Vào một dịp đặc biệt bạn nên tặng bạn bè, người thân, người ấy món quà gì? Nếu họ là người yêu đọc sách, thì một quyển sách kinh điển là món quà tuyệt vời nhất. Với 15 quyển sách hay để tặng sau đây, bạn hãy lựa chọn quyển sách tuyệt với nhất, phù hợp nhất để làm quà tặng đầy ý nghĩa nhé. Đa phần các tác phẩm sau đều là văn học kinh điển, nhận được sự yêu thích của đại đa số mọt sách trên thế giới. Và hơn thế nữa, những câu chuyện, bài học đầy tính nhân văn trong những quyển sách sau sẽ cho người nhận thêm những góc nhìn, nhận định hay về cuộc sống, về con người. Giết con chim nhại – Harper Lee
Xem thêm

"Triệu phú khu ổ chuột" khiến mình suy nghĩ rất lâu về nó. Và thật sự nó đúng như lời khen: "Một cuốn tiểu thuyết chói sáng, vĩ đại, rung động và hỗn loạn như chính nước Ấn Độ vậy" (Observer) "Đọc "Triệu phú khu ổ chuột" cũng giống như bắt được đồng xu may mắn của Ram Mohammad, bạn sẽ muốn mang nó bên mình và chia sẻ giá trị của nó với bạn bè"- The Times-Picayune Ngay khi gấp lại trang sách, mình đã thật sự muốn lan tỏa cuốn sách và những thông điệp giá trị của nó đến bạn đọc. "Triệu phú khu ổ chuột" là một cuốn sách đạt được mọi điều mà người ta gọi là khắc nghiệt và nhân văn. Mở đầu cuốn sách, Ram Mohammad Thomas bị bắt. Bị bắt vì chiến thắng trong trò chơi Ai là tỷ phú. Vì cậu chỉ là một đứa trẻ mồ côi, sống ở Dharavi, một trong những khu ổ chuột lớn nhất trên thế giới, vì cậu chưa từng được đến trường, chẳng hề biết những điều dù đơn giản nhất nhưng lại trả lời đúng tất cả 12 câu hỏi. Một câu chuyện khiến ta tin vào phép màu, tin vào may mắn trong cuộc sống. Nhưng liệu chỉ có may mắn? Tấm màn dần được hé lộ qua lời kể của Ram. Từng câu hỏi, từng ẩn số dần được giải đáp qua cuộc sống của cậu, qua những điều cậu đã trải qua. Đó là một chuyến hành trình dài, có lúc khắc nghiệt đến nhói lòng nhưng có lúc ta lại không khỏi mỉm cười bởi tình bạn của những cậu bé nghèo nhưng tốt bụng và mạnh mẽ. Lật từng trang sách, ta cứ ngỡ mình là cậu bé Ram, tuy trải qua rất nhiều điều cơ cực nhưng luôn kiên cường tiến lên phía trước, hướng về ánh bình minh rực rỡ. Có lẽ, bởi vậy cậu luôn mang theo mình một đồng xu, bởi cậu tin nó sẽ đem đến cho cậu may mắn hoặc một chút hy vọng bé nhỏ giữa cuộc sống cơ cực, giữa bóng tối giăng kín con đường phía trước kia. Những điều tưởng đen tối năm nào lại mang đến cho cậu bé ấy hi vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn. Hiện thực cuộc sống hiện lên trực tiếp qua từng con chữ, không tô hồng nhưng không hề bi quan, tác giả nhìn thẳng vào xã hội Ấn Độ, một xã hội bất công, bần hàn và đáng sợ. Một xã hội với nhiều góc khuất và từng điều được hé lộ. Đó là sự xung đột tôn giáo, đó là sự nghèo túng đến tận cùng, đó là sự lạnh lùng và thờ ơ trước những điều bất hạnh của người dân nơi đây: "Bất cứ chuyện gì xảy ra trong bốn bức tường của một gia đình đều là chuyện riêng của gia đình đó và chúng ta không thể can thiệp. Cậu là một thằng bé mồ côi còn ít tuổi. Cậu chưa hiểu đời. Nhưng tôi thì tôi biết những chuyện đánh vợ, ngược đãi, loạn luân và hãm hiếp xảy ra hằng ngày tại những khu chawl ở khắp Mumbai này. Tuy nhiên, không ai làm gì hết. Người Ấn Độ chúng ta có cái khả năng tuyệt vời là nhìn thấy những đau đớn khổ cực quanh mình mà vẫn không bị ảnh hưởng. Vậy nên, như một người Mumbai đích thực, hãy nhắm mắt, bưng tai, ngậm miệng lại, và cậu sẽ vui vẻ giống như tôi. ". Họ đã luôn sống như vậy và nó khiến xã hội ấy ngày càng trở nên tệ hại hơn. Có một câu đại ý rằng xã hội không trở nên tệ hại hơn bởi những người xấu mà bởi sự im lặng của người tốt. "Triệu phú khu ổ chuột" khiến mình suy nghĩ rất lâu về nó. Và thật sự nó đúng như lời khen: "Một cuốn tiểu thuyết chói sáng, vĩ đại, rung động và hỗn loạn như chính nước Ấn Độ vậy" (Observer) Hãy cầm cuốn sách lên biết đâu bạn sẽ tìm được may mắn cho chính mình. May mắn sẽ luôn đến với những người tin vào điều đó.

Tôi thường tâm niệm rằng mỗi cuốn sách chỉ có giá trị đúng đắn khi bạn ở trong một tình cảnh phù hợp. Trưởng thành sau ngàn lần tranh đấu là một trường hợp như vậy : cuốn sách đến với tôi vào một trong những lúc khó khăn nhất. Rando Kim là giáo sư giảng dạy ở trường đại học Quốc gia Seoul, là tác giả của nhiều cuốn sách thuộc thể loại self help (kỹ năng sống), đặc biệt thành công tại Hàn Quốc và châu Á. Trưởng thành sau ngàn lần tranh đấu là một trong số đó. Đây là một cuốn sách viết theo dạng tản văn, có sự kết hợp của nhiều hình thức: văn xuôi, thư gửi một người học sinh, một người quen biết,… Sách gồm bốn phần với các chủ đề lớn: I – Hãy yêu lấy vận mệnh của bạn; II- tuổi trẻ bước vào đời, III-Hãy gặp gỡ, hãy yêu và hãy sống và IV – Gửi bạn, người đang tiến tới điểm quay đầu của cuộc đời. Mỗi chủ đề lớn có những chủ đề nhỏ riêng, ghép từ những phần nhỏ, là những mối lo, những suy nghĩ của người trưởng thành : vận mệnh, việc làm, đi hay ở, công việc – tiền bạc, kết hôn, quan hệ bạn bè, những bộn bề mối lo gia đình và chính bản thân mình. Mục đích của cuốn sách là viết ra nhằm giúp người đọc – những người đang trưởng thành nói ra những đè nén trong lòng và từ đó chữa trị cho mình. Những câu văn chất chứa những tâm tư, trăn trở của tác giả. Mỗi lá thư, mỗi câu chuyện đều là kết quả của những suy nghĩ, những chất chứa trong lòng từ lâu của ông về nỗi khó khăn, vất vả, sự hi sinh, đánh đổi của con người. Mẩu chuyện về người thính giả trên Radio kể về hoàn cảnh khó khăn của mình và xin Rando Kim một lời khuyên khiến tôi thật cảm động. Đó cũng là lúc mà Rando Kim trích dẫn một câu nói : “Amor Fati” – Hãy yêu lấy vận mệnh của mình, dù ông thấu hiểu sự tàn nhẫn của câu nói ấy, nhưng vẫn đưa ra để người đó có đủ sức mạnh chống chọi với nghịch cảnh. Mỗi lần đọc lại mẩu chuyện này đều khiến tôi xúc động không nói nên lời, và tự nói với bản thân – Amor Fati. Có ngững câu văn mà ẩn sâu trong đó tôi cảm nhận được niềm tin vô cùng của Rando Kim vào con người và sự cố gắng của ông để lan truyền thông điệp về việc phấn đấu không từ bỏ, về gục ngã và tiếp tục. Đi kèm với chúng là tính kiên nhẫn và thấu hiểu như một mạch nước ngầm nhỏ nhưng bền bỉ, đang đi theo lắng nghe bạn đọc của tác giả. Cuốn sách đã đạt được mục đích của mình : Mỗi câu chuyện là một dịp để bạn chia sẻ mẩu chuyện của chính cuộc đời bạn với Rando. Tản văn là tiếng lòng. Tôi nhận thấy một sự chân thành sâu sắc trong mỗi lời văn, mỗi câu chữ của Rando Kim. Đọc cuốn sách hiểu mình, tôi thấy nhẹ nhàng và trầm tĩnh hơn. Tôi nhận được những bài học quý giá, những suy nghĩ sâu sắc về giá trị bản thân và cuộc đời, có thể là thuốc chữa cho bản thân mình vào một lúc nào đó. Đọc cuốn sách, tôi thấy được an ủi, được bình yên hơn. Tôi cảm thấy vô cùng biết ơn khi được nghe những lời nói, những kinh nghiệm từ một người đàn anh đã trưởng thành sớm hơn tôi một chút. Về cách trình bày, dàn trang : Tôi chưa tìm đọc bản gốc tiếng Hàn, nhưng dường như những chi tiết nhỏ về cách trình bày, dàn trang, xuống dòng,… đều được tác giả và nhà xuất bản đầu tư chăm sóc kỹ lưỡng. Đặc biệt, hình ảnh được nhà xuất bản sử dụng làm trang bìa là cây mao trúc – loài cây được tác giả nhắc đến trong chương thứ 2, thư gửi một người quen đã nhiều lần liên tiếp rớt đại học. Tôi xin trích dẫn đoạn văn để lại ấn tượng sâu sắc cho tôi: “Hãy kiên cường lên. Bạn là cây mao trúc. Bạn là nước nóng cuồn cuộn đang cận kề điểm sôi. Quãng thời gian kéo dài mà bạn đang trải qua lúc này biết đâu chính là quá trình năm năm của cây mao trúc. […] Sắp đến rồi, thời điểm vươn lên vùn vụt, trở thành cây tre cao nhất thế giới” Cuối mỗi chương đều in lại hình ảnh rừng cây mao trúc vươn lên mạnh mẽ, lồng vào trong đó những thông điệp kiên cường. Đây là một sự sắp đặt có dụng ý, trùng khớp với những gì tác giả mong muốn ban đầu : đây sẽ là một cuốn sách mà thỉnh thoảng người đọc sẽ lấy ra đọc. Quả thực, mỗi lần giở sách ra đọc, tôi nói được lên biết bao nỗi đè nén trong lòng. Tôi thấy mình hạnh phúc hơn khi có cuốn sách và chính tác giả làm bạn. Thú vị là những liên tưởng và hình ảnh so sánh mà Rando Kim sử dụng trong cuốn sách này mang đậm phong cách á đông, có những điểm gần gũi với văn hóa Việt Nam, nhưng cũng đủ mới lạ để người đọc thấy thu hút. Đó thường là những hình ảnh thiên nhiên gần gũi, như mùa đông, mùa xuân, loài hoa, như con sâu … Bên cạnh đó, người đọc cũng cảm nhận được vốn hiểu biết rộng rãi thông qua những câu chuyện, lời tựa, trích đoạn thơ của các tác giả nước ngoài mà Rando Kim đưa vào trong sách. Những chi tiết đó thể hiện một tâm hồn yêu cái đẹp, nhạy cảm và chất chứa nhiều nỗi niềm của một người trí thức. Văn chương trong cuốn sách dung dị mà sâu sắc, tinh tế có chọn lọc, cùng với cách viết giản dị, gần gũi và chân tình, phù hợp với vị trí của một giảng viên đại học, một người ngày ngày tiếp xúc với tầng lớp học sinh sinh viên. Gần đây tôi có đọc một bài thơ – If của Rudyard Kipling sáng tác năm 1895, và bản dịch tiếng pháp Si…, của Jules Castier. Ngoài việc được coi là bài thơ tiếng Anh hay nhất mọi thời đại thì đây là một sự thể hiện đặc biệt thành công về chủ nghĩa khắc kỷ và chủ nghĩa chấp nhận nghịch cảnh. Tôi chợt thấy có điểm chung giữa If và Trưởng thành sau ngàn lần tranh đấu: cả hai đều là khát vọng của những con người có ý thức trong một thời buổi “chẳng dễ dàng gì”, của những sức ép, những dồn nén, những “cạnh tranh ngày càng khốc liệt”, của một “xã hội mất đi lực hướng tâm, còn lực ly tâm thì ngày một lớn”. Dù tiến vào giai đoạn công nghiệp hóa sau nước Anh hàng trăm năm, sau Hàn Quốc hàng chục năm, xã hội Việt Nam cũng đang và sẽ phải đối mặt với những vấn đề này. Tôi mong rằng cuốn sách này trở thành một cuốn cẩm nang cho những người đang chao đảo trên con đường mang tên trưởng thành. Khi bạn chao đảo, hãy từ tốn lấy ra và đọc một chút Trưởng thành sau ngàn lần tranh đấu: cuốn sách sẽ là người bạn tâm giao, là người nâng bạn dậy và truyền những năng lượng tích cực để bạn tiếp tục bước đi trong cuộc đời này.

“Vì cậu, cả ngàn lần rồi” Đây chỉ là một câu nói ngắn ngủi thôi nhưng sức công phá của nó thật mạnh mẽ, nó ùa vào sâu trong lồng ngực của độc giả và để lại ở đó một vết thương sâu hoắm mà thời gian qua đi chưa chắc đã có thể chữa lành. Nếu bạn không thích những câu chuyện buồn, tôi khuyên bạn không nên đọc “Người đua diều”. Cuốn sách này hay vô cùng nhưng cũng buồn lắm. Dư âm của nó vẫn còn trong tôi mặc dù tôi đã kết thúc cuốn sách cũng khá lâu rồi. Đất nước Afghanistan những năm 1970 hiện lên trong những trang sách không chỉ đơn thuần là đất nước bất ổn về chính trị và chiến tranh mà ở đó còn có những tháng ngày trong xanh và tươi đẹp, những ngày hai cậu bé Amir và Hassan lớn lên cùng nhau dưới một mái nhà. Tình bạn của trẻ con vô tư và trong sáng nhưng rồi sự ích kỷ lớn dần lên vô hình trung khiến bầu trời tuổi thơ ấy vỡ vụn. Có một vài đoạn chỉ đơn thuần đọc thôi mà đã khiến bạn run bần bật xúc cảm, có những đoạn tưởng như bạn phải bịt mắt và bịt tai lại để không phải thấy, không phải nghe cái hiện thực khắc nghiệt dường như đang diễn ra trước mắt dẫu rằng đó chỉ là vài ba trang nhỏ trong cuốn sách này. “Người đua diều” sẽ gửi đến bạn nhiều và thật nhiều những bài học. Học từ những lỗi lầm, học từ sự hy sinh, bài học cha dạy con, học từ vết thương cuộc sống. Tôi đặc biệt thích cách cha của Amir dạy anh về tội ăn cắp: “Trên đời này chỉ có duy nhất một tội, một tội thôi. Đó là tội ăn cắp. Mọi tội khác điều là biến thái của tội ăn cắp… Khi con giết một người con ăn cắp một cuộc đời. Con ăn cắp quyền làm vợ của một người đàn bà. Cướp cha lũ trẻ. Khi con nói dối là con ăn cắp quyền của ai đó được biết sự thật. Khi con lừa bịp, con ăn cắp quyền được ngay thẳng. Con hiểu không? “ Có những nhân vật xuất hiện trong những cuốn truyện rồi để lại dấu ấn rất sâu đậm trong tôi, đặc biệt là những con người trong sáng và lương thiện. Cậu bé Hassan trong “Người đua diều” làm lu mờ tất cả mọi nhỏ nhen, tầm thường, làm sáng lên tinh thần nhân văn của cuốn sách, khiến người đọc xót xa thương cảm và cũng nhờ đó mà họ sống “người” hơn. Đọc về Hassan đột nhiên tôi lại nghĩ đến Mừng – cậu bé con trong “Tuổi thơ dữ dội”. Tất nhiên là hai nhân vật này có rất nhiều điểm khác nhau về tính cách, hoàn cảnh sống nhưng ở cả hai cậu bé đều ắp sự dễ thương, ngây thơ, hiền hậu và lấy đi không biết bao nhiêu nước mắt cảm thương của người đọc. Tôi không biết trong cuộc sống này, còn bao nhiêu Hassan tồn tại nữa, nhưng nếu bạn gặp một Hassan hiền lành như thế, tốt bụng như thế, thì hãy dành trọn cả tấm lòng mình để yêu mến họ, đừng để lỗi lầm xảy ra rồi hối tiếc như Amir. Mỗi hành động của bạn đều ít nhiều ảnh hưởng đến cuộc đời người khác. Vậy nên, chúng ta, cố gắng mỗi ngày, hành xử để trở nên tốt đẹp hơn. Và hãy nhớ rằng: “Luôn có một con đường để tốt lành trở lại.”

“Nếu chỉ còn một ngày để sống, tôi sẽ làm gì?” – câu hỏi này đã giúp tôi vượt qua khoảng thời gian đó. Thông điệp của cuốn sách “Nếu chỉ còn một ngày để sống” thực sự khiến tôi phải gật gù tâm đắc, yêu thích. Ai cũng cần sống và hơn nữa, còn phải sống tốt. Vì chúng ta chỉ sống có một lần trên đời, đừng vì chút khó khăn, vấp ngã mà chìm vào bóng đêm bi quan, tiêu cực. Tương lai là một khái niệm mông lung và bất định. Bạn không thể biết được ngày mai của mình sẽ ra sao, thậm chí là không biết giây sau, phút sau mình sẽ như thế nào. Chính vì không nắm bắt được hai chữ “Tương lai”, mà nhiều người cứ mặc kệ số phận, sống buông thả hay thu mình, và chưa thực sự hết mình. Có lẽ họ nghĩ rằng “Đời còn dài, việc gì phải vội”!. Nhưng họ không biết rằng, chính câu nói ấy sẽ cản bước chân họ khám phá những điều kì diệu, khám phá tình yêu trong cuộc đời này. “Nếu chỉ còn một ngày để sống” tên sách gốc Everything, Everything là cuốn tiểu thuyết bán chạy số 1 của New York Times – đồng thời được chuyển thể thành phim điện ảnh với sự góp mặt của hai diễn viên nổi tiếng là Amandla Stenberg trong vai Maddy và Nick Robinson trong vai Olly. Ngay từ khi công chiếu, bộ phim đã gây bão tại các phòng vé trên toàn thế giới kéo theo cơn sốt tìm đọc cuốn sách đặc biệt này đến từ các fan yêu thích bộ phim.Nhà văn mang hai dòng máu Mĩ-Jamaica Nicola Yoon đã lấy nguồn cảm hứng từ chính đứa con gái bé nhỏ của mình để viết nên cuốn sách nổi tiếng “Nếu chỉ còn một ngày để sống”. Cuốn sách mang theo một thông điệp đầy tính nhân văn: Hãy tận hưởng cuộc sống này hết sức có thể, nếu không thì bạn sẽ phải hối hận. Đây là một cuốn sách mà theo tôi nghĩ là bất cứ ai, dù ở độ tuổi nào cũng nên phải đọc một lần. Đó là một chuyện tình cảm động được kể dưới ngòi bút tràn đầy những xúc cảm khác biệt đem đến cho người đọc những rung cảm chân thật chạm đến từng ngóc ngách trong trái tim. Một cuốn sách đã khiến hàng triệu độc giả phải khóc phải cười qua từng trang giấy. “Nếu cuộc đời là một cuốn sách thì bạn đọc ngược từ dưới lên cũng sẽ chẳng có gì thay đổi. Hôm nay chẳng khác gì hôm qua. Ngày mai cũng giống hệt ngày hôm nay. Trong cuốn sách về cuộc đời em, chương nào cũng giống hệt chương nào, cho tới khi anh xuất hiện.” Đánh đổi mọi thứ… vì tình yêu. Liệu điều đó có hoàn toàn xứng đáng ? Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không thể chạm vào bất cứ thứ gì trong thế giới ngoài kia? Không bao giờ được hít thở bầu không khí trong lành, cảm nhận ánh nắng ban ngày làm bỏng rát khuôn mặt… hay thử hẹn hò và hôn lên môi cậu chàng hàng xóm? Những thứ giản đơn và ý nghĩa của cuộc sống mà bất kì ai cũng sẽ phải trải qua. Trong “Nếu chỉ còn một ngày để sống” , Maddy là một cô gái mắc hội chứng thiếu hụt miễn dịch tổ hợp trầm trọng, và Olly là cậu bạn nhà kế bên – cũng là mối hiểm nguy lớn nhất mà cô từng đối mặt. Bệnh của Maddy nổi tiếng như mức độ hiếm có của nó. Cô có thể bị nhiễm bệnh bởi bất cứ nguyên tố nào ngoài trời. Đó là lý do mà cô được sống trong nhà với sự chăm sóc tận tình của mẹ và cô y tá. Thế nhưng cuộc sống êm đềm đến độ nhàm chán trong ngôi nhà bong bóng của Maddy đột ngột thay đổi khi có hàng xóm mới chuyển đến. Từng cuộc trò chuyện qua email trở thành sợi dây gắn kết những rung động đầu đời giữa Maddy và cậu chàng hàng xóm, Olly. Olly là cậu trai ưa thích thể thao, chạy nhảy, leo trèo suốt ngày. Maddy đã bị Olly thu hút ngay từ ánh nhìn đầu tiên qua ô cửa sổ. Chính từ khoảnh khắc ấy, có gì đó trong Maddy đã vùng lên khi cô muốn thoát khỏi cuộc sống bong bóng đó. Khao khát muốn được sống một cuộc đời tự do và làm những điều mình muốn. Có thể chúng ta không thể dự đoán được tương lai, nhưng chúng ta có thể dự trước vài điều. Những biến cố bất ngờ xảy đến trong cuộc đời Maddy sẽ khiến cuộc sống của cả hai thay đổi như thế nào ? Liệu tình yêu có phải thứ duy nhất khiến chúng ta dễ dàng cho đi và hi sinh tất cả để nắm lấy. Tất cả sẽ được giải đáp một cách hoàn toàn thuyết phục trong Nếu chỉ còn một ngày để sống. Nó sẽ làm bạn mỉm cười, khóc trong sự xúc động và cảm nhận rõ ràng hơn ý nghĩa về mọi thứ diễn ra trong cuộc đời. Đó là một cuốn tiểu thuyết mới mẻ, truyền năng lượng tích cực đến bạn và hãy luôn ghi nhớ rằng “Cuộc sống là một món quà, đừng quên tận hưởng nó !” Cuốn sách giúp mùa hè của bạn trở nên đặc biệt ý nghĩa, còn chần chừ gì nữa mà không sở hữu ngay cuốn sách tuyệt vời này ! Nếu chỉ còn một ngày để sống” của nhà văn Nicola Yoon với mong muốn sau khi buông cuốn tiểu thuyết này xuống, bạn sẽ nhận được điều gì đó cho riêng mình. Tình yêu luôn thật diệu kì và nhiệm màu. Nó có thể biến điều không tưởng thành sự thật và giúp bạn lướt đi qua mọi cơn sóng dữ. Bất luận là ai trên đời này thì cũng cần có tình yêu. Dù đã đọc cuốn sách này khá nhiều lần, nhưng mỗi khi gặp áp lực hay khó khăn trong cuộc sống tôi vẫn thương tìm đến cuốn sách này. Cuốn sách giúp tôi giải tỏa rất nhiều, và kể từ đó tôi thêm yêu cuộc sống này hơn. Khi tinh thần tôi lạc quan lên tự khắc mọi chuyện sẽ xuôi theo chiều hướng tốt nhất. Nhưng đừng mãi chìm vào vòng xoay bon chen mà quên tận hưởng cuộc sống nhé. Bởi lẽ cuộc sống luôn ấm áp và chan chứa yêu thương để dành cho những ai xứng đáng. Hãy cứ trao đi yêu thương, cứ vui cười và đừng nhốt mình trong vỏ ốc tù túng kia. Chúng ta cần phải bay nhảy, phải sống cho ra sống, và đôi khi có thể phá bỏ giới hạn của bản thân. Không chừng, chúng ta sẽ nhận lại nhiều điều quý giá – Cảm xúc. Và tình yêu chân thành có thể phá bỏ ranh giới giữa con người, cũng có thể sẽ nâng đỡ và dìu dắt bàn chân ta bước ra một thế giới mới. Cuốn sách nhẹ nhàng nhưng thấm thía, đã được chuyển thể thành phim cũng rất hay và nổi tiếng. Mỗi trang sách, mỗi câu từ, người mẹ Nicola của chúng ta cũng gửi gắm ước mơ của bà vào đứa con gái bé bỏng. Hãy là chính mình, đừng run sợ, đừng e ngại thế giới ngoài kia. Bằng tình yêu chân thành, mọi thứ rồi sẽ tốt đẹp và có ý nghĩa. Bạn biết không, chỉ cần bạn lạc quan lên, sống tích cực và vui vẻ hơn thì tự khắc tình yêu sẽ tới. Đừng nhắm mắt để thấy toàn bóng đêm mà hãy nhắm mắt để lắng nghe rõ hơn tiếng sóng biển rì rào. Thế giới ngoài kia vẫn chứa đựng muôn vàn điều tốt đẹp và thú vị, quan trọng là bạn có sẵn sàng mở lòng mình và sải bước chân để đón nhận hay không mà thôi!

Paul Kalanithi được chuẩn đoán bị ung thư phổi khi ông 36 tuổi và sắp hoàn thành khóa học nội trú của mình tại đại học Y của Mỹ. Cuốn tự truyện mang đến một luồng suy nghĩ mới mẻ rằng cái chết không hề đáng sợ như các bạn nghĩ, hãy xem nó như một điều có thể xảy ra bất cứ lúc nào với bất cứ ai và đón nhận nó một cách nhẹ nhàng. Cuộc đời của Paul Kalanithi Paul Kalanithi là một bác sĩ giải phẫu thần kinh đồng thời cũng là một nhà văn người Mỹ gốc Ấn Độ. Ban đầu, ông theo học ngành Văn học Anh tại đại học Stanford, nhưng ông luôn tìm hiểu và nghiên cứu về bộ não của con người. Đó là lý do ông tiếp tục theo học ngành Lịch sử và Triết học về Khoa học và Y học của trường Cambridge, cuối cùng ông mới học đại học Y trường Yale. Năm 36 tuổi, đang ở trên đỉnh cao của sự nghiệp thì ông bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi. Tuy vậy ông vẫn chăm chỉ làm công việc của mình, vẫn suy nghĩ một cách tích cực và đã có một đứa con với người vợ yêu thương của mình. Bìa của cuốn sách này cũng được thiết kế rất tinh tế. Mặt trước là hình ảnh của một bác sĩ mặc áo phẫu thuật, mặt sau là hình ảnh của một bệnh nhân. Khi nhìn thấy cuốn sách này, nó tác động đến suy nghĩ của mình rất nhiều, một người dù là người bình thường hay là bác sĩ thì cũng không thể biết trước được bất cứ khi nào mình cũng có thể trở thành bệnh nhân. Khi Paul biết mình bị bệnh nan y nhưng ông không hề bi lụy, ủ rũ, ngược lại ông rất hài lòng với những gì mình đã và đang làm cho công việc, gia đình và bản thân. Những bài học rút ra sau khi đọc cuốn sách Khép lại cuốn sách, “Khi hơi thở hóa thinh không” đã để lại cho tác giả nhiều bài học sâu sắc. Bài học làm người, bài học về cuộc sống, bài học về thời gian. Những bài học giúp chúng ta trưởng thành hơn mỗi ngày. Bạn chỉ thành công khi bạn thực hiện đam mê của mình Trong quá trình đấu tranh với bệnh tật, Paul luôn cố gắng chữa bệnh cho những bệnh nhân khác. Niềm đam mê của ông không bao giờ mất đi ngay cả khi căn bệnh đến giai đoạn cuối và gây đau đớn cho ông. Khi các bạn đã đam mê một lĩnh vực nào đó và đổ dồn tâm sức vào nó thì thành công sẽ đến với bạn. Có lối sống và suy nghĩ tích cực Nhiều người khi biết tin mình bị bệnh sẽ cảm thấy đau khổ, tuyệt vọng. Nhưng với Paul thì ngược lại, ông không bao giờ hối hận về quyết định của mình. Paul là người suy nghĩ rất tích cực, biết mình bị bệnh nhưng vẫn quay lại làm việc, thậm chí đến những ngày cuối cùng của cuộc đời rồi ông vẫn không từ bỏ công việc của mình làm. Một cuốn sách tuy viết về bệnh tật và cái chết nhưng giọng văn không hề bi lụy, không gây cho người đọc cảm giác đau buồn. Trái lại, giọng kể của tác giả khiến cho người đọc có thêm niềm tin trong cuộc sống và sống lạc quan hơn. Có lẽ cảnh cảm động nhất là giây phút nhân vật nằm trên giường và nói lời tạm biệt cùng vợ và đứa con của mình. Khoảnh khắc mà mỗi con người nhận ra rằng mình không thể níu giữ người thương yêu ở lại, mặc dù thân xác đó vẫn đang bên cạnh mình. Khi hơi thở hóa thinh không là một cuốn sách vô cùng đáng để đọc. Các bạn có thể học được rất nhiều điều từ cuốn sách và chiêm nghiệm về cuộc sống của mình. Từ cuốn sách này, bạn cũng có thể học cách sử dụng vốn thời gian sao cho có ích nhất để làm được nhiều việc nhất và rồi các bạn sẽ nhận ra rằng cái chết không hề đáng sợ như trong tưởng tượng, chỉ là một dấu gạch nối sự sống – cái chết.

Sau khi đọc xong tác phẩm này, mình có thể nói rằng nó chính xác là một tuyệt tác của nền văn học đương đại. Nó tách biệt hoàn toàn với những tác phẩm viết cho độc giả trẻ ngày nay, với cốt truyện, nhân vật và phong cách vô cùng độc đáo, mang đến những cảm xúc tuyệt vời. “Kẻ Trộm Sách” là một tựa sách kì lạ, kích thích sự tìm hiểu người đọc như tôi. Bối cảnh trong Thế chiến II, sự độc tài và tàn bạo của chủ nghĩa Phát- xít đứng đầu là Hitle không được thể hiện trực tiếp thông qua chiến tranh đẫm máu mà được kể dưới cái nhìn của Thần chết. Một lối dẫn truyện đặc biệt, độc đáo và tài tình. Đôi nét về tác phẩm Lấy bối cảnh ở những năm thế chiến thứ hai, cuốn sách nói về Liesel Meminger, một bé gái được nhận nuôi sống ở phố Thiên Đàng. Tại đây, cùng với tình yêu và sự đam mê đặc biệt đối với sách và từ ngữ, Liesel đã gắn kết con người mình với mọi người xung quanh cô. Lúc ấy Liesel Meminger mới chín tuổi. Bố mẹ ruột cô bé bị đưa đến trại tập trung, em trai đã chết trên đường cùng em đến nhà bố mẹ nuôi. Tại phố Thiên Đàng, ông bà Hans Hubermann đã nhận nuôi em. Cô bé lớn lên trong sự yêu thương của Bố, sự khắc nghiệt của Mẹ, sự khủng khiếp của bom đạn và sự cuốn hút của những quyển sách. Khi nhìn thấy những cuốn sách, Liesel Meminger luôn cảm thấy sự say mê đặc biệt: “Khắp nơi là sách! Trên mỗi bức tường là những chiếc kệ nhét đầy sách nhưng hết sức trật tự. Khó có thể nhìn thấy được lớp sơn tường. Chỉ có những con chữ theo phong cách và kích thước khác nhau trên gáy của những quyển sách màu đen, màu đỏ, màu xám, những quyển sách đủ màu. Đó là một trong những cảnh tượng đẹp đẽ nhất mà Liesel Meminger từng thấy. Con bé nở nụ cười kinh ngạc.” Tác phẩm Kẻ trộm sách của nhà văn Markus Zusak. Kẻ trộm sách là tác phẩm cuốn người đọc vào những cảm xúc nghẹt thở, muốn ngừng lại nhưng không thể nào đặt cuốn sách xuống được. Ta bắt buộc phải đi theo nó, đi đến cùng, đi đến cùng để rồi vỡ oà trong niềm thổn thức nghẹn ngào. Nếu như Leonard Cohen từng nói rằng “Chúng ta xấu xí thật đấy nhưng chúng ta vẫn còn âm nhạc.”, thì ở Kẻ trộm sách, bạn sẽ thấy rằng Markus Zusak nói với chúng ta về sự an ủi kì lạ và sống động của những cuốn sách. Nó đã giúp cô bé Liesel Meminger bồi đắp tâm hồn trong trẻo, giàu có. Sách đã giúp những người dân ở phố Thiên Đàng sống qua những thời khắc sợ hãi nhất của bom đạn, là sợi dây nối liền tình bạn kỳ lạ và đẹp đẽ của Liesel và Max, là ánh sáng lấp lánh theo Liesel trong suốt cuộc đời đằng đẵng,… Đó là một cuốn sách kỳ diệu, được kể bằng lời kể chuyện của Thần Chết, một hiện thân của những mất mát, chết chóc, đau buồn, tăm tối, và huỷ diệt. Nhưng sáng bừng lên giữa màu xám của cuộc chiến tranh khốc liệt ở nước Đức khi ấy, người đọc sẽ thấy được những điều tốt đẹp của con người, những điều sẽ sưởi ấm, xoa dịu bạn. Con người có lẽ là tạo vật kì lạ nhất trên thế giới này, như chính lời của Thần Chết khi kết thúc cuốn sách: “Tôi những muốn hỏi bà ấy làm sao mà một giống loài lại có thể vừa xấu xa vừa quá vĩ đại như vậy, và làm sao mà từ ngữ của giống loài ấy lại có thể vừa đáng nguyền rủa vừa thần diệu đến thế.” Dù lấy bối cảnh chiến tranh đầy khắc nghiệt, nhưng Markus Zusak đã đi sâu vào tâm trí con người, lẩy ra từ đầy những phiền muộn u tối để khơi dòng những điều đẹp đẽ nhất. Trong cuốn sách của ông, mỗi nhân vật đều được hiện diện bằng những vẻ đẹp của tình cảm đầy trìu mền. Độc giả sẽ nhớ mãi một Liesel say mê tưởng tượng, bố Hans với trái tim nhân hậu ấm áp, cậu bé tóc vàng Rud ngây thơ, thẳng thắn, đáng mến, chàng thanh niên Do thái Max, lặng lẽ nhưng nồng nhiệt… Nhà văn người Úc Marcus Zusak. Có thể nói Kẻ trộm sách là một trong những cuốn sách mà bạn có thể khóc, cứ thoải mái khóc trong khi đọc. Bạn nên đọc nó và để cho trái tim mình tan vỡ một chút. Bạn nên đọc nó để hiểu hơn về con người, về thứ còn đau đớn hơn nỗi nỗi đau, về cái chết, về chiến tranh, về tình yêu, về mọi thứ từ thứ điên rồ lớn lao nhất đến thứ nhỏ bé đơn giản nhất. Và hơn hết, cuốn sách tưởng chừng u ám này, lại có khả năng an ủi, nâng đỡ bạn trong những khi tuyệt vọng và cô độc. Chỉ cần đặt niềm tin vào cuộc đời, và theo đuổi cuộc đời này, bạn sẽ có môt kết cục đẹp đẽ như Liesel Meminger, như chính Victor Hugo đã từng nói rằng “Chính từ sách mà những người khôn ngoan tìm được sự an ủi khỏi những rắc rối của cuộc đời”. Cuộc đời của Liesel Meminger không phải là cuộc đời của một nhân vật cổ tích, nhưng cô đã tìm được sự an ủi, sự hồi sinh từ những cuốn sách, và cuộc đời cô sẽ khiến bạn tin vào những điều đẹp đẽ. Kẻ trộm sách được xuất bản vào năm 2005 và được dịch sang hơn 30 ngôn ngữ. Bên cạnh chiến thắng giải thưởng văn học tại Úc, cuốn sách còn giữ vị trí bán chạy số một trên Amazon và New York Time. Cuốn sách đã được chuyển thể thành một bộ phim cùng tên vào năm 2013. Tôi rất thích quyển sách này, một quyển sách tuyệt vời, một tuyệt tác của văn học hiện đại. Tôi thích ngôn ngữ nhẹ nhàng, không phô trương, mang nhiều hình ảnh trừu tượng, điều đó làm chiến tranh như đang hiện hữu, đang diễn ra khi tôi lật từng trang sách. Tôi thích cách trình bày của sách, in đậm những nội dung nổi bật, nhấn mạnh cái cần thiết, như mang khung cảnh cuộc sống thực vào lòng người đọc. Dù ngông cuồng, nhưng, đôi lúc tôi lại muốn sống giữa những năm tháng chiến tranh, để tận mắt chứng kiến, để gặm nhấm tội ác của con người.

Ngay từ khi sinh ra, những người Do Thái đã phải chấp nhận một số phận đầy bất công và phải chịu sự phân biệt đối xử, thậm chí có khi họ còn bị bắt đến những trại tập trung cùng nỗi ám ảnh về cái chết chỉ vì một lý do: họ là người Do Thái. Điều này xảy ra do sự tàn ác của Hitler và bọn Đức quốc xã. Chúng lãnh đạo chủ nghĩa phát xít tàn ác và khiến cho bao nhiêu người Do Thái tan nát gia đình, đến mạng sống cũng khó bảo toàn… Anne là người Do Thái. Cô bé và gia đình đều là nạn nhân của chiến tranh và chủ nghĩa phát xít. Mặc dù đã lẩn trốn khỏi bọn Hitler trong suất 2 năm nhưng cho đến cuối cùng, gia đình Anne và những người Do Thái trốn cùng họ đã bị bắt và đưa đến trại tập trung. Họ phải chịu bao nhiêu đau đớn, tra tấn và có khi đã phải đối diện với tử thần. Sau cùng, chỉ có bố của Anne là còn sống sót, còn lại bảy người kia đều đã chết vì sự tra tấn và ngược đãi trong trại tập trung. Cuốn nhật ký của Anne ghi chép lại những suy nghĩ của cô bé trong suốt hai năm sống trong căn hầm bí mật “Secret Annexe”. Ngoài ra, cô bé còn kể lại những sự việc xảy ra mà cô nghe ngóng được từ phía bên ngoài: tình hình của cuộc chiến tranh cũng như tin tức về những người Do Thái khốn khổ không thể có được một nơi trốn an toàn như Anne… Cuốn nhật ký Từ Chủ nhật ngày 14 tháng 6 năm 1942, cuốn nhật ký bắt đầu được ghi lại. Hai ngày trước đó là sinh nhật của Anne, cô bé được bố mẹ tặng một cuốn sổ để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 13 của mình và Anne đã bắt đầu viết nhật ký vào cuốn sổ này. Nhật ký của Anne không hề giống bất cứ một cuốn nhật ký nào. Anne coi đây là một người bạn thân thiết tên Kitty và viết thư cho Kitty mỗi khi có điều gì muốn kể với người khác. Mỗi trang nhật ký của Anne đều như đang kể lại câu chuyện cho người bạn thân của mình nghe vậy. Đây là điều khiến mình ấn tượng ở cuốn nhật ký này, nó không phải là lời tự sự khô khan mà là lời kể chuyện với một người bạn thân về cảm xúc và tâm tư của mình. Chuyện giữ thói quen viết nhật ký thật là kỳ lạ đối với một cô bé như tôi. Không phải chỉ bởi tôi chưa từng có thói quen này trước đây mà còn là bởi có lẽ chẳng ai mảy may quan tâm đến những chuyện nhỏ nhặt mà một đứa nhóc 13 tuổi viết vào nhật ký của nó. Dù sao thì điều đó đâu có quan trọng gì. Tôi muốn viết, và hơn thế nữa, tôi muốn ghi lại ở đây những điều từ tận đáy lòng mình. Anne Frank, 20/6/1942 Vào khoảng thời gian này, đạo luật chống lại người Do Thái của Hitler đã lan rộng. Những người Do Thái phải nộp lại xe đạp và họ không được phép sử dụng bất kì phương tiện giao thông nào. Người Do Thái không được ra khỏi nhà của họ từ 8 giờ tối đến 6 giờ sáng hôm sau, kể cả việc ngồi trong vườn nhà mình cũng không được phép. Không chỉ vậy, họ luôn phải đeo một ngôi sao vàng sáu cánh, không được đến rạp chiếu phim, hoặc nơi giải trí nào. Họ thậm chí còn không được tham gia vào các môn thể thao cộng đồng. Trẻ em Do Thái bị chuyển sang học ở trường dành riêng cho người Do Thái và vô vàn những điều cấm kị khác. Nếu bạn đọc hết những gì mà người Do Thái không được làm chỉ bởi vì họ sinh ra đã là người Do Thái thì bạn sẽ thực sự cảm thấy vô cùng phẫn nộ và bất công. Những điều Anne kể lại quá đỗi chân thực khiến cho mình vô cùng xúc động. Căn hầm bí mật Cuộc chiến tranh càng lan nhanh thì cuộc sống của những người Do Thái càng phải chịu nhiều sự phân biệt đối xử. Cho đến một ngày, giấy triệu tập được gửi đến cho Margot- chị gái của Anne để tới trại cải tạo bên trong nước Đức. Bố của Anne khi đó đã quyết định rằng cả gia đình họ và gia đình Van Daan- những người cũng đang gặp nguy hiểm, sẽ chuyển tới căn hầm bí mật và ẩn náu tại đó để vượt qua hiểm nguy. Gia đình Anne và Gia đình Van Daan đã sống trong căm hầm bí mật ấy trong suốt hai năm với sự giúp đỡ của bốn người đã từng là nhân viên cũ của bố Anne. Bốn con người tốt bụng ấy đã cung cấp đồ ăn, tin tức, sách báo, sách học tập cho Anne, Peter và Margot trong thời gian ẩn nấp. Căn hầm nơi mà Anne sống không hẳn là một “căn hầm”. Nó là những căn phòng không sử dụng đến nằm dưới mái của tòa nhà có 263 đường Prinsengracht. Ngày 11 tháng 7 Tôi không thể nói là tôi cảm thấy như ở nhà tại căn hầm này, nhưng tôi cũng không thể nói là tôi ghét nơi này, nó có vẻ giống một kỳ nghỉ kì lạ trong một căn nhà kì lạ thì hơn. Căn nhà thì ẩm thấp và nghiêng lệch, nhưng trong cả nước Hòa Lan, không có nơi ẩn núp nào tiện lợi hơn nơi này. Phòng ngủ của chúng tôi cho tới nay thì trơ trụi, nhưng nhờ có cha mang về các tờ báo điện ảnh, tôi có thể dán kín các bức tường bằng các hình đẹp mắt. Cuộc sống của Anne trong căn hầm mặc dù không phải đối diện với cái chết nhưng cũng chẳng mấy vui vẻ. Cô bé luôn bị mọi người so sánh với Margot- người chị xinh đẹp, hiền dịu và rất thông minh. Trong gia đình, Anne không hề thích mẹ của cô bé. Anne nói: “Tôi gần như thờ ơ với những giọt nước mắt của mẹ và ánh nhìn của cha.” (2/4/1943) Anne luôn nói rằng cô không hề trông mong điều gì từ mẹ mình nhưng cô lại luôn mong ngóng tình yêu thương mà người cha dành cho cô. Cô bé muốn cha mình yêu thương cô không phải chỉ bởi cô là con ông mà bởi vì cô là Anne chứ không phải ai khác. Người thứ tám Thứ năm, ngày 12 tháng 11 năm 1942 Gia đình Anne và gia đình Vandaan đồng ý cho Dussel- một bác sĩ nha khoa, vào ẩn nấp trong căn hầm cùng với họ và Dussel ở cùng phòng với Anne. Dussel kể cho mọi người về phía bên ngoài. Cuộc chiến ngày càng leo thang, giờ bọn Đức quốc xã đến gõ cửa từng nhà để tra xem có người Do Thái nào còn ẩn trốn ở đó không. Rất nhiều những người bạn của họ đã bị bắt đi, những số phận kinh khủng đang chờ họ phía trước. Vào lúc trời tối, tôi thường trông rõ nhiều hàng dài các con người vô tội bị dẫn đi. Họ đi vào cõi chết. Tôi cảm thấy mắc tội khi còn ngủ trên chiếc giường ấm áp và hết sức hãi hùng khi nghĩ đến các bạn thân hiện nay là nạn nhân của các con quỷ dữ tợn nhất trên mặt đất. Tất cả là nạn nhân, bởi vì họ là các người Do Thái”- (Thứ năm, ngày 19/11/1942) Anne là một cô bé nhân hậu. Cho dù đang sống yên ổn trong căn hầm của mình, Anne vẫn luôn canh cánh trong lòng về số phận những người bạn của mình- những con người khốn khổ không có một nơi để trốn. Thậm chí Anne đã không thể ngủ yên trong nhiều đêm khi cứ nghĩ mãi về điều đó. Bởi vậy, Anne quyết định sẽ không tự dằn vặt bản thân nữa, bởi cô bé nói rằng mình sẽ không thể mãi lo nghĩ cho người khác được… Căn nhà bị bán đi Cuộc sống của tám người trong căn hầm luôn phải cẩn thận hết sức để không bị những người bên ngoài phát hiện ra sự tồn tại của họ. Song họ cũng phải nhiều lần thót tim khi có người thợ mộc hay thợ sửa ống nước đến làm việc và kiểm tra tòa nhà. Một ngày nọ, căn nhà bị bán đi mà cô Miep- người luôn giúp đỡ gia đình Anne ẩn náu, không hề hay biết. Nhưng mọi chuyện cũng yên ổn qua đi bởi người chủ mới cũng không hề để ý đến sự tồn tại của căn hầm bí mật nơi tám người họ ẩn náu. Sự phát triển về tâm hồn Anne bắt đầu có những suy nghĩ về tình yêu. Trong nhật ký của mình, Anne thể hiện tình cảm mãnh liệt dành cho Peter, và mong muốn trở thành bạn gái của Peter. Ngày 7 tháng 1 năm 1944 Tôi vẫn còn nhìn thấy chúng tôi tay trong tay trên đường phố... Peter cao, đẹp, mảnh với khuôn mặt đoan trang, bình tĩnh và thông minh. Anh có tóc sậm màu, hai má nâu đỏ và cái mũi thanh. Điều mà tôi yêu quý nhất là nụ cười của anh, nụ cười làm anh có vẻ ranh mãnh và tinh nghịch. Tình cảm của Anne và Peter ngày càng tiến triển. Chính thứ tình cảm chớm nở đầu đời này đã khiến Anne trở nên vui vẻ và hạnh phúc hơn trong khoảng thời gian cô ẩn náu trong căn hầm này. Peter tỏ ra là một cậu chàng tốt tính và ấm áp. Cả hai đều từ từ nhận ra rằng họ có rất nhiều điểm chung và sở thích chung. Peter và Anne thường nói chuyện với nhau. Cậu kể cho cô bé nghe về bố mẹ mình, về chính bản thân cậu và về quá khứ cũng như những suy nghĩ trước kia của cậu về cô. Dần dần, Anne trở nên cởi mở hơn và cô quyết định sẽ kể với Peter nhiều hơn, để cậu hiểu cô hơn. Tôi có một cảm giác rằng tôi và Peter có chung nhiều điều bí mật. Mỗi khi anh ấy nhìn tôi với đôi mắt cười hấp háy tôi đều cảm thấy như có ánh sáng lóe lên trong lòng. Ước gì chúng tôi sẽ luôn như vậy và chúng tôi sẽ có thêm nhiều thời gian tuyệt vời bên nhau như ngày hôm nay. - (Chủ nhật ngày 19/3/1944). Ước muốn của Anne Anne luôn muốn trở thành nhà văn. Cô bé rất thích đọc sách. Tất cả những cuốn sách mà cô Miep mang tới, Anne đều đọc và nghiền ngẫm thật kỹ lưỡng. Tôi muốn trở thành một nhà văn. Tôi biết rằng tôi có thể viết văn. Tôi muốn tiếp tục sống sau khi qua đời! Và đây là lý do tại sao tôi biết ơn Thượng Đế vì đã cho tôi năng khiếu này, nhờ đó tôi có thể diễn tả những gì bên trong tâm hồn của tôi. Đây là những gì Anne viết trong nhật ký của mình. Ước muốn sống mãi của Anne có lẽ đã thực sự trở thành hiện thực bởi cuốn nhật ký của cô bé đã làm lay động bao trái tim của độc giả trên toàn thế giới. Lời kết Sau cùng thì Anne và những người Do Thái kia đều không thể thoát được số phận của người Do Thái. Vào ngày mùng 4/8/1944, bọn Gestapo được người chỉ điểm và vào căn hầm bắt hết tám người họ lại. Từ đó, họ bị đưa đến những trại tập trung. Bảy người đã chết trừ cha của Anne. Cuốn nhật ký được cô Miep tìm thấy trong căn hầm sau khi tám người bị đưa đi. Cô Miep đã không đọc cuốn nhật ký mà lưu giữ nó lại, định chờ Anne về sẽ trả lại cô bé. Nhưng sau cùng, Anne đã chẳng bao giờ có thể trở lại nữa… Tuy không thể sống sót, Anne vẫn để lại trên đời một cuốn nhật ký mang giá trị lịch sử to lớn. Cuốn “Nhật ký Anne Frank” là một cuốn sách đáng đọc để hiểu hơn về chế độ phát xít và nỗi khổ của những người Do Thái khi sống dưới chế độ tàn độc này.

Wilbur là một chú lợn đáng yêu sống ở trang trại nhà Zuckerman. Những tưởng chú sẽ vui hưởng thái bình mãi mãi thì một ngày nọ, chú nghe được tin người ta sẽ làm thịt chú trong lễ Giáng sinh. “Tôi muốn được sống cùng với tất cả bạn bè. Tôi muốn hít thở bầu không khí đẹp đẽ và nằm dưới ánh nắng đẹp đẽ”, Wilbur đã thốt lên như thế khi nghe được cái tin sét đánh ngang tai ấy. Và với tất cả sự tĩnh tại của một cô nhện thông thái, Charlotte – người bạn thân thiết nhất của Wilbur trong trang trại – đã trấn an cậu bằng một câu nói chắc nịch: “Cậu sẽ không chết”. Câu nói ấy đã giúp Wilbur bình tĩnh trở lại và tiếp tục vui sống; nó cũng chứng minh cho ý nghĩa cao quý của tình bạn – sẵn sàng hy sinh bản thân để giúp đỡ bạn bè. Tôi thích cái cách mà cô bé Fern bảo vệ cho quyền được sống của Wilburn ở đầu câu chuyện; trong con mắt của trẻ thơ, mọi vật đều bình đẳng như nhau, không phân biệt cao sang thấp hèn. Cách mà cô bé chăm sóc Wilbur cũng rất đáng yêu: cho chú lợn bú sữa bình, dẫn đi tắm bùn, dắt đi dạo, đặt vào trong xe nôi và đẩy đi cùng với búp bê. Wilbur lúc đó mới chỉ là một chú lợn con, và Fern đã đối xử với em như với một đứa bé con. “Và nếu nó mệt quá thể, nó sẽ nhắm nghiền mắt lại và ngủ thiếp đi dưới tấm chăn của búp bê. Trông nó thật duyên khi nó nhắm mắt, bởi lẽ mi nó thật dài. Con búp bê cũng nhắm mắt nữa và Fern sẽ đẩy xe rất chậm rất nhẹ để không làm thức giấc lũ nhỏ của cô.” Nhưng rồi ngày vui ngắn chẳng tày gang, Wilbur bị chuyển tới trang trại nhà Zuckerman. Rời xa người bạn duy nhất từ lúc mới chào đời, chú lợn con bơ vơ, cô đơn và lạc lõng trong môi trường mới. Chú đau khổ khi bị cầm tù trong chuồng, và những con vật ở trang trại cũng không chịu chơi với chú. Tình cảnh của Wilbur thật giống mấy em nhỏ phải chuyển tới trường mới, không tìm được bạn chơi với mình. Thế rồi đúng lúc đó, Charlotte xuất hiện, “Tôi sẽ là bạn cậu. Tôi đã quan sát cậu cả ngày và tôi thích cậu.” Chỉ một câu nói đó thôi cũng đủ khiến Wilbur an giấc đêm hôm đó, và rồi tình bạn giữa một chú lợn và một cô nhện đã bắt đầu. Cô ngỗng cái đã từng nhận xét về Wilbur như sau: “Cậu ta thật sự là một con lợn con quá ngây thơ”. Quả vậy, “ngây thơ” cũng là từ bật ra trong đầu tôi khi đọc những dòng mà E.B.White tả về chú lợn con. Tuy nhiên, Wilbur ngây thơ nhưng không hề ngốc nghếch; trái lại, cậu rất thông minh, nhạy cảm, và có nghị lực. Đó cũng chính là lý do tại sao Charlotte lại yêu mến Wilbur và sẵn sàng hy sinh cả tính mạng để cứu cậu. Khi Charlotte giăng mắc những từ để ca ngợi cậu như “lợn cừ, cực kỳ, ngời sáng, khiêm nhường”, Wilbur đã đỏ mặt vì sợ rằng mình không có được những phẩm chất ấy. Nhưng sau đó cậu đã cố hết sức thể hiện mình, biến bản thân trở nên xứng đáng với những lời ca tụng đó. “Khi mạng nhện của Charlotte viết LỢN CỪ, Wilbur cố lắm để nom giống như lợn cừ. Khi mạng nhện của Charlotte viết CỰC KỲ, Wilbur đã cố để trông thật cực kỳ. Và giờ đây, khi mạng nhện viết NGỜI SÁNG, nó làm mọi thứ có thể để cho người nó sáng lên. Để trông ngời sáng là điều không dễ tí nào, nhưng Wilbur đã quyết làm điều đó bằng cả ý chí bản thân.” Đây là điều mà tôi rất khâm phục Wilbur. Và sau này, kể cả khi đã trở nên nổi tiếng và được nhiều người chú ý, Wilbur vẫn không hề tự cao tự đại. Cậu vẫn khiêm tốn vô cùng, và vì lẽ đó mọi loài vật trong trang trại đều yêu quý cậu. Charlotte, như một người chị lớn của Wilbur, chậm rãi, tĩnh tại và có phong cách sống riêng. Trong lúc vẫn đang suy nghĩ cách để cứu lợn con, chị vẫn động viên cậu phải bồi bổ cơ thể, ngủ đẫy vào và vứt hết mọi ưu phiền đi, đừng có cuống lên và đừng có lo lắng, hãy béo ra và khoẻ lên, phải sung sức và đừng mất bình tĩnh. Quả là những lời khuyên quý giá. Đúng vậy, nếu cứ để mặc bản thân ốm o gầy mòn thì có ích gì cơ chứ; chi bằng cứ chăm sóc bản thân cho thật tốt để chờ thời cơ đến. Kể cả sau này, khi đã gần như kiệt sức vì phải giăng mắc tơ nhện để cứu Wilbur, thì hàng đêm Charlotte vẫn nhẫn nại kể chuyện cho Wilbur nghe, hát ru cậu ngủ. Đỉnh điểm của sự hy sinh là khi Charlotte biết mình không còn sống được bao lâu, và đã có ý định ở lại trang trại để sinh con. Nhưng cuối cùng, chị vẫn theo Wilbur đi hội chợ để trợ giúp cậu, và cuối cùng chị đã không bao giờ có thể trở lại trang trại. “Chị cảm thấy mình đang kiệt sức và già cỗi, nhưng cuối cùng thì chị đã biết chắc chắn chị đã cứu sống được Wilbur, và chị cảm thấy thanh thản và mãn nguyện.” Cái chết của Charlotte làm người đọc nghẹn ngào và xúc động, nhưng nó cũng là minh chứng cao quý nhất cho tình bạn cao đẹp. Đọc “Charlotte và Wilbur”, người ta không chỉ cảm động trước tình bạn của hai nhân vật chính, mà còn thích thú với những đoạn E.B.White mô tả phong cảnh nông thôn và trang trại Mỹ. White đã từng nuôi động vật trong trang trại của mình ở Maine, và một vài sinh vật đó đã trở thành những nhân vật trong các truyện và sách của ông. Tôi nghĩ chắc ông phải yêu động vật lắm nên mới có thể làm cho mỗi loài vật trong “Charlotte và Wilbur” đều có một cá tính riêng: Wilbur ngây thơ, Charlotte cao thượng, vợ chồng nhà ngỗng tốt tính nhưng lắm lời, cừu thông thái, gã chuột Templeton xảo trá. Tất cả những con vật đó đều đã tạo thành một trang trại nhà Zuckerman với phong cách đặc trưng không lẫn đi đâu được. Kể từ khi ra đời năm 1952, “Charlotte và Wilbur” đã luôn là tác phẩm kinh điển của văn học thiếu nhi Mỹ. Tờ The Times Literary Supplement nhận xét đây là “một cuốn sách xuất chúng dành cho thiếu nhi”. Năm 1970, E.B. White đã nhận huy chương Laura Ingalls Wilder cho những cống hiến nổi bật của ông đối với văn học thiếu nhi. Tôi không bao giờ cho rằng người lớn thích đọc truyện thiếu nhi là một biểu hiện của sự ấu trĩ cả. Việc làm người lớn đôi khi khiến chúng ta quên mất những giá trị cơ bản của cuộc sống, và đọc sách thiếu nhi là cách gợi nhớ rằng bản thân người lớn cũng đã từng là những bé con. Isaac Bashevis Singer, nhà văn người Do Thái đoạt giải Nobel Văn chương năm 1978, đã từng nói: “Rất lâu sau khi văn học dành cho người lớn sụp đổ, văn học dành cho trẻ em sẽ vẫn còn là tượng đài cuối cùng của nghệ thuật kể chuyện, logic, niềm tin vào gia đình, tôn giáo và tính nhân văn đích thực.” Và tôi thực sự rất biết ơn E.B.White vì đã mang đến cho trẻ em khắp thế giới một tuyệt tác bất hủ về tình bạn. Charlotte và Wilbur sẽ luôn sống mãi trong lòng tôi như một minh chứng cao đẹp nhất của của tình yêu thương và sự hy sinh cao cả.

Thế nào là một tình bạn “đáng có” trong đời? Charlotte là một nàng nhện và Wilbur là một chú lợn. Ôi thế thì là sao mà lợn lại chơi với nhện được nhỉ??? Tác phẩm là thông điệp của lòng yêu thương, sự thủy chung son sắt. Điều đó mang lại sự tươi mới cho Charlotte và Wilbur và được hàng triệu độc giả trên thế giới chia sẻ. “Điều cuốn sách kể chính là tình bạn ở trên đời, yêu mến và bảo vệ, phiêu lưu và phép lạ, sống và chết, lòng tin và bội phản, sung sướng và đau khổ, và sự trôi đi của thời gian. Là một tác phẩm thì nó gần như hoàn hảo, và gần như kỳ diệu trong cái cách nó tựu thành.” – (Eudora Welty, The New York Times Book Review) Sách dành cho ai??? Sách dành cho thiếu như nhưng người lớn cũng rất nên đọc. Có gì thú vị trong câu chuyện tình bạn đặc biệt này? Wilbur là một chú lợn kẹ trong đàn lợn con nhà Fern. Bố Fern định giết Wilbur vì nó còi cọc quá nghĩ nó chẳng lớn nổi nhưng Fern nói “bố là như thế là không công bằng” và xin bố cho nuôi Wilbur. Vậy là hằng ngày Fern được cho Wilbur bú sữa bình, tắm cho Wilbur rồi cho bạn năm xe nôi đi dạo cùng em búp bê. Fern thậm chí còn mang Wilbur đến trường và cho Wilbur đi ngủ cùng cơ. Cuộc sống của Wilbur thật bình yên và hạnh phúc nếu được mãi như thế. Nhưng một ngày kia, bố bảo Fern là cần bán Wilbur thôi vì bạn lợn đã lớn rồi. Ban đầu Fern không đồng ý nhưng sau đó Fern biết có thể bán Wilbur cho chú Homer và hằng ngày đi học về vẫn được đến thăm Wilbur thì Fern đồng ý. Cuộc đời của Wilbur sang trang mới, Wilbur được sống trong nông trại nhà Zuckerman với các bạn cừu, ngỗng, ngựa, bò… Bạn – một người sẽ đến để lắng nghe mình Cuộc sống ban đầu ở đó khiên Wilbur chán ngắt, bạn lợn chỉ chờ đợi đến chiều chiều Fern sang và ngồi chiếc ghế gỗ cạnh khu chuồng ngắm mình. Chán đến nỗi mà Wilbur thốt lên “Mình mới chỉ là chú lợn hai tháng tuổi mà sao mình đã chán cuộc đời thế này”. Rồi nghe theo lời ngỗng, Wilbur có một màn phá chuồng để khám phá thế giới bên ngoài nhưng chẳng mấy chốc sau Wilbur đã quay về bình yên theo hương thơm từ xô cám của ông Homer Zuckerman và chàng lợn ngẫm nghĩ – mình còn quá nhỏ bé giữa không gian rộng lớn, mình thấy chốn chuồng này bình an hơn. Wilbur muốn rủ các con vật khác chơi cùng nhưng ai cũng bận với công việc của mình: ngỗng thì ấp trứng, cừu dê thì chẳng buồn chơi với lợn… Thế rồi vào một ngày lúc chập tối có tiếng của ai đó vang lên: “Chào mừng, tôi muốn chơi với cậu, nhưng giờ cậu hãy ngủ đi, sang mai thức giấc, cậu sẽ biết tôi là ai.” Chị nhện Charlotte đến với Wilbur như thế. Chị nhện kể cho Wilbur cách chị di chuyển, giăng mạng, bắt mồi và hút máu các con côn trùng như thế nào. Ban đầu Wilbur có vẻ kinh hãi nhưng sau chàng suy nghĩ lại nếu không có chị nhện chắc khu chuồng kho này ruồi muỗi sẽ kín mít. Từ đó Wilbur có người tâm tình, trò chuyện, thậm chí hát ru cho, thế nên cuộc sống của anh chàng lợn trở nên vui vẻ và tuyệt hơn bao giờ hết. Tình bạn là sự cảm thông, sẻ chia và hi sinh Một ngày kia, Wilbur nghe được tin, mình sẽ bị giết thịt vào dịp lễ Giáng sinh. Wilbur không muốn tin và vô cùng đau khổ. Lúc này, Charlotte bình tĩnh hơn cả và nói rẳng “tôi sẽ cứu cậu” dù chị cũng chưa nghĩ ra được cách gì. Một con nhện thông minh, khéo léo và vì bạn đến mức nào thì khi đọc cuốn sách này mẹ con mình mới biết và cảm nhận được 🙂 và trong mắt một con nhện thì con người “cũng dễ dính chiêu lừa” thôi :). Charlotte bằng những dây tơ mềm mại mà đầy quyền lực của mình đã giăng những chữ như những lời đánh giá về chàng lợn Wilbur (lần lượt “LỢN CỪ”, “CỰC KỲ”, “NGỜI SÁNG”) vào những thời điểm khác nhau. Những từ ngữ ấy nằm trên mạng nhện với những giọt sương đêm lấp lánh đọng lại mới vi diệu làm sao, nó giống như những tín hiệu thần linh cho biết “đây không phải là con lợn bình thường” (trong suy nghĩ của con người). Còn các con vật ở khu chuồng ấy thì cười thầm khi người người khắp các nơi xa gần trong vùng đến xem sự kiện lạ lùng này. Wilbur trở nên nổi tiếng trên các mặt báo như thế và chàng lợn cũng cố gắng ăn uống, tập luyện, cư xử cho hợp với những từ ngữ bạn mình giăng cho. Cô bé Fern rất tự hào về Wilbur và cô bé cũng chính là người duy nhất có khả năng ngồi yên lặng nhiều giờ ngắm nhìn và nghe những cuộc trò chuyện của các con vật (đến nỗi mẹ cô sợ cô không bình thường). “Người lớn chúng ta thường nói nhiều và nói to quá nên nhiều khi chúng ta không nghe được các âm thanh như bọn trẻ có thể nghe”. Nói đến chuyện giăng chữ thì phải kể đến công của chú chuột hôi rình, ăn tham Templeton. Anh chuột này rất được việc nhưng muốn anh ta giúp việc gì thì đều phải thương lượng với vật phẩm hứa hẹn liên quan đến chuyện ăn uống. Anh ta sẵn lòng đi tìm những mảnh báo để có chữ hay cho Charlotte giăng nhưng Wilbur cũng phải nhường phần ăn cho anh ta; rồi sau anh ta đi hội chợ cùng Wilbur để giúp việc lấy chữ cũng vì món hời từ những thức ăn rơi vãi đầy hội chợ… Đến gần cuối chuyện, anh ta giúp lấy bọc trứng của Charlotte để Wilbur mang về khu chuồng trại, đổi lại mỗi lần đến bữa, Wilbur phải cho anh chuột ăn no nê trước rồi mình mới được ăn. Với những chuyện kì lạ như trên, ông Zuckerman quyết đinh mang Wilbur đến hội chợ Hạt mùa thu để tranh giải. Trước khi đi, Wilbur được bà Zuckermann tắm sữa và nó thực sự trở nên mượt mà và người sáng. Charlotte dù đang yếu vì chuẩn bị đẻ trứng nhưng vẫn cố đi cùng Wilbur, và cả hội động vật phải năn nỉ anh chuột Templeton đi cùng để hỗ trợ. Con lợn chuồng bên cạnh to mập hơn Wilbur rất nhiều nhưng Charlotte vẫn động viên và đánh giá cao Wilbur. Charlotte nhờ chuột Templeton đi lấy chữ và chị nhện nói đây có lẽ là chữ cuối cùng chị giăng cho Wilbur. Đó là chữ “KHIÊM NHƯỜNG” – rất đúng với Wilbur. Mặc dù nhãn xanh giải nhất đã gắn cho con lợn chuồng bên cạnh nhưng nhờ có phép màu kì lạ kia, Wilbur vẫn được ban tổ chức trao một giải đặc biệt. Đó là một sự đảm bảo Wilbur không bao giờ bị giết và có thể sống dài lâu bình yên ở khu chuồng. Mọi sự tưởng như trở nên vô cùng tốt đẹp thì chị nhện Charlotte quá yếu, chị đã sinh một bọc trứng to hơn 500 quả và dùng hết những dây tơ cuối cùng để làm lớp vỏ bảo vệ chắc chắn chống thấm nước cho bọc trứng và bây giờ chị không đủ sức để về lại trang trại. Chị nói với Wilbur chị chẳng bao lâu sẽ chết và chị hạnh phúc khi làm bạn với Wilbur, chuyện trò và làm những điều tốt đẹp cho chàng lợn. Wilbur lúc này rất hụt hẫng, đau khổ những vẫn nhanh trí năn nỉ chuột Templeton lấy giúp bọc trứng nhện để Wilbur mang về khu chuồng chăm sóc. Wilbur ngậm bọc trứng vào miệng nên chỉ có thể nói “tạm biệt” với Charlotte bằng ánh mắt. Charlotte mắt rưng rưng nhưng chị biết rằng các con chị đã được an toàn. Chẳng ai biết rằng có một con nhện đã chết cô đơn ở hội chợ tàn ngày sau đó. Bạn – sự nối dài yêu thương còn mãi Charlotte không trở về khu chuồng kho, các con vật đều nhìn lên cái mạng nhện của chi lòng rưng rưng (đoạn này khi xem phim hai mẹ con mình đều khóc). Mùa thu qua, mùa đông tới, Wilbur được nếm tuyết và nhìn cảnh sắc đổi thay từ trong chiếc chuồng ấm áp. Wilbur vẫn ngày ngày chăm lo cho bọc trứng nhện được đủ ấm và chờ mùa xuân sang. Những chú nhện con lần lượt chui ra từ bọc trứng cùng với dây tơ tung tăng khắp khu chuồng rồi khi có gió tới chúng như những chiếc dù theo gió bay đi xa đi xa. Wilbur nói với nhện con “ta là mẹ của các cháu, cả cuộc đời của ta là dành cho mẹ của các cháu”. Khi lần lượt nhện con chào tạm biệt rồi bay đi, Wilbur rất sốc, cứ luôn mồm “các cháu biết đi đâu mà đi….”…rồi sau đó Wilbur lại vô cùng sung sướng vì có 3 bạn nhện thích khu chuồng và ở lại. Chúng giăng những mạng đẹp ngay góc cửa chuồng Wilbur và làm bạn với Wilbur. Thế rồi Wilbur cứ làm bạn với con, cháu, chắt…của Charlotte và không bao giờ quên được chị nhện. Hai mẹ con mình mất hơn 1 tuần trên tàu đọc mới xong cuốn sách vừa vui vẻ, hài hước vừa tràn đầy tình yêu mến và bao nhiêu điều lý thú về những bạn động vật. Vì đọc không chỉ là đọc, bạn nhỏ còn hỏi han bao nhiêu thứ rồi cả hai bàn luận, dự đoán các tình huống… Buồn cười đến nỗi, sáng nào đi học bạn nhỏ cũng gặp một con chuột gần ga tàu và bạn gọi nó là Templeton luôn :). Sau đó mẹ tìm được đĩa phim (tiếng Đức) cho bạn nhỏ xem thì còn tuyệt hơn nữa. Phim không kể hết được những điều sách viết nhưng sinh động và đầy cảm xúc. Cả sách và phim đều rất hay!!! Thật đấy!

- Tớ nên đi con đường nào bây giờ? - Điều đó tùy thuộc vào việc cậu muốn đến đâu. - Tớ thật sự chẳng quan tâm lắm về cái nơi mà mình muốn đến. - Thế thì cậu cũng không cần quan tâm là nên đi đường nào! Một khi mà cậu đã không quan tâm đến cái nơi mà mình tới thì đi đường nào mà chẳng được! Nhắc đến “Alice ở xứ sở diệu kì”, chắc hẳn chúng ta đều quen thuộc với hình ảnh một cô bé nhỏ nhắn, mặc chiếc váy xanh tung tăng giữa ngàn vạn biến hóa của một xứ sở diệu kì. Nhưng câu chuyện đầy màu sắc ấy thực ra lại chỉ là bản tóm tắt của một tiểu thuyết dành cho trẻ em trứ danh của nước Anh - “Alice’s Adventure in the Wonderland” (Tạm dịch: Cuộc phiêu lưu của Alice vào Xứ Sở Thần Tiên). Mặc dù cuốn sách được Lewis Carrol viết ra để dành cho thiếu nhi, song khi đã trưởng thành, đọc lại câu chuyện về Alice, người đọc sẽ thấy được những thông điệp phía sau tấm màn lung linh của cổ tích. Một ngày nọ, Alice - cô bé mới khoảng mười tuổi cảm thấy thật nhàm chán khi cứ ngồi im bên cạnh chị gái trong chuyến đi dã ngoại. Một đứa trẻ không hứng thú với sách sẽ chuyển hướng chú ý của mình sang thứ khác, và Alice cũng vậy. Cô bé cảm thấy làm một vòng hoa bằng hoa cúc có lẽ sẽ thú vị hơn, và trong khi đưa mắt tìm hoa, Alice thấy một chú thỏ trắng. Thỏ thì cũng thường thôi, nhưng bạn đã bao giờ nhìn thấy một con thỏ trong bộ tuxedo, nhìn một chiếc đồng hồ quả quýt và liên tục kêu “Ôi muộn rồi ôi muộn rồi” chưa? Chắc hẳn là chưa phải không? Và Alice cũng vậy. Tính tò mò khiến Alice không ngần ngại chạy theo chú thỏ, và đó cũng là cách chuyến phiêu lưu của Alice bắt đầu. Cô bé rơi xuống một chiếc hang sâu hun hút, tưởng như sẽ đi được vào tâm của Trái Đất. Đó mới chỉ là bắt đầu. Những phần tiếp theo của cuộc phiêu lưu mới thực sự khiến người đọc không thể rời mắt: Một chiếc phòng kì lạ, những món ăn kì lạ, một gia đình cau có, một chú mèo nhăn nhở, một con sâu bợm nhậu, một bữa tiệc say khướt, và những quân bài, và hoàng hậu, đức vua, và trò chơi cricket,... Những bước chân lang thang vô định của Alice đưa người đọc đi khắp xứ sở diệu kì bằng những bất ngờ không thể đoán trước. Đối với Alice, đây quả thực là một nơi mới mẻ. Chỉ mới mười tuổi và sống trong một gia đình gia giáo ở nước Anh, lần đầu tiên Alice được tiếp xúc với nhiều thứ kì lạ đến như vậy. Và càng kì lạ hơn khi dường như ở thế giới này, tất cả những chuyện mà Alice cho là “hư hỏng quá mức” ấy lại được coi là điều bình thường, hiển nhiên. Chuyến phiêu lưu kì lạ của Alice kết thúc đơn giản bằng việc cô bé tỉnh dậy khỏi giấc mơ. Thật là một giấc mơ kì lạ. Đối với thiếu nhi, “Alice ở xứ sở diệu kì” luôn là một ao ước đẹp đẽ vô cùng. Có đứa trẻ nào lại từ chối một cơ hội tuyệt vời như vậy? Còn đối với người lớn, “Alice ở xứ sở diệu kì” luôn là cuốn sách mang lại nhiều tranh cãi. Khi ra đời vào khoảng giữa thế kỉ thứ mười chín, câu chuyện về Alice được đón nhận một cách đơn thuần như câu chuyện dành cho thiếu nhi. Rất nhiều năm sau, “Alice ở xứ sở diệu kì” bắt đầu gợi cho người lớn những suy nghĩ sâu xa hơn về từng chi tiết trong câu chuyện. Nếu đặt tác phẩm vào khoảng thời gian ra đời của câu chuyện, từng nhân vật, chi tiết trong “Alice ở xứ sở diệu kì” đều mang ám chỉ một cách mạnh mẽ. Liệu Alice đã đi vào “Wonderland” (xứ sở diệu kì) hay cô bé đã đi lạc vào “Underland” (xứ sở đen tối)? Đặt câu hỏi như vậy vì dường như câu chuyện chỉ ra quá rõ ràng những tiêu cực của xã hội. Người ta thư thả hưởng thụ cuộc sống êm đềm như cách Alice rơi qua chiếc hang, và đột ngột đối mặt với hiện thực như cách cô bé đột ngột rơi xuống đất. Có những cánh cửa khiến người ta phải “bé lại” hoặc “to ra” mới có thể đi qua, có những cuộc thi vô nghĩa và phi lí đến cùng cực, có những tay bợm nhậu trong dáng vẻ cao quý, có những thứ quyền thế vô lí như Nữ hoàng Cơ, có những người bị khinh rẻ như quân bài, và có những kẻ đi lạc như Alice. “- Tớ nên đi con đường nào bây giờ? - Điều đó tùy thuộc vào việc cậu muốn đến đâu. - Tớ thật sự chẳng quan tâm lắm về cái nơi mà mình muốn đến. - Thế thì cậu cũng không cần quan tâm là nên đi đường nào! Một khi mà cậu đã không quan tâm đến cái nơi mà mình tới thì đi đường nào mà chẳng được!” Câu nói nổi tiếng của mèo Cheshire - một con mèo trông có vẻ không đáng tin chút nào thực ra lại là người luôn thầm lặng giúp đỡ Alice chạy trốn khỏi nơi mà cô bé không thuộc về. Thậm chí cho tới ngày nay, câu nói còn khiến nhiều người trong chúng ta giật mình khi nó là một câu nói đánh mạnh vào những người sống mơ hồ, sống không mục đích, không mục tiêu. “Alice ở xứ sở diệu kì” còn nhắc người ta hãy tin vào bản thân mình, đừng nghe những lời vo ve từ những kẻ không có ý định tốt lành. Có người sẽ nói “Alice ở xứ sở diệu kì” vốn dĩ chỉ là một câu chuyện cho thiếu nhi, tại sao người ta cứ cố áp đặt một ý nghĩa vào nó để làm gì. Thực ra từ đầu tới cuối, chuyến phiêu lưu của Alice vẫn không hề thay đổi, vẫn là con đường ấy, nhưng ở mỗi thời đại, người ta lại có một góc nhìn, cảm nhận khác về ý nghĩa câu chuyện là vì sao? Vì ở thời điểm nào, câu chuyện cũng bộc lộ được ý nghĩa sâu sắc và nhân văn của nó. Đó cũng là đặc trưng của những tác phẩm bất hủ, sống qua nhiều thời đại, sống với nhiều số phận con người. Còn bạn thì sao? Bạn còn chần chừ gì mà chưa đi cùng Alice vào thế giới mới, để cảm nhận bài học cho chính mình?