng loại, không có sự cảm thông sẻ chia, sẽ đơn độc đến tận cùng. Giữa thế giới còn đầy rẫy những hiểm ác và ngập tràn những điều phù phiếm và xấu xa, thứ tồn tại vững chãi nhất là lòng nhân đạo đối với người đang gặp khó khăn, và sự can đảm trong cuộc chiến của chính mình. Khả năng sử dụng ngôn từ vô cùng điêu luyện và tuyệt diệu của Markus Zusak Giống như ông gom một đống từ ngữ trong tay, ném mạnh lên mặt bàn để thể hiện sự phẫn nộ, rải chúng vương vãi trên sàn nhà với thái độ thờ ơ lãnh đạm, hay xếp chúng để những từ ngữ ngân nga lên thành một bản nhạc, rồi tung chúng lên nền trời để vẽ lên một chiếc cầu vồng rực rỡ. Đây là một cuốn sách mà ngoài việc bị ấn tượng với nội dung của câu chuyện thì độc giả còn “sốc” vì lối dẫn truyện dí dỏm sâu sắc và cách lựa chọn từ ngữ mang dấu ấn rất riêng của tác giả. Một tác phẩm rất đáng đọc.